Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân biệt quan điểm của đạo nho với đạo lão trang về vấn đề bản thể luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.06 KB, 15 trang )

A.

MỞ ĐẦU

Xuân thu – chiến quốc là thời kỳ thiên hạ đại loạn kéo dài, rất nhiều học
thuyết xuất hiện giải thích xã hội và đưa ra cách chữa trị khác nhau từ nhiều
phương diện khác nhau. Nho gia đại biểu cho tư tưởng của giai cấp địa chủ phong
kiến, giai cấp thống trị cũ. Pháp gia đại biểu cho giai cấp địa chủ phong kiến mới.
Mặc gia đại biểu cho tầng lớp du hiệp (võ sĩ quý tộc thất thế), thợ thủ công, tiểu
thương sản xuất nhỏ. Đạo gia đại biểu cho tầng lớp quý tộc. Đó là về phương diện
chính trị-xã hội, còn về tư tưởng triết học, cụ thể quan điểm về bản thể luận được
thể hiện như thế nào? Xuất phát từ lý do trên nhóm chọn đề tài: Phân biệt quan
điểm của đạo Nho với đạo Lão Trang về vấn đề bản thể luận. Trong quá trình
làm bài, do nhận thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiết sót, rất
mong nhận được sự đóng góp của thầy, cô cho bài làm của nhóm! Xin chân thành
cảm ơn thầy, cô!
B.
1.

NỘI DUNG

Khái niệm về bản thể luận
Trong lịch sử triết học, vấn đề bản thể luận qua thời kỳ có những cách hiểu
khác nhau.
Thời kỳ trước Mác - Lênin: Bản thể luận là một học thuyết dùng để chỉ sự
tồn tại hay có thể hiểu là một học thuyết chỉ cái đang tồn tại”. Trong thời kỳ này
các nhà triết học đã nhận ra Bản thể luận bàn đến sự tồn tại nói chung của vật chất
và ý thức nhưng chưa có tính quy luật của sự tồn tại này.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác: Bản thể luận dùng để chỉ những quy
luật của sự vận động và phát triển của những cái đang tồn tại. Bản thể luận bàn tới
phạm trù vật chất và ý thức.


Sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và nhận thức luận được thể hiện: Bản
thể luận là bàn tới tất cả những gì đang tồn tại, đang diễn ra, sự tồn tại là của bản
thân nó, không cần biết ta có nhận thức được hay không.
1


Nhận thức luận là bàn tới nhận thức của con người về thế giới khách quan,
nếu nhận thức được sẽ thống trị nó, không nhận thức được sẽ bị nó thống trị.
Bên cạnh đó, quan điểm nhất nguyên luận và nhị nguyên luận giải quyết vấn
đề về bản thể luận như sau:
-

Nhất nguyên luận chỉ thừa nhận thực thể tồn tại duy nhất (Vật chất hoặc tinh
thần) sinh ra vật thể kia.
+ Nhất nguyên duy vật: chỉ thừa nhận thực thể vật chất sinh thực thể tinh

thần;
+ Nhất nguyên duy tâm: chỉ thừa nhận thực thể tinh thần sinh thực thể vật
chất
-

Nhị nguyên luận là những quan điểm mà nhà triết học đồng thời thừa nhận 2
thực thể vật chất và tinh thần song song tồn tại và những thực thể đó có

2.

thuộc tính riêng.
Quan điểm của Triết học Trung Quốc cổ đại về bản thể luận.
Trong triết học Trung Quốc cổ đại, bản thể luận được gọi là bản căn luận,
dùng để chỉ một học thuyết nghiên cứu về các nguyên nhân căn bản cũng như

những căn cứ căn bản của sự sinh thành, tồn tại và phát triển của vũ trụ vạn vật.
Nhìn chung các triết gia Trung Quốc cổ đại đều quy bản căn của vũ trụ vạn vật vào
những hình thức vô hình, vô tướng, không phải là các sự vật, hiện tượng cụ thể
cảm tính.
Có thể phân chia 3 quan niệm về bản căn của triết học Trung Quốc cổ đại
như sau:

3.

Một là bản căn là vật chất không có hình dáng cố định (ví dụ: Khí).
Hai là bản căn là khái niệm hay nguyên tắc trừu tượng (ví dụ: Vô hay Lý).
Ba là bản căn là tinh thần chủ quan (Tâm).
Phân biệt quan điểm của đạo Nho và đạo Lão Trang về bản thể luận
Đạo Nho và đạo Lão Trang được hình thành vào thời Xuân Thu – Chiến
Quốc. Ra đời trong bối cảnh xã hội chiếm hữu nô lệ đang trên đà tan rã còn xã hội
2


phong kiến chưa được hình thành, khoa học tự nhiên chưa phát triển nên mối quan
tâm hàng đầu của các nhà triết học Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời
sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội, vấn đề về bản thể luận vẫn còn chưa
được quá chú trọng trong nội dung tư tưởng triết học của đạo Nho, đạo Lão Trang
nói riêng và triết học Trung Hoa cổ đại nói chung.
Về đạo Lão Trang: Người sáng lập Đạo gia là Lão tử. Tác phẩm nổi tiếng
của ông “ Đạo đức kinh”. Người tiếp tục phát triển Đạo gia là Trang tử, tác phẩm
nổi tiếng “ Nam hoa kinh”. Cùng với Đạo đức kinh, Nam hoa kinh là những tác
phẩm kinh điển thể hiện tư tưởng của Đạo gia. Nói về học thuyết của Đạo gia
người ta còn gọi là Đạo Lão Trang vừa để phân biệt với Đạo giáo, vừa nói lên tác
giả chính là Lão Tử và Trang tử.
Về đạo Nho: Người sáng lập đạo Nho là Khổng Tử, được Mạnh Tử và Tuân

Tử hoàn thiện và phát triển thành tám phái, theo hai xu hướng khác nhau: duy tâm
và duy vật.
Mặc dù được hình thành trong cùng thời điểm lịch sử, nhưng những quan
điểm về bản thể luận của đạo Nho và đạo Lão Trang có nhiều điểm khác biệt.
Thứ nhất: Tư tưởng về bản thể luận của đạo Nho và đạo Lão Trang


Về đạo Nho:
Đạo Nho có quan điểm không nhất quán qua từng thời kì. Cụ thể: Khổng Tử
có tư tưởng không nhất quán, theo chủ nghĩa duy tâm khách quan, thần bí trong
vấn đề bản thể luận về quan hệ giữa vũ trụ và con người. Quan điểm của Khổng tử
về thế giới nửa duy vật nửa duy tâm, ngả về duy tâm khách quan. Đến thời Mạnh
Tử thì phát triển tư tưởng của Khổng tử về duy tâm, có duy tâm khách quan và duy
tâm chủ quan; còn Tuân tử phát triển tư tưởng Khổng tử về duy vật. Quan niệm thế
giới quan Đạo Nho gồm: quan điểm về Trời, quan điểm về người.
Có thể thấy, Nho gia ít bàn đến vấn đề bản thể luận, song quan niệm về vũ
trụ, nhân sinh là nền tảng của học thuyết chính trị - đạo đức của họ. Xuất phát tự sự
3


kế thừa, phát triển tư tưởng kinh dịch, Khổng Tử nêu quan điểm về Trời và về
Người, mối quan hệ giữa trời và người.


Về đạo Lão Trang:
Tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của đạo Lão Trang.
Theo đó, đạo Lão Trang cho rằng, đạo là quy luật mang tính khách quan. Bản thể
luận trong đạo Lão Trang là duy tâm khách quan.
Phạm trù đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:


-

Đạo là vô danh.
Trên thực tế, vạn vật trong vũ trụ đều có danh (hữu danh), tức là vật nào
cũng có tên gọi của nó, tên gọi này do con người đặt cho sự vật một cách ngẫu
nhiên hoặc mang tính võ đoán. Để đối lập với những gì hữu danh, Lão Tử nói đến
vô danh. Mở đầu Đạo đức kinh, chương I Lão Tử viết “Đạo khả đạo phi thường
đạo, danh khả danh, phi thường danh, vô danh thiên hạ chi thỉ, hữu danh vạn vật
chi mẫu” (đạo nói được không phải là đạo thường, danh gọi được không phải là
danh thường, vô danh là đầu của trời đất, hữu danh là mẹ của muôn vật).

-

Đạo là bản thể nguyên sơ của vũ trụ,là nguồn gốc sinh ra muôn vật, là mẹ của
muôn loài.
Trong Chương 25 Đạo đức kinh, Lão Tử viết “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên
địa sinh, tịch hề liêu hề, độc lập bất cải, châu thành nhi bất đãi, khả dĩ thiên hạ vi
mẫu, ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết đạo” (Có một vật hỗn độn mà thành, sinh
trước trời đất, yên lặng trống không, đứng yên mà không đổi, đi khắp mà không
mỏi, có thể làm mẹ của thiên hạ, ta không biết tên, gọi nó là Đạo). Vậy, Đạo sinh ra
vạn vật như thế nào? Trong Chương 42 Đạo đức kinh ông giải thích: Đạo sinh
nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật - Đạo sinh ra một(thái cực), một
sinh hai (âm dương), hai sinh ba (thiên-địa-nhân), ba biến hóa sinh vạn vật.

4


Về tính chất, Đạo là cái lung linh, mờ ảo, thoát trần, gồm 3 đặc tính cơ bản:
Thị chi bất kiến, thính chi bất văn, bác chi bất đắc (Nhìn mà không thấy, nghe mà
không hay biết, nắm mà không được).

-

Đạo là quy luật chi phối sự vận động và phát triển của vũ trụ.
Trong Chương 25 Đạo đức kinh, Lão Tử viết: nhân pháp địa, địa pháp thiên,
thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên, nghĩa là người theo quy luật của đất, đất theo
quy luật của trời, trời theo quy luật của đạo, đạo theo quy luật của tự nhiên.

-

Đạo vận động và phát triển theo quy luật vòng tròn trên nguyên tắc bù trừ đắp đổi.
Trong Chương 58 Đạo đức kinh ông viết: Họa đồ phúc chi sở ỷ, phúc hề họa
chi sở phục (họa là chỗ tựa của phúc, phúc là chỗ náu của họa).
Chương 77 Đạo đức kinh có chép: thiên chi đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc
(Đạo của trời bớt chỗ thừa bù vào chỗ thiếu).
Chương 23 Đạo đức kinh có ghi: Phiêu phong bất trung triều, sâu vũ bất
trung nhật, thực dĩ thử giả? Thiên địa, thiên địa bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ
(Gió mát thổi không trọn buổi sớm, mưa rào không suốt cả ngày, ai làm nên vậy?
trời đất. Việc trời đất không trường tồn, huống chi là việc người).

-

Phạm trù Đạo của Lão Tử gắn liền với phạm trù Đức.
Đức theo cách hiểu của Lão Tử là cái lý sâu sắc nuôi sống vạn vật, là hình
dáng của muôn vật. Nhờ có Đạo mà vạn vật được sinh thành, nhờ có Đức mà vạn
vật được nuôi sống tươi tốt.
Đạo là cái “không-tồn tại”, khả niệm, bất khả giác, nhưng con người lại có
thể biết được đạo thông qua hình của nó là “Đức”. Chương 51, Đạo đức kinh Lão
tử viết: Đạo sinh ra vạn vật, Đức nuôi dưỡng bao bọc che chở cho mỗi vật, khiến
cho mỗi vật thành hình, lớn lên cho thành thục. Đạo sinh ra nhưng không nuôi
dưỡng. Nuôi dưỡng tạo nên dáng hình của nó là Đức. Đạo là nguyên lý chung của

vạn vật. Đức là nguyên lý của mỗi vật. Đạo sinh ra rồi thì công việc còn lại là của

5


Đức. Như vậy Đức không phải là một vật cụ thể hữu hình mà là nguyên lý của mỗi
vật, nằm trong mỗi vật của muôn vật trên thế giới.
Đạo được biểu hiện qua cái Đức, Đức là cái hiện hữu của Đạo, có thể cảm
nhận được, người ta có thể thông qua Đức mà thấy cái Đạo. Đạo và Đức, Vô và
Hữu đều cùng một gốc mà sinh ra, cả hai đều sâu kín. Vạn vật từ Đạo mà sinh ra,
Đạo phú cho sự vật thuộc tính, từ đó mà hình thành trong hoàn cảnh. Vì vậy, sự vật
không cái gì là không tuân theo Đạo, không quý Đức, tôn trọng Đạo, quý Đức
không phải là bắt buộc mà là lẽ tự nhiên.
Như vậy, Đức chỉ là thuộc tính, chỉ sự đa dạng của sự vật. Qua cặp phạm trù
Đạo-Đức, Lão tử đã chỉ ra tính thống nhất và đa dạng của sự vật.
Phạm trù đạo của Lão Tử được Trang Tử phát triển theo hướng duy tâm.
Theo Trang Tử, đạo là một cái gì đó siêu thời gian, siêu không gian, siêu
cảm giác. Nó có trước Thái cực. Trong Nam Hoa kinh, Trang Tử viết “Đạo có thực
và tồn tại, đạo vô vi, không có hình trạng, có thể truyền nhưng không thể tiếp nhận,
có thể hiểu mà không thể thấy. Đạo sinh ra trước trời đất, nó sinh ra quỷ thẩn,
thượng đế. Đạo ở trên Thái cực mà không cao, ở dưới Lục cực mà không sâu, có
trước trời đất mà không phải là trường cửu, có trước thời thượng cổ mà không phải
là già”.
 Nhận xét:
Trong quan điểm về thế giới, Đạo Lão Trang đã rơi vào duy tâm khách quan
(chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng đó là thứ
tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần
khách quan này thường mang tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý
tính thế giới,…).
Khi lý giải về sự hình thành thế giới vật chất, cả Lão tử và Trang tử đều

dùng Đạo và Đức để lý giải nguồn gốc hình thành thế giới. Đạo theo quan niệm
của Lão Trang là cái “vô”, cái “không tên” thuần phát ban đầu. Đạo là khởi nguyên
6


của vũ trụ, đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Đạo là cái
gì đó không hiện hữu, mờ ảo mà ta không biết là gì, là lực lượng siêu nhiên.
Tính chất của Đạo: là quy luật mang tính khách quan, con người trong hành
động phải theo đạo, phải phù hợp với hiện thực khách quan.
Có thể thấy, so với các học giả đương thời, Lão tử và Trang tử đã có một
bước tiến vượt bậc, ông đã vận dụng quan điểm khái quát – trừu tượng để giải
thích bản nguyên sơ khai của thế giới, tìm sự thống nhất của vũ trụ trong một thực
thể duy nhất là Đạo. Tuy vậy sự giải thích của ông về đạo còn mang tính duy tâm,
huyền bí.
Thứ hai: Quan niệm về Trời


Đạo Nho
Đạo Nho khi quan điểm về Trời được thể hiện trên quan điểm của Khổng
Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử như sau:
Khổng tử:
Trong phần nội dung cốt lõi của quan điểm của Khổng Tử về bản thể luận đã
khái quát: Khổng Tử có tư tưởng không nhất quán, chủ nghĩa duy tâm khách
quan, thần bí trong vấn đề bản thể luận về quan hệ giữa vũ trụ và con người. Quan
điểm của Khổng tử về thế giới nửa duy vật nửa duy tâm, ngả về duy tâm khách
quan. Tư tưởng không thống nhất của Khổng Tử được thể hiện khi quan niệm về
Trời như sau:
Khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa nhận sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên luôn vận động, biến hóa không phụ thuộc vào mệnh trời.
Khổng Tử lại coi trời là giới tự nhiên trong đó có bốn mùa thay đổi, trăm vật sinh

trưởng. Tại Luận ngữ: Tử - Hãn,16 ông vẫn thường dạy học trò “ Cũng như dòng
nước chảy, mọi vật đều trôi đi, chảy đi, không có gì ngưng nghỉ” hay trong Luận
ngữ: Dương - Hóa,18 “ Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành, vạn vật cứ

7


sinh hóa mãi”. Như vậy Khổng Tử khẳng định Trời là giới tự nhiên là quy luật của
tự nhiên. Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của ông.
Khổng Tử có lúc khẳng định Trời là lực lượng thần bí (duy tâm). “Tả
truyện” (trang công - năm 32 chép “ Sử Ngân bảo: Nước Quắc sẽ mất thôi! Tôi
nghe nói nước sắp thịnh lên thì nghe theo dân , nước sắp mất thì nghe theo thần.
Tử Sản đồng thời cùng với Khổng Tử cũng nói “ Đạo trời xa, đạo người gần”.
Bên cạnh đó Khổng Tử còn có nhiều câu nói về trời “Mắc tội với trời thì cầu đào
vô ích”; “Ta có làm gì sai thì trời bỏ ta”... Như vậy Khổng Tử coi trời là một lực
lượng siêu nhiên có thể chi phối số phận và cuộc sống của con người. Ông coi Trời
cũng có tâm tư tình cảm, là một vị quan tòa công minh cầm cân nảy mực phán xét
mọi việc, Trời quyết định sự thành bại trong hoạt động cũng như cuộc sống của
con người. Ông quan niệm “ Sống chết có mạng, giàu sang tại trời”. Chính bởi vậy
Khổng Tử tôn sùng trời và ông cũng đặt hết niềm tin vào ý chí của Trời. Ông coi
việc phục tùng ý chí của Trời chính là một điều kiện tất yếu để trở thành một hình
mẫu con người hoàn thiện. Quan niệm đó là yếu tố duy tâm khách quan của Khổng
Tử.
Mạnh tử:
Mạnh tử phát triển tư tưởng Thiên mệnh của Khổng Tử và đẩy thế giới quan
ấy tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm, cả duy tâm chủ quan và duy tâm khách
quan. Mạnh Tử cho rằng “chẳng có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời. Mình
nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy”, ông còn nói “Hễ mình hết
lòng hết dạ thì mình biết được cái bản tính của mình, hễ biết được bản tính của
mình thì đã biết được trời rồi đó” . Như vậy, Mạnh Tử cho rằng ý trời sinh ra vạn

vật ( duy tâm khách quan).
Mạnh Tử cho rằng vạn vật, vũ trụ cũng đều tồn tại trong ý thức chủ quan và
trong quan niệm đạo đức trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “Vạn vật
đều có đủ trong ta, ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn
8


nữa”. Ông dạy mọi người không phải đi tìm chân lý bên ngoài thế giới khách quan
mà chỉ cần suy xét ở trong tâm của mình. Mặt khác, nếu Khổng Tử dạy hậu thì
phải lấy sách đời xưa làm quý trọng: “ Tín nhi hiếu cổ”, thì Mạnh Tử dạy sâu sắc
hơn nữa: Tâm tín thư, tắc bất như vô thư: đọc sách mà cứ mê mệt vào sách, không
biết lẽ biến hóa của nó thì đừng đọc còn hơn. Từ đó, có thể thấy quan điểm của ông
cho rằng, vạn vật được sinh ra từ trong tâm con người (Duy tâm chủ quan).
Tuân tử:
Khác với những tư tưởng về Thiên mệnh của Khổng – Mạnh, Tuân Tử đã
đưa ra thế giới quan duy vật, vô thần của mình. Ông khẳng định rằng trong tự
nhiên gồm có 3 bộ phận: trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có văn trị, trong đó
trời chỉ là một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành và biến
hóa của vạn vật “Vạn vật đều được cái hòa khí của tự nhiên mà sinh, đều được cái
nuôi dưỡng của trời mà trưởng thành”. Ông cho rằng mỗi loại sự vật trong giới tự
nhiên đều thông qua sự cạnh tranh giữa cái này với cái kia, tiêu diệt lẫn nhau “cắt
bỏ cái không đúng loại của nó để nuôi loại chính” (Thiên luận).
Theo Tuân Tử , đạo trời luôn diễn ra theo lẽ tự nhiên nhất định, không liên
quan đến đạo người, trời không có ý thức gì cả. Sự biến hóa của vạn vật, sự thay
đổi của vũ trụ do đạo trời chi phối. Tự nhiên và quy luật biến hóa của nó là không
thể thay đổi theo ý muốn chủ quan của con người. Từ đó ông khẳng định trời
không thể quyết định được vận mệnh của con người, việc trị hay loạn, lành hay dữ
là do con người làm ra chứ không phải tại trời. Đây là tư tưởng thể hiện rõ nét tính
duy vật và vô thần trong triết học của ông.
Ông cho rằng trời có thiên chức của trời, người có thiên chức của người.

Người quân tử, bậc chí nhân là người hiểu đạo trời, không ỷ lại trời, không phụ
thuộc vào trời mà lo làm tốt việc của con người. Tuân Tử viết “Trời có thời của
trời, đất có tài sản của đất, người có việc của người, ấy gọi là có thể ngang với trời
đất”. Dựa trên quan điểm ấy, ông đề ra học thuyết con người có thể cải tạo được tự
9


nhiên, con người phải vận dụng tài trí, khả năng của mình, dựa vào quy luật của tự
nhiên mà sáng tạo ra của cải, sản vật phục vụ đời sống con người.
 Tuân Tử là nhà triết học duy vật, ông đã khẳng định tính quy luật phát
triển khách quan của tự nhiên và khắc phục những thiếu sót của các quan điểm triết
học duy tâm của Khổng – Mạnh. Theo ông trời là lực lượng tự nhiên, không phụ
thuộc vào con người, tồn tại độc lập với con người đó là quy luật.


Đạo Lão Trang
Trái với đạo Nho, Lão tử cho rằng trời là một thể đi liền với đạo. Chương
16, Đạo đức kinh: “ Trời là Đạo. Đạo thì lâu dài suốt đời không nguy”. Từ đây suy
ra kẻ nào theo đạo được lâu dài, suốt đời không nguy, trái đạo nguy khốn ngắn
ngủi. Chương 7 Đạo đức kinh: “ Trời dài đất lâu. Trời đất sở dĩ dài lâu vì không
sống cho mình nên mới trường sinh. Đời sống của trời đất là đời sống của vạn vật
trên thế giới, là đời sống của Đạo. Như vậy, trời không có ý chí, không có tình
cảm, không sống theo ý mình, không tạo tác định mệnh cho con người, không
thưởng phạt con người. Con người và vạn vật từ Đạo mà ra, biến đổi theo Đạo,
không do ý trời như đạo Nho.
Theo Trang tử thì trời không phải là đấng tối cao như quan niệm đạo Nho
mà là quan điểm Trang tử là trời theo lẽ tự nhiên. “Không làm mà làm thì gọi là
trời (thiên địa)”. “Trời không thể không cao, đất không thể không rộng. Mặt trời,
mặt trăng không thể xoay vần, muôn vật không thể không thỏa sự sinh sản” (Trí
bắc du).” “Trời chuyển vần chăng? Đất đứng yên chăng? Mặt trời mặt trăng tranh

phương sở chăng? … “ (Thiên vận).
Thứ ba: Quan điểm về Người



Đạo Nho
Đạo Nho tuy cho rằng ý chí của trời đất là rộng khắp, vô cùng, cương kiện
nhưng còn người vẫn còn sự tự do tương đối trong hành động. Khổng Tử cho rằng,
thiên – địa – nhân vừa nhất thể, vừa khác biệt, thiên nhân hợp nhất, thiên nhân
10


tương phản. Con người lưu hành trong thiên lý giống như đàn cá vẫy vùng trong
dòng nước. Cá có năng lực vẫy vùng trong nước nhưng vẫn cứ phải trôi dạt trong
dòng nước vậy.
Do đồng thể giữa thiên – địa – nhân nên con người có thể biết được thiên
mệnh. Bậc thánh nhân có thể biết được thiên mệnh nhờ trực giác. Biết thiên lý cho
nên có thể hóa giải được đất trời, còn con người chưa đạt được đến chí thiện, chí
mỹ, trung chính tức là tiểu nhân thì không biết được mệnh trời.
Tuân Tử cũng rất đề cao con người, ông coi con người là bộ phận của tự
nhiên, con người là động vật cao cấp nhất, là quý nhất. Theo ông, nước và lửa có
khí nhưng vô sinh; cỏ cây có sinh nhưng vô tri; cầm thú có tri nhưng vô lễ nghĩa;
con người có khí, có sinh, có tri, lại có lễ nghĩa, do vậy con người là giống quý
nhất trong vũ trụ. Ông đánh giá cao năng lực hoạt động của con người. Con người
có thể “ tri thiên mệnh nhi dụng nhi” ( nhận thức quy luật của trời và lợi dụng quy
luật đó để làm lợi cho mình).
Vị trí của con người trong Nho gia là như nhau ( người đứng giữa trời-đất)
nhưng ở các tư thế khác nhau. Con người trong triết học Khổng- Mạnh là nạn nhân
của số phận, của thiên mệnh, còn con người trong triết học của Tuân Tử là con
người chống lại thiên mệnh và cải tạo số phận của chính mình.



Đạo lão Trang
Đạo Lão Trang cho rằng đạo chi phối đến vạn vật, con người sống tuân thủ
tuyệt đối theo đạo, theo tự nhiên. Con người hành động hoàn toàn theo sự xui
khiến của trời đất, thuận ứng với trời đất mới tồn tại (quan điểm quyết định luận
tuyệt đối).
Vạn vật từ Đạo sinh ra tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, có bản tính tự nhiên
khác nhau, luôn liên hệ, phụ thuộc nhau. Trang Tử có viết “Thiên hạ thường có vật
tự nhiên như vậy. Có vật tự nhiên cong, không cần dùng đến câu móc; có vật tự
nhiên ngay, không cần dùng đến dây mực; có vật tự nhiên tròn, không cần dùng
11


đến cái khuôn; có vật tự nhiên vuông, không cần dùng đến cái thước nách. Vạn vật
tự nhiên liền lạc, dính líu với nhau không cần phải dùng đến keo sơn; chằng chịt
buộc chặt nhau, kêu gọi nhau…” Trang Tử cho rằng đó là cái tự nhiên vốn có, con
người không nên can thiệp, Trang Tử còn cho rằng ở con người, tinh thần cũng như
thể xác đều do biến đổi tự nhiên của Đạo mà ra.
Thứ tư: Quan niệm về quỷ thần


Về Đạo Nho:
Quan niệm về quỷ thần trong bản thể luận của Khổng Tử được thể hiện:
Quan niệm của Khổng Tử về Quỷ thần cũng không nhất quán. Có lúc ông
coi thần thánh là có thật. ông từng nói “ Tế thần như thần ở trước mắt” (Tế thần
như thần tại) ; “Kính quỷ thần nhi viễn viễn chi, khả vị trí hĩ” ( Kính trọng quỷ
thần nhưng tránh xa ra, như vậy có thể gọi là trí). Mặc dù Khổng Tử tránh nói đến
quỷ thần nhưng Khổng tử rất cẩn trọng việc tế lễ. Như vậy ta có thể nhận thấy ông
cho rằng thần thánh là có thật và luôn hiện diện trong cuộc sống của con người.

Tuy nhiên có lúc ông lại cho rằng thần thánh là do con người tạo ra. “ Khi
Tử Lộ hỏi ông đạo thờ quỷ thần, ông đáp “ Vi năng sự nhân, yêu năng sự quỷ” tạm
dich là “Chưa biết đạo thờ nhân, sao biết được đạo thờ quỷ thân”. Tử lộ lại tiếp tục
hỏi ông về vấn đề về sự chết tức là muốn biết người ta chết rồi có thành quỷ thần
hay không, còn linh hồn không hay chết là hết thì Khổng tử đáp “ Vị trị sinh, yên
tri tử” - tạm dịch “ Sự sống còn chưa biết, sao biết được sự chết”.
Bên cạnh đó, nội dung bản thể luận của Khổng Tử còn đề cập đến “ sốngchết”:
Khổng Tử có lúc cho rằng cái chết là luật tự nhiên của trời đất vậy nên thiên
mệnh hay thi hành thiên đạo đoài hỏi chúng ta không được phép nắm quyền sát
sinh, ông phản đối bất kỳ hình thức nào ngược lại với cái chết tự nhiên. Ông cho
rằng cái chết của con người thuôc về thiên đạo (đạo tất nhiên) nên chúng ta không
có quyền thay đổi, con người không thể tránh được cái chết càng không thể được
12


phép lạm dụng xâm phạm sinh mệnh của người khác. Tuy nhiên khi phân tích về
quan điểm sinh tử của Khổng Tử ta nhận thấy cái nhìn lưỡng tính của ông. Một mặ
ông cho rằng cái chết của con người là quy luật tự nhiên, mặt khác ông lại tin vào
nhân quả, ông cho rằng cái chết sẽ không vô ích nếu nó tạo ra môt sinh mệnh mới.
Quan điểm lai sinh này của ông khác với nghĩa tái sinh luân hồi của Phật giáo,
cũng không có nghĩa nhập vào niết bàn hay thiên đường. Theo ông hiểu sinh mệnh
mới là sự tiếp nối sinh mệnh. Theo ông cái chết sẽ không mang nghĩa là tuyệt
mệnh.


Về Đạo Lão Trang
Đạo gia ít nói đến thần thánh và quỷ thần nhưng có nói đến thiên đạo và
nhân đạo.
Thiên đạo ở đây được hiểu là quy luật vận hành của tự nhiên, tự nhiên là lực
lượng tối cao chi phối cả thần thánh. Nhân đạo là quy luật vận hành của xã hội, là

đạo của người, đạo lý làm người, cách đối nhân xử thế.



Trên đây là một số phân biệt về quan điểm của đạo Nho và đạo Lão Trang về vấn
đề bản thể luận. Qua đó, nhận thấy rằng quan điểm của 2 đạo về bản thể luận có
những điểm khác biệt tương đối lớn.
C. KẾT LUẬN
Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Trung Quốc
đất đai rộng lớn, có hai con sông lớn Hoàng Hà và Trường Giang, là một trong
những nước có nền văn minh hình thành sớm nhất và rực rỡ nhất trong lịch sử.
Triết học Trung Quốc suy cho cùng là sự phản ánh xã hội Trung Quốc. Triết học
Trung Quốc có mầm mống từ lâu, nhưng thực sự nở rộ vào khoảng thế kỷ VI đến
thế kỷ III Trước Công nguyên. Đây là thời kỳ biến đổi dữ dội, chuyển biến từ chế
độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu phương Đông – thời kỳ Đông Chu
liệt quốc hay Xuân Thu chiến quốc với chiến tranh liên miên, tàn khốc, trật tự xã

13


hội cũng như luân lý đạo đức sụp đổ, cái cũ đã qua, cái mới chưa đến, lòng người
chao đảo không biết đi về đâu.
Thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc là thời kỳ hai chế độ xã hội chuyển giao,
đấu tranh giai cấp gay gắt, chiến tranh liên miên. Tại thời điểm này, xuất hiện
nhiều học thuyết để giải thích xã hôi, chính trị, đồng thời vấn đề tư tưởng triết học
cũng được đề cập tới, một trong những nội dung quan trọng là vấn đề bản thể luận.
Đạo Nho và đạo Lão Trang đã có những quan điểm, cách nhìn nhận khác biệt thể
hiện đậm nét tư tưởng triết học đặc trưng của từng đạo.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Giáo trình Triết học Mác – Lênin ( Dùng trong các trường đại học, cao đẳng, tái
bản lần thứ ba có sửa chữa, bổ sung), Bộ giáo dục và đào tạo;

14


2.

Lịch sử Triết học Trung Quốc thời kỳ cổ -trung đại, Học viện báo chí và tuyên
tuyên truyền, TS. Trương Ngọc Nam-Ths.Trương Đỗ Tiến;

3.

Lịch sử triết học phương Đông, PGS.TS Doãn Chính, Nxb.Chính trị quốc gia;

4.

Lịch sử triết học, PGS.TS Trần Đăng Sinh (chủ biên), Nxb.Đại học sư phạm;

5.

Triết học cổ đại, TS. Lê Công Sự, Nxb.Chính trị quốc gia;

6.

Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, PGS.TS Doãn Chính (chủ biên),
Nxb.Chính trị quốc gia.


15



×