Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Lịch sử hình thành, phát triển của khái niệm biện chứng và siêu hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.3 KB, 9 trang )

Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

MỤC LỤC

1


Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

I.

MỞ ĐẦU

Khái niệm "biện chứng" và khái niệm "siêu hình" có một lịch sử hình thành và
phát triển, trải dài qua các giai đoạn từ thời cổ đại, giữa chúng có sự đối lập nhưng
đều mang những ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của triết học nói chung
và phép biện chứng nói riêng. Điều này sẽ được trình bày trong bài nghiên cứu của
nhóm với đề tài: "Lịch sử hình thành, phát triển của khái niệm "biện chứng" và
"siêu hình"".
II.

NỘI DUNG

1. Sự hình thành và phát triển của khái niệm "siêu hình"
Thuật ngữ “siêu hình” có nguồn gốc từ chữ Metaphysique, được Aristot dùng
để chỉ những hoạt động nghiên cứu khoa học sau vật lý học của mình. Bản thân
Aristotle chưa sử dụng thuật ngữ “siêu hình”, song, nếu căn cứ vào những tác phẩm


của ông được tập hợp lại dưới tên gọi “siêu hình học”, thì có thể khẳng định rằng,
trong quan niệm của Aristotle, siêu hình là học thuyết về những nguyên tắc và các
bản nguyên tối cao, siêu kinh nghiệm của tồn tại, của nhận thức, của văn hoá và của
con người. Siêu hình học lúc đầu là khoa học về tồn tại, nó được hiểu là học thuyết
về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, về những đối tượng đằng sau
các sự vật hữu hình.

Từ cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi
hỏi phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu. Khi
đó, phương pháp siêu hình xuất hiện giúp cho khoa học tự nhiên hệ thống hóa các
tài liệu đã tích lũy được. Lúc đầu nó chỉ là là sự phát triển của khoa học thực
2


Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

nghiệm, là phương pháp khoa học chia nhỏ tự nhiên thành những bộ phận để nghiên
cứu và từ đó đã làm xuất hiện thói quen xem xét sự vật ở trạng thái cô lập, tách rời,
bất biến trong quá trình nghiên cứu. Về sau khi phương pháp xem xét này được đưa
vào triết học thì nó tạo ra phương pháp siêu hình, đặc trưng trong tư duy triết học thế
kỷ XVII-XVIII.
Từ cuối thế kỷ XVIII sang thế kỷ XIX, khi sự nghiên cứu chuyển từ giai đoạn
sưu tập sang giai đoạn chỉnh lý, giai đoạn nghiên cứu về các quá trình, về sự phát
sinh, phát triển và kết thúc của sự vật, thì phương pháp chỉ hạn hẹp trong việc xem
xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái bất biến, không phụ thuộc lẫn nhau đã kìm
hãm sự phát triển của khoa học tự nhiên, phương pháp siêu hình không còn đáp ứng
được yêu cầu của nhận thức khoa học nữa và bắt đầu bị loại bỏ. Nhu cầu nghiên cứu
mới trong khoa học tự nhiên đòi hỏi phải có một cách nhìn biện chứng về thế giới.

Từ đó phương pháp biện chứng phát huy thế mạnh và trở thành phương pháp thống
trị trong tư duy khoa học.

2. Sự hình thành và phát triển của khái niệm "biện chứng"
Khái niệm “Biện chứng” được bắt đầu hình thành từ phép biện chứng tự phát
của Hêraclít và học thuyết triết học cổ đại. Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ
đại, đặc biệt là phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại, là tính chất phác,
thuần phác tự nhiên. Các nhà triết học cổ đại nghiên cứu sự vận động, phát triển của
đối tượng trong bức tranh chung, tổng thể về thế giới. Phép biện chứng cổ đại đã coi
3


Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

thế giới là một chỉnh thể thống nhất giữa các bộ phận của thế giới, có mối quan hệ
qua lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động,
biến đổi. Đây chính là nền tảng để phép biện chứng phát triển lên hình thức cao hơn.
Do trình độ khoa học chưa phát triển, nên phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những
quan điểm biện chứng mộc mạc, mang tính phỏng đoán trên cơ sở những kinh
nghiệm trực quan mà chưa được chứng minh bằng các tri thức khoa học. Chính vì
hạn chế này mà phép biện chứng Cổ đại phải nhường bước cho phép siêu hình,
phương pháp thống trị trong tư duy triết học ở thế kỷ XVIII là điều không thể tránh
khỏi.
Từ thế kỷ XV – XVIII khoa học tự nhiên phát triển và đi sâu vào mổ xẻ phân
tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những phương pháp đó
đã dần tạo thói quen xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời và bất biến nên
phương pháp siêu hình trở nên thống trịnh. Tuy siêu hình thống trị nhưng các học
thuyết triết học thời kỳ cũng chưa đựng những quan điểm biện chứng hết sức sâu

sắc, với các đại biểu như: Đềcáctơ, Xpinôda hay là Brunô... Lịch sử phép biện
chứng không bị gián đoạn phương pháp tư duy siêu hình là giai đoạn chuẩn bị của
các tiền đề cho sù phát triển mạnh mẽ và thắng lợi sau này của lịch sử phép biện
chứng. Sự tiến bộ của nhận thức khoa học đòi hỏi phải có cách nhìn biện chứng về
giới tự nhiên làm cho các quan niệm siêu hình bắt đầu bộc lộ hạn chế. Vì vậy mà nó
không khỏi bị phép biện chứng cổ điển Đức phủ định. Các nhà triết học cổ điển Đức
đã phê phán tư duy siêu hình và trình bày thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy một
cách biện chứng có nghĩa là trong sự vận động và phát triển không ngừng.
Nếu phép biện chứng trong triết học cổ đại chủ yếu được nghiên cứu trên cơ
sở kinh nghiệm hàng ngày, các phép biện chứng trong thời đại tiếp theo về căn bản
đã bị tư duy siêu hình thay thế và chỉ được phát triển không đều trong một số học
thuyết triết học riêng biệt chưa có tính hệ thống, thì phương pháp tư duy biện chứng
4


Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

trong chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức đã được xây dựng thành lý luận một cách có
hệ thống. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức đã áp dụng một
cách có ý thức phép biện chứng vào các lĩnh vực khác nhau hình thành nên quy luật
chung nhất của nhận thức.
Tuy nhiên biện chứng trong giai đoạn này mang tính duy tâm bảo thể thể hiện
ở sự vận động của xã hội là sự vận động của tư duy, giới hiện thực chỉ là sự sao chép
của tinh thần, bởi vậy phép biện chứng cổ điển Đức là có tính chất duy tâm. Như
Lênin đã đánh giá dù có thần thánh hóa duy tâm nhưng phép biện chứng cổ điển
Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic và lý luận nhận thức.

Đến giữa thế kỷ XIX khi khoa học tự nhiên tiến đến khái quát, nghiên cứu

quá trình phát sinh, phát triển của đối tượng trên quan điểm duy vật thì phép biện
chứng duy tâm cổ điển Đức phải bị phủ định và thay thế bằng phép biện chứng duy
vật. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng duy tâm, sau khi
gạt bỏ tính chất duy tâm thần bí của nó, Mác - Ăng ghen xây dựng phép biện chứng
duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Đến
thế kỷ XX phép biện chứng duy vật được Lênin phát triển cao hơn nữa trên cơ sở
nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.

5


Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

3. Nhận xét về quá trình hình thành và phát triển của hai khái niệm "siêu
hình" và "biện chứng"
Từ việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của hai khái niệm “Biện
chứng “ và “siêu hình” ta có thể thấy rằng:
Thứ nhất, trong lịch sử triết học có những thời gian phương pháp siêu hình
chiếm ưu thế hơn so với phương pháp biện chứng. Nhưng xét tòan bộ lịch sử triết
học thì phép biện chứng chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần và xã hội.
Thứ hai, ta thấy được những đặc trưng của hai phương pháp siêu hình và biện
chứng. Nếu siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng một cách tách biệt riêng lẻ trong
trạng thái tĩnh thì biện chứng nghiên cứu sự vật hiện tượng trong mối liên hệ tổng
thể và trong trạng thái vận động. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn
chế riêng. Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng
nào trước hết con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và
nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác
định. Song phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi

hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm. Tuy chưa
phản ánh đúng hiện thực trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ
nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy
tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời trung cổ sang thời phục
6


Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

hưng ở các nước Tây âu. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của phương pháp siêu
hình bởi lẽ có những trường hợp cần xem xét sự vật hiện tượng, sử dụng phương
pháp siêu hình sẽ mang lại hiểu quả rất tốt. Thêm nữa, chủ nghĩa siêu hình cho ta
thấy cái sai khi phân tích một sự vật hiện tượng một cách riêng lẻ, bất biến. Nó dẫn
đến sự đúng đắn trong nghiên cứu chủ nghĩa biện chứng sau này.

Vì thế trong nghiên cứu khoa học cũng như triết học, không nên tuyệt đối hóa
phương pháp biện chứng hay phương pháp siêu hình, mà tùy trường hợp và hoàn
cảnh mà ưu tiên sử dụng phương pháp nào hoặc kết hợp phương pháp nào để có tri
thức đầy đủ và đúng đắn nhất về sự vật và hiện tượng.

III.

KẾT LUẬN

Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình đều là những phương
pháp nhận thức của nhân loại. Từ việc xem xét lịch sử hình thành và phát triển của
hai khái niệm "biện chứng" và "siêu hình" có một lịch sử hình thành và phát triển, có
những thăng trầm khác nhau nhưng đều đóng góp lớn đáp ứng cho việc nghiên cứu

7


Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

về thế giới của các triết gia nói riêng và các nhà khoa học nói chung, đặc biệt nó có
ý nghĩa trong sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Theo cách diễn đạt của Lênin:
phép biện chứng duy vật có thể và cần được quan niệm là sự tổng kết và kết luận
của toàn bộ lịch sử phát triển của tư duy con người và thực tiễn xã hội loài người.

8


Môn: Triết học

Nhóm 01 - Lớp A1 – Khóa 23

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học, Nxb. Đại học Sư phạm;
TS. Lê Công Sự, Triết học cổ đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014;
Bộ Giáo dục và đào tạo, Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (chủ biên),
Nxb. VHTT, 1998
Đỗ Minh Hợp, Lịch sử triết học đại cương, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2010


9



×