Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp quận thanh xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.08 KB, 82 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đã bước sang một thiên niên kỷ mới với rất nhiều
cơ hội và thách thức, trên con đường chuyển từ nền kinh tế
tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô của
Nhà nước thì nhu cầu về vốn để phục vụ cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là vô cùng quan trọng và hết sức cần
thiết.
Để đạt được điều này thì phải có một tổ chức có khả năng
đứng ra thực hiện chức năng tiếp nhận và phân phối các
nguồn vốn trong xã hội-đó là các Ngân hàng. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế , ngành Ngân hàng đã đóng góp
không nhỏ những thành tựu của mình vào thành tựu chung
của đất nước. Với vai trò là một trung gian tài chính, cung cấp
vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư, góp phần tăng trưởng
kinh tế , hệ thống Ngân hàng đã không ngừng đổi mới, hoàn
thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của mình một cách có cơ sở
khoa học . Nhất là từ khi hệ thông Ngân hàng hoạt động theo
cơ chế Ngân hàng hai cấp thì vai trò của Ngân hàng ngày
càng được thể hiện theo hướng tích cực .
Một trong các Ngân hàng thương mại quốc doanh được thành
lập đó là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam.Trong quá trình hoạt động , Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn việt nam đã phát triển và có sự đong góp
của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp quận Thanh Xuân-trực


thuộc Ngân hàng và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội .
Để tiếp tục vươn lên mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao
chất lượng đầu tư tín dụng thì việc tìm ra nguyên nhân, tồn tại
để từ đó mà đưa ra được những giải pháp và hướng đi cho chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp quận Thanh Xuân là hết sức


cần thiết đó là việc nâng cao chất lượng tín dụng, tăng mức
đầu tư, giảm dơ nợ qú hạn, tăng thu nhập cho cán bộ công
nhân viên và tăng tích luỹ cho Ngân hàng là việc làm hết sức
cần thiết.
Từ nhận thức trên, với những kiến thức đã lĩnh hội được trong
quá trình học tập tại trường, qua các tài liệ tham khảo, kết hợp
với thời gian 2 tháng thực tập tại Ngân hàng nông nghiệp
quận Thanh Xuân, tôi quyết định chọn đề tài:
“Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp quận Thanh Xuân”,
làm chuyên đè tốt nghiệp. Do kinh nghiệm thực tế chưa
nhiều, thời gian hạn chế, cho nên bài viết không tránh khỏi
những sai xót . Vì vậy , tôi kính mong có được sự góp ý chân
thành của các thầy cô giáo trong học viện và các cô chú cán
bộ công nhân viên trong cơ quan- nơi tôi thực tập để bài viết
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.


CHƯƠNG I
TÍN DỤNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA TÍN DỤNG
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I/ TÍN DỤNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG
1/ Tín dụng là gì ?
Theo quan điểm của Mác thì “ tín dụng là quá trình
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
đến người sử dụng , sau một thời gian nhất định sẽ thu hồi lại
một lượng giá trị lớn hpn giá trị ban đầu”.
Tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn và hoàn trả. Trong

quan hệ này thể hiện các nội dung sau:


+ Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá
trị nhất định.
+ Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian
nhất định , sau khi khoản vay đó hết thời hạn sử dụng theo
thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người đi vay phần
vốn gốc cộng với khoản phí cơ hội mà người cho vay mất đi
khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt hơn.
+ Giá trị được hoàn trả thường lớn hơn lúc hai bên kí kết hợp
đồng tín dụng .
Tín dụng Ngân hàng có thể hiểu là quan hệ tín dụng
giữa Ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các cá nhân,
các nhà sản xuất kinh doanh, được cung cấp dưới hình thức
tiền tệ và bút tệ :
+ Cho vay dưới dạng tiền tệ .
+ Người cho vay là các Ngân hàng, tổ chức tín dụng còn
người đi vay là các cá nhân, các doanh nghiệp .
+ Quá trình vận động của tín dụng Ngân hàng không hoàn
toàn phù hợp với qui mô phát triển sản xuất và lưu thông hàng
hoá .
Trong quan hệ tín dụng Ngân hàng , Ngân hàng đóng vai trò
là một tổ chức trung gian với tư cách vừa là người đi vay, vừa
là người cho vay :
+ Là người đi vay, ngoài vốn tự có, Ngân hàng còn huy động
các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để hình thành nên nguồn
vốn tín dụng.



+ Là người cho vay, Ngân hàng sử dụng nguồn vốn của mình
đáp ứng mọi nhu cầu về ngắn- trung-dài hạn của mọi thành
phần kinh tế .
Ngân hàng cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào,
muốn thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh thì ngay
từ khi hình thành đều phải xác định được hướng đi cho mình.
Vì vậy mỗi Ngân hàng phải hoạch định sao cho chi phí đầu
vào thấp nhất, rủi ro thấp nhất và đạt được lợi nhuận cao nhất.
Các Ngân hàng phải luôn luôn quan tâm tới hoạt động huy
động vốn và hoạt động điều phối các vốn huy động đó, bởi
Ngân hàng có chức năng là chiếc cầu nối giữa những chủ thể
có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và những chủ thể thiếu hụt
tạm thời về vốn .
2/Các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại.
2.1/Chức năng trung gian tín dụng.
Trong giai đoạn đầu, quan hệ tín dụng trên thị trường tài
chính là quan hệ tín dụng trực tiếp giữa những người có tiền
nhàn rỗi và nhưngx người cần vốn.Thực tế quan hệ tín dụng
này đã gặp rất nhiều khó khăn cản trở như khó có điều kiện
tiếp xúc, điều kiện phù hợp về khả năng cung ứng cùng nhu
cầu của một khoản tín dụng cả về số lượng và thơì gian,
không gian, vấn đề tin cậy...dẫn đến chi phí phải bỏ ra của hai
bên là rất lớn.Tình hình này tất yếu sẽ sản sinh ra một trung
gian tài chính với khả năng thu hút những khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội, hình thành quỹ tập trung thông qua tài


khoản tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiền gửi thanh toán, phát
hành các giấy tờ có giá...Từ đó đáp ứng được nhu cầu bổ
xung vốn của người đi vay.Nhờ chuyên môn hoá, các trung

gian tài chính này có thể giảm được chi phí giao dịch, mức độ
rủi ro xuống mức thấp có thể, góp phần thúc đẩy tốc độ tăng
trưởng kinh tế, tăng hiệu quả của đồng vốn lưu thông trên thị
trường. Điển hình của nhữnh trung gian tài chính đó là ngân
hàng thương mại.
Khi thực hiện tốt các chức năng trung gian tín dụng thì
NHTM trở thành”Bà đỡ” cho các dự án kinh tế, tức là biến
những ý tưởng kinh doanh thành các dự án có tính hiện thực,
khả thi cao.
2.2/Chức năng trung gian thanh toán.
Khi hệ thống NHTM ra đời và phát triển, trong quá trình
thực hiện chức năng trung gian tín dụng , hệ thống NHTM đã
thu hút đại bộ phận các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế mở
tài khoản và sử dụng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng .
Việc thanh toán chi trả tiền về hàng hoá, dịch vụ hay các
khoản tiền của doanh nghiệp, các cá nhân đều được chuyển
giao cho Ngân hàng thực hiện. Điều này có ý nghĩa rất lớn
trong việc thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, tiết kiệm
chi phí giao dịch, tạo cơ sở cho Ngân hàng thực hiện các
nhiệm vụ cho vay, đồng thời kiểm soát được lượng tiền cung
ứng trên thị trường.


Qua thực hiện các nghiệp vụ thanh toán ,Ngân hàng đã trở
thành người “thủ quỹ” của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế, các cá nhân trong xã hội. Các giao dịch thanh toán giữa
các doanh nghiệp, cá nhân thông qua tài khoản tiền gửi thanh
toán tại Ngân hàng mà không cần thanh toán trực tiếp bằng
tiền mặt nữa. Doanh nghiệp, cá nhân ra lệnh choNgân hàng
thực hiện các khoản chi trả đồng thời uỷ nhiệm cho cácNgân

hàng thu nhận các khoản tiền .
2.3/Chức năng tạo tiền .
Tạo tiền là chức năng quan trọng của NHTM, chức năng
này được thực hiện thông qua các hoạt đong tín dụng và đầu
tư của các Ngân hàng Thương mại trong mối quan hệ với
Ngân hàng Trung ương đặc biệt trong quá trình thực thi chính
sách tiền tệ.
Việc cung tiền cần được bảo đảm bình thường cho lưu thông.
Nếu cung tiền quá nhanh sẽ gây tác động tiêu cực cho nền
kinh tế. Mục đích của chính sách tiền tệ là thông qua các
NHTM đưa ra khối lượng tiền cung ứng phù hợp vơí chính
sách ổn định giá cả, thực hiện sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho người lao động . Các NHTM
đóng vai trò quan trọng trong thực hiện các chính sách tiền tệ,
được coi là một kênh dẫn vốn mà qua đó tăng-giảm lượng tiền
lưu thông.
3. Vai trò của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế.


Là một ngành kinh doanh đặc biệt, hoạt động của Ngân
hàng Thương mại có những đặc thù riêng gắn lền với loại
hàng hoá đặc biệt đó là tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt đọng của NHTM rất đa
dạng và phong phú, nó đóng vai trò quan trọng đến sự phát
triển của nền kinh tế và được thể hiện ở những khía cạnh sau :
3.1.Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Trong xã hội luôn luôn tồn tại tình trạng thừa và thiếu vốn
tạm thời.Những tổ chức , cá nhân có tiền nhàn rỗi tạm thời thì
muốn bảo quản số tiền một cách an toàn và hiệu quả nhất,
trong khi đó có những cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn thì

muốn vay được những khoản vốn nhằm phục vụ cho hoạt
đọng kinh doanh của mình như sản xuất và tái sản xuất.Từ
các nhu cầu đó, NHTM đã đứng ra tập trung vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho các nhu cầu của nền
kinh tế, qua đó chuyển tiền thành tư bản đẻ đầu tư phát triển
sản xuất và tăng cường hiệ quả hoạt động cuả đồng vốn.
Như vậy, NHTM trở thành một trung gian tài chính tốt nhất
thực hiện chức năng cầu nối giữa cung và cầu về vốn. Ngân
hàng là địa chỉ tin cậy nhất mà những người dư thừa về vốn
có thể gửi tiền một cách an toàn và hiệu quả nhất, ngược lại
cũng là nơi sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu về vốn của các
cá nhân, các doanh nghiệp thiếu hụt tạm thời về vốn. Nhờ đó,
hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín
dụng , các doanh nghiệp có được các điều kiện để mở rộng


sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao
động, nâng cao hiệu quả kinh tế .
3.2.Ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị
trường.
Thông qua hoạt động tín dụng , Ngân hàng với vai trò
là chiếc cầu nối giữa cung và cầu về vốn trên thị trường tiền
tệ đã góp phần đẩy nhanh hoạt động của nền kinh tế, đem lại
lợi nhuận cho hoạt động của các tổ chức, cá nhân.Những cá
nhân, tổ chức đã giảm được các khoản chi phí trong việc tìm
kiếm các nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh, ngoài
ra có thể vận dụng các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp cho
khách hàng để đẩy nhanh hoạt động của mình. Vay vốn từ
Ngân hàng của các doanh nghiệp đã thúc đẩy các doanh
nghiệp phải có phương án sản xuất kinh doanh tối ưu và có

hiệu quả kinh tế thì mới có thể trả nợ cho Ngân hàng cả gốc
và lãi khi đáo hạn. Việc lập phương án sản xuất kinh doanh
tối ưu cho doanh nghiệp phải qua sự kiểm tra xem xét và
thẩm định kỹ lưỡng của Ngân hàng nhằm hạn chế thấp nhất
những rủi ro có thể gặp phải làm phương hại đến cả khách
hàng và Ngân hàng .Từ nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng
cấp doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng mọi mặt của quá
trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường, từ
đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh
tranh.


3.3.NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, NHTM
hoạt động một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh
doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều
tiết vĩ mô nền kinh tế , góp phần thực hiện các mục tiêu của
chính sách tiền tệ quốc gia như ổn định giá cả, kiềm chế lạm
phát, tạo công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong
cùng hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng
tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cấp các khoản
tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM thực hiện
dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân phối vốn cho thị
trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả thực thi vai trò
điieù tiết gián tiếp vĩ mô: “Nhà nước điều tiết Ngân
hàng,Ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
3.4.NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế .

Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, việc hoà
nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế trong khu vực và
kinh tế toàn cầu là nhu câù cần thiết và cấp bách. Với xu
hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cùng với các chính
sách mở rộng hợp tác quốc tế về kinh tế-xã hội của các nước
trên thế giới thì hoạt động của các NHTM được mở rộng và
điều này đã tạo điều kiện choviệc mở rộng hoạt động kinh tế


của các doanh nghiệp trong nước. Với hoạt động kinh doanh
rộng khắp của mình như: nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ
thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ Ngân hàng
khác. Ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại
thương không ngừng được mở rộng. Thông qua các hoạt động
thanh toán, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với các
NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều
tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền
tài chính quốc tế. Chính từ sự mở rộngcác quan hệ quốc tế và
tăng cường khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thế
giới.
Trên đây , chúng ta đã có cái nhìn tổng thể về Ngân hàng và
hoạt động của Ngân hàng .Để có thể hiểu sâu hơn nữa hoạt
động của Ngân hàng, chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể các hoạt
động của nó thông qua các phần tiếp theo.
II. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM.
1. Nguồn vốn-cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng .
Cũng như mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế, ngân hàng
muốn hoạt động được trước hết là cần có vốn. Hơn nữa ngân
hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh một loại hàng

hoá đặc biệt đó là tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường thì
ngân hàng là “mạch máu”của nền kinh tế, đóng vai trò cầu nối
giữa chủ thể thiếu vốn và chủ thể dư thừa về vốn. Ngân hàng
huy động vốn rồi qua đó cung cấp các loại hình tín dụng cho


nền kinh tế, bên cạnh đó ngân hàng cònthực hiện nhiều loại
dịch vụ khác kèm theo. Như vậy vốn là khâu mở đường, duy
trì sự hoạt động của ngân hàng, quyết định quy mô và tầm cỡ
của ngân hàng trên thị trường .
Vốn lớn tạo sự tin tưởng cho khách hàng, tạo điều kiện cho
Ngân hàng mở rộng thị trường, đa dạng hoá các phương thức
hoạt độngcủa mình, tạo thế và lực cho Ngân hàng trên thương
trường. Khai thác và sử dụng vốn một cách có hiệu quả sẽ
giúp Ngân hàng tạo lập và nâng cao uy tíncủa mình, làm cho
Ngân hàng luôn tồn tại và phát triển trong sự khắc nghiệt của
nền kinh tế thị trường. Điều này được thể hiện ở các nghiệp
vụ của Ngân hàng thương mại.
1.1.Nghiệp vụ tài sản nợ của Ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Đó là các nguồn
chủ yếu sau :
1.1.1.Nguồn vốn tự có.
Vốn tự có của Ngân hàng là những giá trị tiền tệ do Ngân
hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của Ngân hàng . Số này
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của Ngân hàng, song là
điều kiện pháp lí bắt buộc để thành lập một Ngân hàng.
Vốn tự có được chia thành hai bộ phận:
*Vốn điều lệ : Là số vốn ban đầu cảu một NHTM, là một tiêu
chuẩn để một Ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt

động . Về mặt qui mô thì vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc phải


bằng vốn pháp định, tuy nhiên với mỗi loại hình hoạt động
khác nhau của từng Ngân hàng thì vốn điều lệ cũng có nguồn
hình thành khác nhau:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh có vốn điều lệ do Ngân
sách Nhà nước cấp, Ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và
phát triển nguồn vốn
này.
- Ngân hàng thương mại cổ phần có vốn điều lệ do các cổ đông
đóng góp ban đầu dưới hình thức mua cổ phiếu.
*Vốn tích luỹ: Được hình thành trong quá trình hoạt động của
Ngân hàng thông qua việc trích tập các quỹ. Hàng năm , Ngân
hàng căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh của mình mà
trích một phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn tự có của
Ngân hàng.
*Vốn tự có bổ sung: Vốn này được hình thành qua việc phát
hành các loại chứng khoán dài hạn đặc biệt là các trái phiếu
Ngân hàng có thời hạn 20 năm , 30 năm . Trái phiếu Ngân
hàng giúp Ngân hàng chủ động trong kinh doanh. Theo quy
định của các nước thì vốn từ trái phiếu không được lớn hơn
50 % vốn tự có cơ bản của Ngân hàng .
1.1.2.Nguồn vốn vay:
*Vay của Ngân hàng Trung ương:
Trong quan hệ với Ngân hàng Trung ương ,các NHTM là
khách hàng thường xuyên. Với tư cách là Ngân hàng của các
Ngân hàng , Ngân hàng Trung ương luôn đóng vai trò là “chủ



nợ” và là “người cho vay cuối cùng “ đối với các Ngân hàng
thương mại.
*Vay các tổ chức tín dụng khác:( chủ yếu là các NHTM):
Là hoạt động mà NHTM thường phải thực hiện trong tình
hình có sự khó khăn về nguồn vốn, hoặc để đầu tư hưởng
chênh lệch lãi suất.
1.1.3.Vốn điều chỉnh trong thanh toán.
Các NHTM có nhiều chi nhánh nằm trên địa bàn khác nhau
nên luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với
các chi nhánh trong cùng hệ thống. Xuất hiện tình trạng này
là do trên mỗi địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau
do đó có tác động mạnh mẽ đến nguồn vốn và khả năng sử
dụng vốn của từng chi nhánh . Để giải quyết tình trạng này
mỗi hệ thống NHTM hoặc các hội sở chính sẽ thực hiện điều
chuyển nguồn vốn trong hệ thống. Nguồn vốn này khá quan
trọng, nó giúp cho Ngân hàng có thể mở rộng được hoạt động
trên thị trường và tăng lợi nhuận của Ngân hàng.
1.1.4.Vốn huy động.
Vốn huy động là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM. Một
NHTM có thể huy động vốn trong nước và ngoài nước, hoặc
huy động dưới các hình thức sau:
- Huy động tiền gửi qua các hình thức: Tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và dân cư.
- Huy động qua thị trường: Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu Ngân
hàng.


1.2. Sự cần thiết khách quan của công tác huy động vốn:
Vốn huy động là cộng cụ chính đối với hoạt động kinh
doanh của các NHTM, nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, giữ vị trí quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó, bất
cứ một NHTM nào cũng hoạt động với mục đích chung là vì
lợi nhuận và vì sự tăng trưởng không ngừng của nguoòn vốn.
Đây là yếu tố khônbg thể thiếu để tiến hành và phát triển các
hoạt động kinh doanh. Với nguồn vốn lớn và có sự hợp lý
trong cơ cấu, Ngân hàng có thể cung cấp các hình thức tín
dụng và dịch vụ ngân hàng tốt nhất trong khả năng của mình
cho khách hàng, nguồn vốn cũng là yếu tố thu hút vô hình ảnh
hưởng tới tâm lý của khách hàng... Trong khi chức năng của
ngân hàng là “ đi vay để cho vay” thì cùng với công tác sử
dụng vốn, công tác huy động vốn để tạo nguồn vốn cho ngân
hàng là nghiệp vụ quan trọng ảnh hưởng bao trùm nên toàn bộ
hoạt động của ngân hàng, nó duy trì và phát triển hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, tạo sự tin tưởng và nâng cao uy tín
đối với khách hàng.
Ngày nay, các NHTM không ngừng mở rộng các hình thức
huy động vốn mới đưa ra các chính sách cạnh tranh riêng của
mình để có thể huy động tối đa nguồn vốn và chiếm tỷ trọng
nhất định trên thương trường.
2. Công tác huy động vốn của NHTM.


Các NHTM là nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người
gửi tiền ) và cho vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng lợi lãi
suất. Đây là công việc của một chuuyên gia tài chính, đóng
vai chò trung gian giữa người có vốn và người cần vốn. Qúa
trình vốn của các NHTM được thực hiện dưới các hình thức
sau:
2.1. Tạo vốn quang huy động các khoản tiền gửi của khách

hàng.
2.1.1.Tiền gửi tích kiệm của dân cư.
Tiền gửi tích kiệm được coi là công cụ vốn lưu chuyền của
các NHTM.Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường
chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi ngân hàng. Tiền
gửi tiết kiệm bao gồm các loại sau:
*Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà
khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào. Do thời hạn rút tiền
không được ấn định trước nên khách hàng phải chấp nhận
một tỷ lệ lãi suất thấp hơn so với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạ.
*Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: ( tiền gửi định kỳ): Đây là loại
tiền gửi mà khách hàng chỉ có thể rút tiền theo thời hạn được
quy định theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách
hàng.Thời hạn này thường được thống nhất theo những quy
định chung của các văn bản pháp quy về luật ngân hàng.
Ngoài ra còn có các quy định khác nhau về việc rút tiền tính
lãi trong trường hợp đặc biệt như khách hàng muốn rút tiền
trước thời hạn...Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các hình


thức huy động như: tiền gửi bảo đảm bằng vàng, tiền gửi có
tính trượt giá, tiết kiệm xây dựng nhà ở.
2.1.2 Tạo vốn qua huy động tiền gửi.
Đây là những khoản tiền khách hàng đăng ký gửi vào ngân
hàng. Việc thực hiện các khoản ký gửi được tiến hành theo
thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. xét theo tiêu thức
thời gian thì ngân hàng có thể chia thành hai loại tiền gửi
chính là:
*Tiền gửi không kỳ hạn ( tiền gửi thanh toán).
Là loại tiền gửi ký thác vào ngân hàng để thực hiện các khoản

chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ ...Đây không phỉa là khoản
tiền tiết kiệm mà là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán, vì
vậy khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Tuỳ từng quốc
gia mà loại tiền gửi này không được tính lãi hoặc lãi xuất rất
thấp. Tiền gửi không kỳ hạn có thể được giữ ở một trong hai
tài khoản sau:
- Tài khoản tiền gửi (tài khoản séc):
Tài khoản này chỉ được phép dư có, tức là khách hàng chỉ
được phép rút tiền trong phạm vi tiền gửi của mình .Việc rút
tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba đ`ược thực hiện bằng séc
hoặc chuyển khoản. Việc hưởng lãi với số tiền gửi này là thứ
yếu, nó không đem lại lãi suất cụ thể.
- Tài khoản vãng lai:
Là một loại tài khoản có thể dư nợ hoặc dư có dùng cho các tổ
chức kinh tế, khách hàng có thể phát hành séc vượt quá số dư


của mình đén một giới hạn nhất định. Trong giới hạn quá số
dư, khách hàng phải chịu lãi suất và mức lãi suất này phụ
thuộc vào qui định của từng chi nhánh Ngân hàng .
*Tiền gửi có kỳ hạn:
Là loại tiền gửi được uỷ thác vào Ngân hàng trên cơ sở có sự
thoả thuậnvề thời gian rút tiền giữa Ngân hàng và khách hàng,
theo nguyên tắc khách hàng kí thác chỉ được rút ra khi đến
hạn. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định với thời hạn dài và
có lãi suất cao. Tuy nhiên, do phải cạnh tranh, các Ngân hàng
thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước thời hạn
với mức lãi suất thấp hơn. Thông thường, các NHTM luôn
tìm cách đa dạng hoá các loại tiền gửi này bằng cách áp dụng
nhiều kỳ hạn khác nhau, với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp

ứng nhu cầu của khách hàng.Như vậy, Ngân hàng luôn có
được sự chủ động về thời hạn hoàn trả tiền kí gửi.
2.2. Tạo vốn qua đi vay.
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt
động của các NHTM không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà
như một biện phát quản lý mcác mục tài trợ nợ. Các ngân
hàng có thể đi vay từ nhiều nguồn vay khác nhau:
• Vay ngân hàng trung ương.
Hìng thức thường gặp là vay tái chiết khấu thương
phiếuhoặc trái phiếu kho bạc.Với vai trò là người cho vay
cuối cùng, ngân hàng trung ương luôn cho các ngân hàng


thương mại vay,với một mức giá nhất định: đó là lãi xuất tái
chiết khấu. Lãi xuất tái chiết khấu được ngân hàng trung ương
sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, tuỳ theo yêucầ và sự
điều tiết của nền kinh tế mà lãi xuất này có thể được nâng cao
hoặc hạ thấp.
• Vay từ các tổ chức tín dụng.
Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn
nhau trên thị trường tiền tệ hay thị trường liên ngân hàng
.Trong trường hợp ngân hàng có khó khăn về nguồn vônd đối
với khách hàngvà tránh sự chú ý của ngân hàng trung ương.
2.3. Các hình thức huy động vốn.
Bên cạch những hình thức huy động vốn nói trên, ngân
hàng còn thực hiện việc huy động vốn từ hình thức phát hành
các giấy tờ có giá trịkhác như: trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng
phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn…Hình thức tạo
vốn này khs phổ biến, giúpcác ngân hàng thương mại chủ
động huy động vốn để thực hịn các dợ án đầu tư dài hạn, vốn

này có tính chủ động cao về thời gian cũng như lãi xuất


III. HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN CỦA NHTM.
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào
các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như kiếm lợi nhuận
của các ngân hàng thương mại. Nội dung của nghiệp vụ này
bao gồm:
1 . Nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng
1.1.Nghiệp vụ ngân quỹ ( vốn đảm báo thanh toán )
1.1.1.Dự trữ pháp định ( dự trữ bắt buộc )
Theo quy định ngân hàng thương mại phải có nhiệm vụ dự
trữ theo một khoản nhất định trên số vốn huy đông được từ
nền kinh tế Mục đích để bảo hiểm cho các loại tiền gửi hay
bảo vệ lợi ích cho người gửi và lợi ích của nền kinh tế . Quy
định tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo ngân hàng của mỗi quốc gia. ở
Việt Nam tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên tổng số vốn huy
động tiền gửi.
1.1.2. Tiền mặt tại quỹ.
Tiền mặt tại quỹ là lượng tiền do ngân hàng giữ trong kho
két của ngân hàng , một phần số tiền được coi là dự trữ phát
định. Các nhà quản lý ngân hàng luôn cố gắng giảm thiểu số
tiền này vì lý do an toàn, giảm chi phí bảo vệ, bảo quản tiền
mặt khỏi hư hỏng. Quan trọng hơn cả là vì lợi nhuận do khoản
tiền giữ lại này không có khả năng sinh lời.
1.1.3. Tiền gửi ở các ngân hàng khác.
Để tạo thuận lợi trong thanh toán , các NHTM thường có
các khoản tiền gửi ở NHTM khác. Đây là một phần của hệ



thống được gọi là “hoạt động hoạt động ngân hàng vãng lai” .
Các khoản tiền gửi này chỉ tạo điều kiện thuận lợi trong thanh
toán hoặc đổi lấy những dịch vụ như tập hợp séc , giao dịch
chứng khoán chứ không được hưởng lãi.
1.2.Nghiệp vụ đầu tư.
Đầu tư đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân
hàng. Khi tập trung được một số lượng vốn lớn trong tay,ngân
hàng có thể đầu tư vào các doanh nghiệp , các dự dán, mua cổ
phần của các doanh nghiệp …Với hoạt động này, ngân hàng
có thể kiểm soát, tham dự vào các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp . Ngoài ra ngân hàng còn nắm giữ một số loại
chứng khoán như trái phiếu chính phủ, các thương phiếu…vì
các mục đích thanh toán đa dạng hoá hoạt động và nâng cao
lợi nhuận.
1.4. Nghiệp vụ tín dụng .
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu nhất, mang lại nhiều
lợi nhuận nhất cho ngân hàng cũng là lĩnh vực nhiều rủi ro
nhất. Căn cứ vào hình thức khác nhau có cách phân loại cho
vay khác nhau;
- Căn cứ vào thời hạn cho vay chia thành:tín dụng ngắn hạn, tín
dụng trung và dài hạn.
- Căn cứ vào sự đảm bảo trong cho vay chia thành: tín dụng có
đảm bảo và tín dụng không có đảm bảo.
- Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh chia thành: tín dụng đối với
các doanh nghiệp công nghiệp ,tín dụng đối với các doanh


nghiệp thương mại, tín dụng đối với các doanh nghiệp dịch
vụ.
- Căn cứ vào hình thái giá trị có tín dụng bằng tiền và tín dụng

bằng tài sản.
- Căn cứ vào hình thức cho vay có tín dụng trực tiếp và tín dụng
gián tiếp.
- Căn cứ và phương pháp hoàn trả có tín dụng trả góp, tín dụng
phi trả góp, tín dụng trả theo yêu cầu.
Qua công tác phân loại tài sản và tình hình hoạt động thực
tiễn của ngân hàng ta có thể phân tích hoạt động đầu tư tín
dụng ở NHTM tính theo thời hạn. Cơ cấu của nguồn huy
động vốn ngắn, trung hay dài hạn là yếu tố quan trọng quyết
định việc sử dụng vốn cho hoạt động tín dụng. Một ngân hàng
thương mại có nguồn vốn ngắn hạn dồi dào có khả năng cho
vay ngắn hạn cao, cũng như nếu có nguồn vốn trung và dài
hạn tốt cũng tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu trung và dài hạn.
1.4.1 Tín dụng ngắn hạn.
Do đặc điểm, tính chất của hoạt động kinh doanh trong nền
kinh tế luôn xảy ra hiện tượng doanh nghiệp tạm thời thiếu
vốn nhưng lại có doanh nghiệp khác dư thừa vốn, nên việc
cung cấp ngắn hạn cho các doanh nghiệp là nghiệp vụ thường
xuyên của NHTM nhu cầu về loại tín dụng này thường không
được báo trước nên nguồn vốn cho vay ngắn hạn được hình
thành từ ngân hàng chủ yếu là nguồn gửi ngắn hạn và tiền gửi
không kỳ hạn.Những khoản cho vay ngắn hạn thường đước sử


dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về luân
chuyển vốn và tài trợ tạm thời cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh.
1.4.2 Tín dụng trung – dài hạn.
Nhu cầu về vốn trung và dài hạn thường nảy sinh khi
các doanh nghiệp muốn đổi mới máy mọc , trang thiết bị hoặc

đổi mới cả về quy trình công nghệ. Nhu cầu này không ngừng
tăng về không chỉ đối với doanh nghiệp sản xuất mà cả đối
với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Đặc biệt với nền kinh
tế nước ta khi thực hiện chuyển đối nền kinh tế sang kinh tế
thị trường có sự quản lí của Nhà nước , quyết tâm thực hiện
công cuộc CNH- HĐH mà Đảng và Nhà nước đề ra, thì nhu
cầu về vốn trung và dài hạn là hết sức cần thiết, là người trợ
thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong việc thoả mãn các cơ
hội trong kinh doanh . Trong đó vốn của ngân hàng là một
điều quan trọng và có tính khả thi cao.
1.5. Tài sản có khác
Tài sản có khác cuả ngân hàng gồm các hiện vật như toà nhà
ngân hàng , các trang thiết bị… phục vụ cho hoạt động của
ngân hàng .
2.

Công tác quản lý tài sản có và vấn đề thanh khoản

đối với một ngân hàng thương mại.
Mục tiêu chính của công tác quản lý tài sản có là nghiên cứu
sự chuyển đổi giữa tài sản có thành tiền mặt và khả năng sinh
lời của tài sản có đó đem lại. Để tối đa hoá lợi nhuận của


mình, ngân hàng cần tìm kếm những khách hàng vay và trả lãi
cao và khả năng kinh doanh tốt. Cán bộ tín dụng và các nhà
quản lý trực tiếp quyết địnhcho vay và trực tiếp chịu trách
nhiệm đối với khoản vay đó vì vậy họ rất thận trọng. Ngoài
ra, các ngân hàng cố gắng mua những chứng khoán có lợi tức
cao và có rủi ro thấp. Trong việc quản lý những tài sản có,

các ngân hàng phải có lỗ lực giảm thiểu rủi ro bằng cách đa
dạng hoá các khoản mục đầu tư. Nguyên tắc hoạt động của
ngân hàng là “không để trứng vào một giỏ”.
Một NHTM có khả năng thanh toán cao nếu nó có đủ ngân
quỹ và tài sản có tính linh hoạt như tiền mặt, ngân phiếu, trái
phiếu….cũmg như khả năng tăng nguồn vốn nhanh đáp ứng
nhu cầu tín dụng manh tính đột xuất.
Nếu ngân hàng làm tốt công tác quản lý tài sản thì uy tín của
ngân hàng ngày càng được củng cố.
Tóm lại, qua quá trình nghiên cứu về công tác huy động vốn ở
ngân hàng thương mại ta đẫ thấy được những hoạt động cơ
bản của ngân hàng . Để thực hiện tốt công tác đi vay và cho
vay, ngày nay các NHTM đã không ngừng đổi mới các mặt
hoạt động cả về lý luận lẫn nghiệp vụ. Vì mục đích cuối cùng
là lợi nhuận và sự hùng mạnh của Ngân hàng, các nhà quản lý
đã tìm những biện pháp hiệu quả nhất nhằm thu hút nguồn
vốn, lấy đó làm cơ sở vật chất để tiến hành các các nghiệp vụ
đầu tư thích hợp. Phương châm của hoạt động quản lý tài sản
có và tài sản nợ đều là đa dạng hoá, giảm thiểu rủi ro. Các nhà


quản lý cần làm thế nào để tránh tình trạng khi thì ứ đọng
vốn, khi thì lại thiếu vốn, điều hành một cách ăn khớp đạt
hiệu quả tài sản có và tài sản nợ.
IV. TÍNH CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN VỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG
1.Sự cần thiết phải đảm bảo cân đối giữa huy động vốn và
sử dụng nguồn vốn.
Các NHTM nói chung đều hoạt động kinh doanh vì mục

tiêu tối đa hoá lợi nhuận và sự tăng trưởng không ngừng của
nguồn vốn kinh doanh. Để đạt được những mục tiêu đó, đòi
hỏi ngân hàng phải tự vạch ra một chiến lược vốn đúng đắn,
phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong từng thời kỳ. Một
yếu tố quan trọng trong chiến lược vốn là phải đảm bảo sử
dụng kết hợp hài hoà các nguồn vốn có được với việc sử dụng
các nguồn vốn đó để mang lại hiệu quả cao nhất. Hoạt động
này chính là hoạt động cân đối vốn, là công việc rất cần thiết
đối với mội ngân hàng, là một biện pháp nghiệp vụ, là cộng
cụ quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng. Qua bảng cân đối
được hình thành dưới nhiều góc độ tổng hợp hoặc chi tiết mà
các nhà lãnh đạo ngân hàng biết được những đặc điểm riêng
có của từng ngân hàng mình so với ngân hàng khác, biết được
tình hình cung và cầu về vốn đối với bản thân mỗi ngân hàng
trong từng thời kỳ nhất định. Từ đó có chiến lược, sách lược
về vốn, về khách hàng… nhằm khai thác thế mạnh của ngân


×