Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đóng góp và hạn chế của kant trong vấn đề bản thể luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.26 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, triết học cổ điển Đức là một giai đoạn phát
triển rất quan trọng xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII và tồn tại cho đến hết thế kỷ
XIX. Có thể nói, cùng với Phoiơbăc, Heghen thì Kant là một trong những nhà triết
học tiêu biểu của lịch sử tư duy phương Tây trước Mác. Những đóng góp quan
trọng của Kant đặc biệt trong vấn đề bản thể luận làm cho ông xứng đáng là người
sáng lập nền triết học cổ điển Đức vĩ đại này. Những tổng kết của Kant trong vấn
đề bản thể luận bắt đầu từ chỗ phê phán, tìm tòi rồi đi đến sáng tạo, mở ra nhiều
hướng, nhiều con đường cho sự phát triển của bản thể luận sau này. Tuy nhiên
trong vấn đề bản thể luận, triết học Kant cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm em lựa chọn và đi sâu tìm
hiểu đề tài: “Đóng góp và hạn chế của Kant trong vấn đề bản thể luận”. Dưới
đây là toàn bộ bài làm của nhóm số 09.


NỘI DUNG
I.Khái quát về bản thể luận và nội dung bản thể luận trong triết học
Kant
1. Khái niệm bản thể luận
Với tư cách một thành tố căn bản, là “thể nền” của bất kỳ hệ thống triết học
nào, bản thể luận và đi liền với nó là cách tiếp cận bản thể luận đã cho thấy lôgíc
vận động nội tại của triết học nói chung, đặc biệt và cụ thể hơn là của triết học Tây
Âu. Chỉ khi đề cập đến nội dung bản thể luận của tư tưởng triết học Tây Âu, chúng
ta mới có thể nắm bắt được tính đặc thù, cũng như sự tăng trưởng tri thức ở nó, vì
bản thể luận luôn đóng vai trò thể nền và là khâu liên kết, hợp nhất mỗi một hệ
thống triết học thành một thể thống nhất, có quan hệ với tư tưởng triết học quá
khứ, hiện tại và mở ra các xu hướng vận động tiếp theo của tư tưởng ấy vào tương
lai.
Bản thể luận là bộ phận cơ bản nhất của siêu hình học. Thuật ngữ “bản thể
luận” do nhà triết học Đức Hôclêniút (1613) đưa ra. Tư tưởng về một bản thể luận
như thế được thể hiện triệt để trong triết học của Vônphơ, một học thuyết đã mất


hết mọi liên hệ với các nội dung của các khoa học cụ thể và đã xây dựng bản thể
luận phần lớn bằng cách phân tích trừu tượng những khái niệm của nó (tồn tại, khả
năng và hiện thực, lượng và chất, nguyên nhân và tác động…) Một khuynh hướng
đối lập lại với bản thể luận đã thể hiện trong các học thuyết duy vật của Hôbơ,
Xpinôđa, Lốccơ của các nhà duy vật Pháp thế kỷ 18; dựa trên những dữ kiện của
khoa học thực nghiệm, nội dung tích cực của các học thuyết này, về mặt khách
quan, đã phá vỡ tư tưởng về bản thể luận với tư cách là một môn triết học cao nhất,
là “triết học đầu tiên”, tách rời khỏi nhận thức luận và logic học. Sự phê phán của
các đại diện của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức (Kant, Hegel…) đối với bản thể
luận mang tính chất hai mặt: một mặt, họ tuyên bố bản thể luận là không có nội
dung và lặp lại; mặt khác, sự phê phán đó kết thúc bằng việc đòi hỏi tạo ra một bản
thể luận (siêu hình học) mới, hoàn thiện hơn, thay thế nó bằng triết học tiên
nghiệm (Kant), bằng hệ thống chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm (Senlinh), bằng
logic học (Hegel). Hệ thống Hegel dưới hình thức duy tâm đã đoán được trước tư
tưởng về sự thống nhất giữa bản thể luận (phép biện chứng), logic học và lý luận
nhận thức và, do đó, đã chỉ ra lối thoát khỏi khuôn khổ những triết lý tư biện để đi
đến sự nhận thức thật sự tích cực về thế giới.
Như vậy, tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện vào thế kỷ XVII, nhưng tư
tưởng bản thể luận đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử triết học, ngay từ thời Cổ
đại. Nói một cách chung nhất, bản thể luận được hiểu là học thuyết về tồn tại và
khái niệm “tồn tại” là một trong các khái niệm cơ bản của triết học phương Tây.
Khái niệm này liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học


phương Tây tới mức chính nó, chính sự lý giải về nó đã tạo thành bản chất của
phương pháp tư duy triết học Tây Âu. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu lịch sử bản
thể luận, lịch sử các quan niệm, học thuyết triết học về tồn tại, về khái niệm tồn tại
là con đường duy nhất để làm sáng tỏ nội dung của khái niệm này. Chỉ thông qua
đó, chúng ta mới có thể có được nội dung các nguyên tắc, cách tiếp cận bản thể
luận.

2. Khái quát nội dung bản thể luận trong triết học Kant
2.1. Bối cảnh lịch sử và vài nét về Kant
Kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức. Ông sinh ngày 22- 04- 1724
và lớn lên trong một gia đình trung lưu gốc Scotland tại Kenibéc, một thành phố cổ
vùng Đông Bắc nước Phổ trước đây. Mùa thu năm 1740, ông vào học khoa triết
trường đại học Kenibéc. Ở đây ông được trang bị không chỉ triết học mà cả khoa
học tự nhiên. Năm 1770, ông trở thành giáo sư và là Giám đốc trường Đại học
Kennibec. Năm 1775, ông nhận học vị Tiến sĩ triết học với luận văn: “Lịch sử tự
nhiên và lý thuyết về thiên hà”. Ông mất ngày 12- 04- 1804.
Ở trường đại học Kennibec, Kant giảng một loạt các môn học: Siêu hình học
(Triết học) và logic học, toán học và cơ học, vật lý học và đại chất học, nhân loại
học và lịch sử tự nhiên đại cương. Ông còn giảng cả vũ trụ học, địa vật lý và nhân
chủng học. Ở đây, Kant đã tập trung toàn bộ sức lực và thời gian để thực hiện
nhiệm vụ mà cả cuộc đời ông đã đặt ra cho mình là xây dựng một hệ thống triết
học mới. Nhiều công trình khoa học tự nhiên và triết học của ông đã ra đời, nâng
Kant lên vị trí một trong những học giả uyên bác nhất thời đó. Những học thuyết
của ông thống trị tư tưởng khoa học và triết học tư sản thế kỷ XIX. Ông đã để lại
cho nhân loại một trong những hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc nhất.
2.2. Nội dung cơ bản của bản thể luận trong triết học Kant
Quá trình phát triển triết học của Kant diễn ra qua hai thời kỳ: thời kì tiền
phê phán (từ năm 1770 trở về trước) và thời kì phê phán (sau năm 1770).
* Thời kì tiền phê phán
Đây là giai đoạn ngắn ở thời tuổi trẻ của Kant, có hướng duy vật. Ở thời kỳ
này, Kant tham dự sâu sắc vào các vấn đề triết học và khoa học tự nhiên của trào
lưu Khai sáng. Kant quan tâm nhiều hơn đến các khoa học tự nhiên như toán học,
vật lý học, thiên văn học, sinh học và địa chất học. Có thể nói, trong lý thuyết về tự
nhiên, Kant về cơ bản đã thể hiện như một nhà duy vật tự phát khi ông khẳng định
thế giới được cấu tạo từ vật chất, mọi vật thể liên hệ, tương tác lẫn nhau thông qua
lực hút và lực đẩy.
Tư tưởng nổi bật nhất của Kant thời kỳ tiền phê phán tập trung trong tác

phẩm “Lịch sử tự nhiên phổ thông và lý thuyết về bầu trời” (1755), nơi Kant đưa
ra tiên đoán về sự hình thành tự nhiên của vũ trụ, về tính tòan vẹn của cấu trúc thế


giới, về sự tác động tương hỗ giữa các lực trong tự nhiên. Kant quan niệm bầu trời
với những tinh tú, mặt trời, quả đất, đều là kết quả của một quá trình lịch sử tự
nhiên.Giá trị chủ yếu tư tưởng Kant thời kỳ này là: trong thời đại thống trị của chủ
nghĩa máy móc ông là một trong những người đầu tiên cố gắng xác lập bức tranh
về một thế giới vận động, sống động, luôn tiến hóa.
* Thời kì phê phán
Do chịu ảnh hưởng của các biến đổi ở Pháp và Tây Âu trước cách mạng tư
sản 1789 và đặc biệt là ảnh hưởng của Hium, thế giới quan của Kant đã biến đổi.
Theo Kant, khoa học về con người chưa được chú trọng và phát triển đúng mức,
do đó, toàn bộ các vấn đề triết học phải được hướng vào việc giải quyết các vấn đề
về cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Hệ thống triết học thời kì này
của ông được thể hiện qua bộ ba tác phẩm: Năm 1781, ông viết cuốn “Phê phán
lý tính thuần túy”, tiếp theo đó là những cuốn “Phê phán lý tính thực tiễn”
(1788) và “Phê phán năng tính nhận xét”(1790).
Kant đặt vấn đề triết học trên lập trường phê phán. Đó là một mặt thay đổi
mới so với hướng huyền học. Hướng huyền học đặt vấn đề: thực tại là gì? Trái lại,
Kant đặt vấn đề: chúng ta hiểu biết đối tượng khách quan thế nào, làm thế nào mà
hiểu biết được thực tế khách quan - Do chỗ phê phán năng lực hiểu biết mà quy
định được đối tượng thực tế. Kant quan niệm cách đặt vấn đề như vậy là cách
mạng, giống như Copenic đã đảo lộn vũ trụ quan cũ bằng cách chủ trương rằng
quả đất chạy chung quanh mặt trời, trái hẳn với quan niệm cũ là mặt trời xoay
quanh quả đất. Trước kia, người ta quan niệm lý tính hướng theo thực tại, người ta
cải thiện lý tính theo thực tại. Kant cho rằng đặt vấn đề như vậy thì không giải
quyết được, vì chúng ta chưa biết thực tại là gì. Do đó Kant đặt vấn đề: chúng ta
hiểu biết thực lại bằng cách thế nào?
Trong thời kì này, Kant coi siêu hình học là khoa học thứ nhất về thứ tự và ý

nghĩa trong hệ thống tri thức của con người, là khoa học cẩn phải đem lại cơ sở
tuyệt đối vững chắc cho mọi khoa học khác và cho toàn bộ hoạt động nói chung
của con người.
Có thể khẳng định lại, thời kỳ tiền phê phán giúp Kant rà soát hầu hết các
tiến bộ của khoa học tự nhiên đến thời của ông để làm cơ sở cho sự phê phán chính
các lý thuyết khoa học tự nhiên đó với tính cách là những bộ phận của nhận thức
trong thời kỳ phê phán; còn thời kỳ phê phán giúp Kant khảo sát lý tính thuần tuý
để tìm ra chỗ dựa vững chắc cho sự tồn tại của khoa siêu hình học mới với tính
cách là một hệ thống tiên nghiệm phổ biến, tất yếu cho mọi nhận thức khoa học,
thực tiễn hành động và giá trị vĩnh hằng của con người. Trong đó, Phê phán lý tính
thuần tuý là đột phá khẩu cho mọi sự phê phán.


II. Đóng góp và hạn chế trong triết học Kant về bản thể luận
1. Đóng góp của Kant về bản thể luận
1.1. Học thuyết về vũ trụ
Khi xây dựng học thuyết về vũ trụ Kant thể hiện như là một nhà duy vật
khoa học tự nhiên với luận điểm chủ yếu “hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế
giới từ nó, nghĩa là, hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy thế giới phải ra
đời từ vật chất như thế nào”. Thế giới chúng ta, theo Kant được cấu tạo từ vật chất
luôn vận động và biến đổi không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ và tương tác với
nhau thông qua lực hút và lực đẩy. Từ những công trình nghiên cứu về trái đất và
đại dương, Kant là người đầu tiên đã khám phá ra ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa
trái đất và mặt trăng với các hiện tượng thủy triều. Ông khẳng định thế giới hiện
nay là kết quả của quá trình lịch sử phát triển lâu dài theo hướng ngày càng hoàn
thiện của tự nhiên. Ông cho rằng, không chỉ mọi sự vật trong thế giới chúng ta, mà
cả toàn bộ vũ trụ nói chung đều nằm trong quá trình phát sinh, phát triển và diệt
vong như một quy luật sắt đá của tự nhiên.Từ đây, dù không bác bỏ những mặt hợp
lý của vũ trụ học Descartes nhưng ông đã xây dựng nên giả thuyết vân tinh học –
giả thuyết về sự hình thành vũ trụ.

Tất cả các hành tinh, và cả vũ trụ chúng ta không phải ngay từ đầu đã có được
trạng thái tồn tại như hiện nay. Từ thời xa xưa nhất, cả thế giới chúng ta đều nằm
trong trạng thái hỗn độn. Nhờ lực vạn vật hấp dẫn, các hạt vật chất khuếch tán
khắp không gian đã dần dần tụ lại thành những đám mây lớn. Thông qua lực hút và
lực đẩy, trong lòng các đám mây đó xuất hiện những luồng gió xoáy làm cho các
hạt vật chất kết đông lại theo hình cầu. Do ma sát khi va chạm nên chúng bị nóng.
Vì lực hút chiếm ưu thế hơn nên các hạt vật chất kết lại với nhau tạo thành Mặt
trời và các hành tinh có độ nóng khác nhau tùy thuộc mức độ ma sát. Nhưng vì
khoảng không vũ trụ quá lớn do ảnh hưởng của lực đẩy nên lực hấp dẫn không đủ
sức hút tất cả lượng vật chất của vũ trụ thành một khối, mà tồn tại nhiều hành tinh
độc lập với nhau. Do lực hấp dẫn tỷ lệ thuận với khối lượng, cho nên những hành
tinh ở gần mặt trời thì nặng hơn so với các hành tinh ở xa, và nhân của các hành
tinh thì nặng hơn so với các lớp vỏ của chúng. Vũ trụ là một chỉnh thể thống nhất,
cho nên “ nó sẽ tạo ra những thế giới mới để bù đắp những tổn thất mà nó gánh
chịu ở một nơi nào đó”.
Việc Kant lý giải nguồn gốc và sự hình thành vũ trụ cho thấy trong tư tưởng
của ông chưá đựng nhiều tư tưởng duy vật và hoàn chỉnh hơn so với các học
thuyết vũ trụ học trước đó đồng thời nó đem lại một cách nhìn mới – cách nhìn
phát triển lịch sử về thế giới. Nó khẳng định không chỉ trái đất mà cả vũ trụ chúng
ta là kết quả của toàn bộ quá trình phát triển và tiến hóa lâu dài của vũ trụ, đánh
tan quan niệm siêu hình thống trị thời đó cho rằng, một khi thế giới chúng ta đã tồn
tại thì nó vẫn mãi như thế từ xưa đến nay. Với giả thuyết này, Kant bước đầu đã
xây dựng nền tảng cho quan niệm phát triển biện chứng về tự nhiên.


1.2. Học thuyết phân đôi thế giới
Imanuel Kant là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư
tưởng phương Tây trước C.Mác.Triết học Kant là nền tảng và điểm xuất phát của
triết học Đức hiện đại. Tuy quan điểm triết học của ông có những dao động giữa
duy tâm và duy vật, đồng thời vẫn còn tồn tại vài hạn chế, song điều đó không làm

lu mờ công lao đó của triết học Kant.
Ông xem vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song tồn tại, không cái
nào có trước cái nào, chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới. Từ thế giới quan
như vậy, Kant đã đưa ra quan điểm của mình về sự hình thành thế giới vật chất
thông qua học thuyết về sự phân đôi thế giới.
Theo Kant, thế giới bao gồm: thế giới “vật tự nó” và thế giới hiện tượng (thế
giới cảm tính). Trong đó thế giới “vật tự nó” được Kant hiểu theo mấy nghĩa sau:
thứ nhất, đó là sự thể hiện những gì thuộc về lĩnh vực các hiện tượng (Phenomen)
(được ông đồng nhất với kinh nghiệm) mà chúng ta chưa nhận thức được; thứ hai,
đó là bản chất của mọi sự vật khách quan tồn tại bên ngoài chúng ta, mà theo ông
thì chúng thuộc về các lĩnh vực siêu nghiệm (transendent) và về nguyên tắc –
chúng ta không thể nhận thức được; thứ ba, “vật tự nó” ám chỉ những lí tưởng là
chuẩn mực của mọi sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người không đạt tới được, nhưng
đây là điều mà nhân loại hằng mơ ước – chúa, tự do, sự bất diệt của linh hồn. Đây
là đối tượng của tín ngưỡng, niềm tin của loài người. Ông coi Chúa – tự do – linh
hồn bất diệt là những cái không thể biết, ông không phủ nhận sự tồn tại của chúa
như nhiều nhà vô thần trước đó mà coi đó là vật tự nó. Còn thế giới hiện tượng
(thế giới cảm tính) là sản phẩm của sự tác động của thế giới “vật tự nó” vào chủ
thể.
Ông thừa nhận các sự vật cảm tính có được là do các sự vật bên ngoài tác
động vào các giác quan của chúng ta từ đó ta sẽ biết được các sự vật đó nhưng đó
đều chỉ là hiện tượng, là hình ảnh, là quan niệm của ta về chúng chứ không phải
bản thân sự vật trên thực tế. Ông tách rời những gì mà con người khám phá về sự
vật với bản chất của những sự vật này. Kể cả những điều con người hiện chưa biết,
nhưng sẽ biết về sự vật cũng bị ông quy về lĩnh vực hiện tượng luận, tức kinh
nghiệm cảm tính. Chúng được gọi là những kinh nghiệm khả năng. Không gian và
thời gian không phải là hình thức tồn tại của “vật tự nó”, mà là những hình thức
tồn tại của cảm tính.
Nếu như trong thời kì tiền phê phán Kant coi không gian và thời gian là
những hình thức tồn tại của “vật tự nó”, thì giờ đây, ông coi không gian là hình

thức bên ngoài, còn thời gian là hình thức bên trong của kinh nghiệm. Chúng đều
thuộc về lĩnh vực hiện tượng luận. Ở Kant, các thuật ngữ “cảm tính”, “kinh
nghiệm”, “giới tự nhiên”, “hiện tượng luận” được coi đồng nhất về nội dung, đối
lập với “vật tự nó”. Nếu thế giới hiện tượng mang tính hữu hạn vì sự vật của nó
tồn tại trong không gian và thời gian, do đó nó là cái tạm thời, thì thế giới “vật tự


nó” là cái tồn tại vĩnh viễn tồn tại ngoài không gian và thời gian. Thế giới hiện
tượng tuân theo quy luật mang tính nhân quả thì thế giới “vật tự nó” không theo
quy luật, ngoài nhân quả. Theo Kant, thế giới hiện tượng là thường nghiệm, là thế
giới của những cái tương đối, còn thế giới “vật tự nó” là siêu nghiệm, nó là những
cái tuyệt đối.
Từ quan điểm này cho thấy, trong quan điểm của Kant mọi sự vật đều mang
tính hai mặt, có sự đối lập với nhau. Nói cách khác đó là những tư tưởng biện
chứng về những cái đối lập, chính từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối
lập mà đưa đến sự phát triển của sự vật. Cụ thể, ông quan niệm rằng: vì nhu cầu
vận động, phát triển không ngừng, nên con người luôn có khát vọng xâm nhập vào
lĩnh vực vật tự nó, trong khi khả năng của con người chỉ nhân thức được thế giới
hiện tượng luận. Do vậy, nảy sinh các nghịch lí, mâu thuẫn (Antinomia). Các mâu
thuẫn này hầu như không thể khắc phục được vì nó nằm ngay trong lý tính con
người. Lần đầu tiên trong lịch sự triết học, thông qua các Antinomia, Kant đã xem
các mặt đối lập là những đối lập về chất và ông khẳng định tồn tại 4 mẫu thuẫn cơ
bản “và cũng chỉ có thể có 4 mà thôi”. Mỗi mâu thuẫn này được Kant trình bày từ
hai luận đề đối lập nhau là chính đề và phản đề, trong đó: Phía chính đề thể hiện
lập trường của các nhà duy tâm và quyết định luận, còn phía phản đề thể hiện lập
trường của các nhà duy vật và vô định. Nhưng ông vẫn coi những mâu thuẫn này
là những mặt đối lập biện chứng , vì vậy, tùy từng trường hợp chúng có thể đúng
hoặc sai. Cụ thể về 4 mâu thuẫn (Antinomia) đó là:
- Antinomia 1: sự trọn vẹn tuyệt đối về cấu tạo của cái toàn thể của mọi hiện
tượng.

Theo đó, Kant đã đưa ra hai luận đề bao gồm:
Chính đề: Thế giới có điểm đầu trong thời gian và bị hạn chế về không gian.
Phản đề: Thế giới là vô cùng vô tận cả về không gian và thời gian.
Nói cách khác, sự mâu thuẫn mà Kant trình bày ở trên là mâu thuẫn về số
lượng trong đó nêu lên các điều kiện tuyệt đối của không gian, thời gian; xét quảng
tính tuyệt đối của vũ trụ và lịch sử của vũ trụ: có hay không có khởi đầu trong
không gian, thời gian.
- Antinomia 2: sự trọn vẹn tuyệt đối về sự phân chia của cái toàn thể trong
hiện tượng:
Thực tại trong không gian là vật chất. Điều kiện bên trong của vật chất là các
bộ phận như là các điều kiện tối hậu của vật chất. Vậy “những viên gạch” tối hậu
kiến tạo nên vũ trụ là đơn tố hay phức hợp. Đây thực chất là sự mâu thuẫn về mặt
chất lượng, phạm trù “chất” được nâng kên thành cái vô điều kiện. Do đó Kant đã
xây dựng nên hai luận đề về thế giới như sau:
Chính đề: Thế giới là một chỉnh thể phức tạp được cấu thành từ những bộ
phận đơn giản.


Phản đề: Thế giới không thể phân chia được. Không có gì trên thế gian là đơn
giản .
- Antinomia 3: Thứ ba là sự trọn vẹn tuyệt đối về nguồn gốc ra đời của một
hiện tượng nói chung (mẫu thuẫn về quan hệ nhân quả).
Trong phần này ông bàn về tính nhân-quả trong quan hệ giữa các hiện tượng
với nhau, tức về các nguyên nhân trong quan hệ với kết quả, để giải quyết câu hỏi
rất xưa cũ: có tự do hay không? Hay tất cả đều phụ tùng tính tất định của tự nhiên?
Kant đã đưa ra hai luận đề đối lập nhau, gồm:
Chính đề: Trong tự nhiên tồn tại cả quan hệ nhân quả và tự do
Phản đề: Không có tự do. Mọi vật diễn ra theo những quy luật của tự nhiên.
Đây thực chất là mâu thuẫn về quan hệ nhân quả, là phạm trù tương quan
được nâng lên thành cái vô điều kiện.

- Antinomia 4: sự trọn vẹn tuyệt đối về sự phụ thuộc để tồn tại của những gì
có thể biến đổi trong hiện tượng. Tại đây, ông lại đặt ra hai câu hỏi rằng:
Chính đề: Trong thế giới tồn tại quan hệ tất yếu
Phản đề: Không ở đâu tồn tại quan hệ tất yếu cả.
Như vậy, đây là mâu thuẫn về phương thức tồn tại, là phạm trù hình thái
được nâng lên thành cái vô điều kiện.
Từ các Antinomia của Kant có thể thấy ở ông đã đưa ra nghịch lí của quá
trình nhận thức, của quan hệ giữa thế giới khách quan và tư duy logic nhận thức
thế giới khách quan ấy. Kant coi các Antinomia là những dạng đối lập biện chứng
Vì vậy, tùy từng trường hợp cụ thể, có thể cả hai mặt đối lập cùng đúng hoặc cùng
sai . Với hai nghịch lý đầu tiên, Kant cho rằng chúng đều sai, vì đối với thế giới
“vật tự nó” nằm ngoài không gian và thời gian thì tất cả các đặc tính “giới hạn”,
“điểm đầu”, “đơn giản”, “phức tạp”, đều không thể áp dụng, còn hiện tượng luận
(thế giới cảm tính) thì chưa bao giờ thể hiện một cách trọn vẹn. Những hiện tượng
mà ta biết thì chưa đủ để khám phá ra bản chất đầy đủ của nó, vì ngoài những kinh
nghiệm (hiện tượng) mà ta đã biết còn có những kinh nghiệm sau này ta mới biết
được. Còn trong hai Antinomia cuối, do thế giới được hiểu theo hai nghĩa khác
nhau: hiện tượng luận và “vật tự nó”, nên cả hai chính đề và phản đề đều đúng
trong những mối quan hệ khác nhau. Vế nào đúng ở khía cạnh hiện tượng luận thì
lại sai ở khía cạnh “vật tự nó”, và ngược lại.
Ngay cả trong quan niệm về đạo đức học mà phạm trù trung tâm của đạo đức
học là tự do ông cũng hiểu theo các khía cạnh. Thứ nhất, tự do là khả năng tiên
nghiệm đặc biệt cho phép giác tính hoạt động độc lập đối với các quy luật tất yếu
của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận. Thứ hai, tự do tồn tại tại tương đối
trong lĩnh vực hiện tượng luận (thế giới cảm tính) nơi mọi cái đều diễn ra một cách
tất yếu. Ở đây tự do được coi là tính tất yếu đã được nhận thức. Thứ ba, tự do là


cái thuộc về lĩnh vực “vật tự nó” nếu như trong lĩnh vực hiện tượng luận tự do chỉ
là tương đối thì lĩnh vực “vật tự nó” là thế giới của tự do. Như vậy con người đồng

thời sống ở cả hai thế giới: thế giới hiện tượng luận nơi mọi cái đều diễn ra theo
quy luật của tự nhiên, tự do chỉ là thứ yếu, chỉ dừng lại trong khuôn khổ của giác
tính; thế giới “vật tự nó” con người được hoàn toàn tự do, tự do của con người là
cái cao quý nhất.
Nói tóm lại, qua học thuyết về sự phân đôi thế giới của mình, Kant đã đưa ra
nền tảng tư tưởng về mối quan biện chứng giữa những mặt đối lập. Kế thừa điều
đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng lên tầm
cao mới và được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập trong triết học Mác-Lê nin sau này.
1.3. Tư tưởng về con người
Vấn đề con người được đặt ra và nghiên cứu trong triết học từ rất sớm
trước Kant. Chẳng hạn, Protagore khẳng định: "Con người là thước đo của mọi
vật". Socrate đưa ra mệnh đề nổi tiếng: "Con người hãy tự nhận thức chính mình".
Aristote cho rằng, "con người là động vật chính trị". Các nhà triết học kiêm thần
học thời trung cổ coi con người như là sản phẩm của Thượng đế, còn đời sống của
nó là sự thực hiện mệnh trời. Các nhà khai sáng Pháp xem con người như là giá trị
cao nhất sáng tạo ra tất cả mọi giá trị văn hoá trên trái đất, là thực thể có lý tính
của vũ trụ mà tất cả phải xuất phát từ đó và quay về đó.
Khi tiếp thu những thành quả nghiên cứu về con người của các nhà triết học
tiền bối, Kant đã nhận ra rằng, vấn đề con người trong siêu hình học cũ mới chỉ
dừng lại ở mức độ chung chung mà chưa giải đáp được những câu hỏi cụ thể như:
Lịch sử hình thành loài người diễn ra như thế nào? Con người có mối quan hệ ra
sao với tự nhiên và xã hội? Và đặc biệt là: Con người là gì? Kế thừa những quan
điểm triết học tiền bối về con người và những ý tưởng nhân đạo trong huyền thọai
và cả trong Kinh thánh, bằng những hiểu biết của mình, Kant đã thực sự định hình
một hướng mới trong nghiên cứu triết học - triết học nhân học.
Trong tác phẩm "Dự đoán ban đầu về lịch sử loài người" (1786), Kant đã đưa
ra giả thuyết cho rằng, lịch sử được tính từ thời điểm hình thành loài người. Lịch
sử đó gắn liền với việc loài người chuyển từ vương quốc của tất yếu (tự nhiên)
sang vương quốc của tự do (xã hội), về cơ bản quá trình đó được phân thành bốn

giai đoạn:
"Con người đầu tiên - Kant viết đã biết đứng thẳng và đi lại, biết nói, biết
giao tiếp, nghĩa là biết diễn đạt các khái niệm". Con người cũng biết biểu lộ ý chí
và lý tính, hướng hành động của mình theo mục đích xác định. Các họat động của
con người không phức tạp mấy. Mọi quyền lợi và mục đích không vượt ra ngoài
giới hạn của nhu cầu ăn uống. Bản năng sinh tồn quy định mọi hành vi của con


người nguyên thuỷ. "Bản năng đó tạo nên thói quen trong con người, dạy con
người rằng, cái này có thể dùng để ăn, cái kia thì bị cấm". Bản năng ăn uống như
một phương tiện bảo toàn sự tồn tại của mọi cá thể người, con người buộc phải lệ
thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Nhưng những nhu cầu tự nhiên của người nguyên
thuỷ dần dần được nhân cách hoá, bởi sự đáp ứng các nhu cầu đó không đơn thuần
mang tính động vật.Theo dõi quá trình hình thành và phát triển của nhân
tính, Kant tập trung chú ý đến sự hình thành tính chủ thể. Con người, theo quan
điểm của Kant, phát triển trước tiên với tư cách là một chủ thể nhận thức. Lý tính
đã thức tỉnh con người, giúp nó thoát khỏi giới hạn của bản năng ban đầu trong sự
nhận biết phương tiện và đối tượng sinh nhai. Nếu trước đấy bản năng sinh tồn dạy
con người nhận biết một số đối tượng nhất định có thể đáp ứng cho nhu cầu tồn tại
của nó, thì nay con người bỗng nhận ra rằng số lượng đối tượng như vậy là vô hạn
trong tự nhiên. Từ đó trong con người xuất hiện khả năng lựa chọn điểm khởi đầu
của tự do. "Kể từ thời điểm đó Kant viết con người nhận thấy rằng nó không còn
khả năng tự quay về trạng thái lệ thuộc (sự thống trị của bản năng)". Sự lựa chọn
các phương tiện và đối tượng sinh tốn như đã nói ở trên là điểm khởi đầu của tự
do, nó giúp con người thoát khỏi tình trạng thống trị của bản năng kết thúc giai
đoạn đầu của lịch sử loài người.
Nhưng vấn đề không dừng lại ở sự tồn tại của từng cá thể. "Lý tính trong con
người bắt đầu thức tỉnh. Con người bắt đầu để ý rằng cảm xúc giới tính vốn có ở
loài động vật đã khơi dậy trong nó trí tưởng tượng và tiếp đến là bản năng giới
tính, với tư cách là phương tiện dê bảo toàn nòi giống". Ở thời điểm này, sự mong

muốn cảm tính tự nhiên trong con người chuyển thành mong muốn lý tưởng (nhờ
trí tưởng tượng), nhu cầu tự nhiên sinh học chuyên thành tình yêu, cảm giác
chuyển thành sự cảm nhận cái đẹp trong con người và tự nhiên. Giờ đầy "con
người hướng tới việc làm cho người khác kính trọng mình với tư cách là cơ sở cho
việc giao tiếp trong hiện thực" xuất hiện yếu tố đạo đức trong con người đó là thời
điểm bắt đầu của văn hoá, kết thúc giai đoạn thứ hai của lịch sử loài người.
Bước phát triển tiếp theo của lịch sử loài người, Kant liên hệ với sự xuất hiện
khả năng dự báo tương lai. Khả năng dự báo là đặc tính cơ bản của chủ thể nhận
thức và hành động, bởi không có sự dự báo thì sẽ không có hiện tượng ý thức. Khả
năng dự báo tương lai tạo điều kiện cho con người chuẩn bị mục đích xa hơn.
"Người chồng cần phải nuôi mình, nuôi vợ và các con cái sắp sinh, đã nhìn thấy sự
nhọc nhằn trong lao động của mình tăng lên. Người vợ cảm thấy đau khổ vì tự
nhiên cản trở giới tính của bà, vì những việc mà người chồng vũ phu đè nặng lên
vai. Trong cuộc sống nhọc nhằn, cả hai người bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ vì họ đã nhìn
thấy trong tương lai cái chết điều xảy ra đối với các động vật mà chúng không ý
thức được.
Và họ sẵn sàng quở trách, cho rằng lý tính là tội ác, vì lý tính mà họ phải chịu
những đau khổ của cuộc đời. Ý nghĩ cho rằng sống cho đời sau thế hệ có thể có


một cuộc sống tốt đẹp hơn đã giảm nhẹ sự nhọc nhằn trong lao động, ý nghĩ đó trở
thành niềm hy vọng an ủi duy nhất đối với họ.
Bước thứ tư và cũng là bước cuối cùng trong sự phát triển của lịch sử loài
người nguyên thuỷ gắn liền với việc xuất hiện tự ý thức về loài. Con người đã ý
thức được một cách mơ hồ rằng "bản thân nó là mục đích của tự nhiên và không
một tồn tại nào trên trái đất có thể so sánh được với nó". Đồng thời con người có
quan hệ bình đẳng với các tồn tại khôn ngoan khác nhằm đạt mục đích của mình,
chứ không coi chúng là phương tiện. Kể từ thời điểm đó, thời thơ ấu của loài
người kết thúc, loài người từ bỏ cái nôi người mẹ tự nhiên để bước sang một thế
giới đầy thử thách, đau khổ và trăn trở. Lý tính thức tỉnh con người, hướng nó tới

sự phát triển các năng lục và tư chất bẩm sinh, đồng thời ngăn trở con người không
được trở về trạng thái ngu muội, thù địch mà nó đã từng thoát khỏi. Lý tính cũng
mách bảo con người cần phải lao động. Sự thoát khỏi trạng thái tự nhiên theo Kant
"là bước chuyển từ trạng thái động vật hoang dã sang trạng thái có nhân tính, từ
trạng thái thống trị của bản năng sang trạng thái thống trị bằng lý tính nói cách
khác, là bước chuyên từ trạng thái bảo trợ của tự nhiên vào trạng thái tự do.
Trạng thái lịch sử đầu tiên của tự do, theo Kant, chính là giai đoạn chuyển từ
thời đại yên tĩnh hoà bình vào thời đại lao động và bất hoà với tư cách là một bước
chuyển tiếp đến sự hình thành xã hội. Trong trạng thái tự do, con người là chủ thể
lao động, cuộc sống săn bắt và hái lượm cơ bản đã chấm dứt, loài người chuyển
sang nghề trồng trọt, chăn nuôi, chế tác công cụ lao động và các phương tiện sinh
họat (thủ công). Theo Kant, xã hội xuất hiện ở giai đoạn lý tính con người đã phát
triển. Sự xuất hiện xã hội kéo theo sự hình thành con người xã hội đó chính là một
bước ngoặt lớn trong lịch sử nhân loại. Nhưng cũng từ đó làm phát sinh nhiều mâu
thuẫn xã hội mà hạt nhân là tính đối kháng.
Vấn đề đối kháng xã hội được Kant lý giải khá rõ trong tác phẩm, ý niệm (về
lịch sử phổ biến trên bình diện công dân toàn cầu (1784). Kant cho rằng, trong
giao tiếp xã hội, con người luôn cảm thấy mình có những tư chất bẩm sinh. Nhưng
nếu hành động của con người phù hợp với sự hiểu biết của nó thì tất yếu sinh ra
phản kháng của những cá nhân khác và chính bản thân nó cũng chính là sự phản
kháng. "Chính sự phản kháng đó - Kant viết: khơi dậy nơi con người nguồn sức
lực, buộc nó khắc phục sụ lười biếng bẩm sinh và thức tỉnh bởi thói háo danh, say
mê quyền lực hay vụ lợi, nó tự tạo cho mình địa vị đối với những tha nhân mà thực
ra nó không thể chịu đựng được nhưng khó mà lẩn tránh. Thiếu kháng thì con
người không còn là con người nữa, vì mọi tư chất bẩm sinh của nó sẽ không được
bộc lộ. Bởi vì "phương tiện được tự nhiên sử dụng để phát triển mọi tư chất bấm
sinh của con người là tính đối kháng của họ trong xã hội, mà tính đối kháng xét
đến cùng chính là nguyên nhân lập nên trật tự hợp pháp của họ".
Kết quả của sự đối kháng xã hội, theo Kant, chính là sự thiết lập một xã hội
công dân pháp quyền phổ biến, trong đó các thành viên có thể dành được tự do



trên cơ sở phải tôn trọng quyền tự do của người khác. Chỉ trong một xã hội như
vây mới có thể đạt tới mục đích tối cao của tự nhiên là phát triển mọi tư chất bẩm
sinh vốn có ở con người. Phương tiện để đạt tới một xã hội như vậy chính là một
nền hoà bình vĩnh viễn. Nghĩa là phải loại bỏ mọi cuộc chiến tranh, bởi chiến tranh
đồng nghĩa với đói nghèo, bất hạnh và chia rẽ. Nền hoà bình vĩnh viễn sẽ góp phần
hợp nhất các dân tộc trên toàn cầu lại với nhau thành một khối thống nhất, giúp
nhân loại tránh được những hiểm họa có tính toàn cầu (bạo lực, chiến tranh, đói
nghèo...).
Quan niệm về lịch sử nhân loại như đã nêu trên là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn
bộ triết học xã hội của Kant. Nó cũng là phương pháp luận cơ bản để ông lý giải về
vấn để con người, với tư cách là một cá thể của loài. Ẩn náu đằng sau bức tranh
lịch sử nhân loại mà Kant đã phác họa ra là biện chứng của cá thể và loài, của cá
nhân và xã hội. Chỉ với tư cách là một cá thể của loài, con người mới phát hiện ra
sự sáng suốt và tính hợp mục đích tuyệt diệu của một trật tự xã hội đã được thiết
lập, với phương châm đó, Kant tiếp cận vấn đề con người cùng một lúc từ nhiều
khía cạnh khác nhau:
Con người với tư cách là "homo Phaenomenon", nó là tồn tại cao nhất trong
mọi tồn tại, phải phục tùng các quy luật tất yếu, nhưng cũng luôn hướng tới tự do.
Con người là chủ thể có nhân cách hàm chứa trong mình các nhân tố đạo đức
và giá tri văn hoá. Con người là chủ thể, đồng thời là sản phẩm của giáo dục. "Con
người chỉ có thể trở thành con người bằng con đường giáo dục".
Con người với tư cách là "homo noumenon" - một tồn tại giàu trí tưởng
tượng, bởi "trí tưởng tượng là người họa sĩ vĩ đại, hơn nữa là người có phép thần
thông ... Con người là tồn tại sáng tạo nên nền văn hoá nhờ có một năng lực ký
diệu đó là trí tưởng tượng được thực hiện dưới sự kiểm soát của giác tỉnh, lý tính
và năng lực phán đoán trong giới hạn của trực quan cảm tính". Nhờ được trang bị
bằng trí tưởng tượng đó mà con người luôn hướng tới một xã hội lý tưởng - xã hội
công dân toàn cầu. Kant không lý giải một cách rõ ràng và cụ thể những vấn đề mà

ông đã đặt ra, ông cũng không trả lời một cách dứt khoát câu hỏi: Con người là gì?
Tuy vậy qua các tác phẩm của ông, chúng ta nhận thấy "Kant rất quan tâm đến vấn
đề vai trò họat động cải tạo của con người với tư cách là chủ thế của thế giới,
bởi theo ông con người về bản chất là một thực thể họat động tích cực. Bản chất
họat động của con người, theo Kant được biểu hiện đầy đủ nhất trong lĩnh vực đạo
đức. Nhà tư tưởng vĩ đại đã nhìn thấy sự không tương hợp nhất định giữa bản chất
con người và vị trí của con người trong hiện thực. Ông đã vạch rõ khả năng "xuyên
tạc" phong thái con người bởi những hoàn cảnh "bắt buộc” trong điều kiện đời
sống quan liêu của xã hội phong kiến. Ông đã nhìn sâu vào những vấn đề xã hội,
vạch ra những điều kiện cần thiết nhầm giúp con người nhận ra vị trí của mình
trong thế giới và hiểu đúng đắn mình phải như thế nào để trở thành một con người.


Mong ước lớn nhất của nhà tư tưởng mang nặng tinh thần nhân đạo chủ nghĩa
là sự giải phóng con người khỏi mọi khổ đau, bất hạnh, áp bức bóc lột và sự lệ
thuộc. Bởi vì "con người lệ thuộc người khác thì không còn là người nữa. Anh ta
đã tự đánh mất danh hiệu của mình và trở thành nô lệ của người khác... mà nô lệ là
cái ác lớn nhất trong bản chất con người". Con người là chủ thể của hành động xã
hội, nó cũng là mục đích tối cao của tự nhiên, cho nên "con người có mục đích tự
thân, nghĩa là không một ai (thậm chí cả thượng đế) có thể sử dụng nó như một
phương tiện nếu không vì mục đích của chính con người".
Nhìn lại những quan điểm của Kant về vấn đề con người, chúng ta thấy còn
nhiều điểm đáng phải tranh luận. Tuy nhiên, điều đáng quý trong triết học nhân
học của Kant là ở chỗ, thông qua lĩnh vực tri thức mới mẻ này ông muốn gửi tới
đương thời và hậu thế bức thông điệp về sự thống nhất giữa chân lý, cái đẹp và cái
cao cả. Chính ở đây, trong nhân bản học của Kant, chúng ta chợt nhận ra rằng chân
- thiện - mỹ là ba giá trị cao quý nhất làm cho nhà triết học trăn trở suất cả cuộc
đời.
2. Hạn chế trong bản thể luận của Kant
Triết học Kant hết sức đa dạng, phong phú, bao trùm nhiều lĩnh vực, song còn

chứa đựng một số hạn chế có thể kể đến như sau:
Thứ nhất: Vấn đề Bản thể luận của Kant với nội dung hết sức đa dạng và
phong phú bao trùm nhiều lĩnh vực nhưng còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn mà
chính ông cũng không tự giải thích được
Kant xuất phát từ quan điểm duy vật tự phát và biện chứng tự nhiên, tập trung
nghiên cứu các vấn đề khoa học và triết học tự nhiên như: giải thích hiện tượng
thủy triều, lý giải sự phát triển của vũ trụ, đưa ra giả thuyết về sự hình thành của
vũ trụ là một vụ nổ tự nhiên…Khi dựa trên cơ học của Newton và vật lý học của
Decate – Lepnit, Kant coi giới tự nhiên như một hệ thống luôn nằm trong quá trình
phát triển ngày càng hoàn thiện, từ đó xây dựng phép biện chứng trên cơ sở quan
niệm duy vật về sự vận động, phát triển và mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên. Điều đó đã chấm dứt quan niệm duy tâm ở thời kỳ trước. Kant đưa
ra quan điểm về mâu thuẫn trong đó cho rằng các lực đối lập là quy luật phổ biến
của tự nhiên. Chính điều này đã đưa Kant đến việc tấn công phá vỡ quan điểm siêu
hình khi xem xét thế giới vật chất. Theo ông thế giới của chúng ta là thế giới vật
chất , luôn vận động và biến đổi không ngừng, mọi sự vật đều có sự liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau thông qua lực hút và lực đẩy. Mặt khác, do chưa thoát khỏi
quan niệm siêu hình cùng với sự nhìn nhận thế giới một cách tách rời, Kant còn
cho rằng mọi sự vận động ở thế giới bên ngoài chúng ra chỉ là sự tồn tại dưới dạng
đơn giản nhất, ngẫu nhiên.
Học thuyết của Kant về các Antinomia còn nhiều hạn chế. Thứ nhất, ông chỉ
thừa nhận mâu thuẫn trong tư tưởng, lý tính con người chưa thấy được mâu thuẫn


tồn tại trong toàn bộ hiện thực khách quan. Thứ hai, các Antinomia như đã nói ở
trên chưa phải là mâu thuẫn biện chứng, vì giữa các vế chính đề và phản đề của
chúng không có sự thống nhất chuyển hóa lẫn nhau. Thứ ba, giải quyết mâu thuẫn
không chỉ dừng lại ở việc phân tích từng mặt đối lập rồi kết luận đúng sai như
Kant tưởng. Trên thực tế, quá trình nảy và giải quyết mâu thuẫn là động lực thúc
đẩy sự phát triển. Thứ tư, Kant đã sai lầm khi hạn chế số lượng các Antinomia.

Trong khi, như Hegel nhận xét, chúng có trong “tất cả các sự vật ở mọi hình thức,
trong tất cả các quan niệm, ý niệm và khái niệm”.
Thêm vào đó, trong học thuyết phân đôi thế giới, Kant đã đặt giới hạn nhận
thức của con người trước “vật tự nó”, thế giới vật tự nó là bất khả tri duy trì quan
điểm nhị nguyên luận trong quan niệm về thế giới mà Hegel cũng như các nhà
kinh điển Mác – Lenin nhiều lần phê phán.
Thứ hai: Trong triết học thời kỳ phê phán, Kant đã bộc lộ rõ tư tưởng bị dao
động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm làm cho nhận thức về sự tồn tại
của vật chất chưa được thống nhất và sâu sắc.
Khi các vấn đề khoa học tự nhiên không còn thỏa mãn, nhất là khi trình độ
nhận thức với tư duy siêu hình không thể lý giải được các vấn đề mới mẻ như bản
chất của sự sống và lý tính con người, chính sự bế tắc trong việc lý giải nguồn gốc
sự vận động của thế giới vật chất khiến ông đi đến quan niệm về thế giới “vật tự
nó” tồn tại bên ngoài mọi khả năng nhận thức của con người và cái mà con người
nhận thức được thật ra là thế giới hiện tượng – hay là thế giới khả giác. Theo Kant,
nguồn gốc của sự vận động không phải nằm ở bản thân vật chất mà nằm ở cái đằng
sau của vật chất với tính cách là nguyên nhân đầu tiên. Thuyết động lực của ông
thể hiện rõ bước chuyển từ thế giới quan duy vật tự phát sang thế giới quan duy
tâm khi cho rằng cái có trước không phải là vật chất mà là một thứ lực thuần túy
làm cho vật chất vận động.
Đây chính là một trong những điểm hạn chế trong vấn đề bản thể luận của
Kant. Tư tưởng biện chứng của Kant bị dao động giữa chủ nghĩa duy vật và duy
tâm làm cho nhận thức về sự tồn tại của vật chất chưa được thống nhất và sâu sắc.
Theo Kant, vận động đã bị tách ra khỏi vật chất, đối lập với vật chất và có trước
vật chất. Động lực học tuyệt đối đã đuổi nguyên tử luận với tư cách là học thuyết
về cấu trúc vật chất, là cơ sở của chủ nghĩa duy vật, ra khỏi khoa học tự nhiên.
Kant là một trong những nhà triết học theo thuyết không thể biết. Ông đặt ra
và đã không giải quyết được là: làm thế nào để biết được rằng những cảm giác,
biểu tượng và nói chung ý thức của con người có phù hợp với sự vật mà con người
muốn nhận thức hay không. Bản chất của sự vật là cái ẩn giấu đằng sau vô vàn

những hiện tượng được biểu hiện ra mà con người nhận được bằng cảm giác.
Nhưng giác quan của con người cũng như khả năng nhận biết của mỗi giác quan là
có hạn. Ý thức được mặt hạn chế của nhận thức và tính tương đối của chân lý là
bước phát triển của tư duy triết học. Nhưng Kant lại đi tới phủ nhận khả năng nhận


thức thế giới của tư duy con người, phủ nhận chân lý khách quan thì đây là điểm
sai lầm và rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Có thể thấy, mặc dù vấn đề bản thể luận trong triết học của Kant còn tồn tại
những hạn chế nhất định nhưng Kant đã đưa ra những tư tưởng mang tính chất nền
móng cho quan niệm biện chứng về giới tự nhiên và lịch sử, đồng thời đặt ra nhiều
vấn đề sâu sắc cho sự phát triển của Triết học phương Tây hiện đại. Chính vì vậy,
không thể phủ nhận ý nghĩa và giá trị to lớn của vấn đề bản thể luận trong triết học
của Kant đối với triết học nhân loại nói chung và triết học Mác – Lê nin nói riêng.


KẾT LUẬN
Triết học nói chung và bản thể luận triết học nói riêng bao giờ cũng đóng một
vai trò quan trọng trong việc đápứng nhu cầu tinh thần, định hướng cho lối sống và
hoạt động thực tiễn của con người, đem lại những giả thuyết táo bạo cho khát vọng
đặc trưng của con người. Mỗi thời đại đều có những ý kiến khác nhau về thực chất
của tồn tại người và có vô số những tư tưởng đã xuất hiện. Kant đã có những đóng
góp quan trọng trong lĩnh vực xây dựng bản thể luận triết học của nền triết học cổ
điển Đức. Tiếp nối truyền thống bản thể luận triết học duy lý cận đại, Kant cũng
tiến hành luận chứng cho khoa học về mặt bản thể luận, song ông còn đi xa hơn
thế. Công lao của Kant là đã khẳng định tính phổ biến của các cặp phạm trù tìm ra
những yếu tố của mối liên hệ biện chứng giữa các cặp phạm trù đó, Kant là một
trong những người đầu tiên trong lịch sử triết học đặt ra mâu thuẫn trong nhận thức
và luận giải vấn đề đó theo tinh thần biện chứng.
Tư tưởng của Kant biểu hiện những ưu và khuyết điểm của cách mạng tư sản

một cách đặc biệt đúng đắn. Triết học của ông đã có nhiều ảnh hưởng trong giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa (tư bản tiếp tục phát triển khuyết điểm của ông). Trong
triết học tư sản, đối lập với tư tưởng của giai cấp công nhân lúc bấy giờ, có hai
hướng chính là Kant và Herder, nhưng hướng phổ cập vẫn là hướng của Kant, vì
một mặt tư tưởng ông sát với quyền lợi của giai cấp tư sản, một mặt biện chính cho
mọi kinh nghiệm thực tế của giai cấp tư sản: phê phán lý tính thuần túy (khoa học),
phê phán lý tính thực tiễn (pháp lý) và thưởng thức thuần túy (thẩm mỹ học).



×