Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận triết học tư tưởng triết học cơ bản của phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.7 KB, 10 trang )

BÀI TẬP NHÓM MÔN TRIẾT HỌC
Đề bài: “TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO”
Thực hiện: Nhóm 7, Lớp A1 CH23NC (Chuyên ngành: Luật Kinh tế)
Bài làm:
I. Khái quát về sự ra đời và sự phát triển của tư tưởng triết học Phật giáo
1. Bối cảnh ra đời
a) Về điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ
Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa dạng: Vừa có dãy núi
Hymalaya ở phía Bắc, lại có biển Ấn Độ Dương; vừa có sông Ấn chảy về phía
Tây, lại có sông Hằng chảy về phía Đông. Vì thế, Ấn Độ có những vùng đồng
bằng trù phú màu mỡ, có vùng nóng ẩm mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm
tuyết phủ, lại có những vùng xa mạc khô cằn, nóng bức. Những điều kiên tự
nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn
giáo triết học.
b) Về kinh tế - xã hội
Từ thế kỷ VI - I TCN, nền kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ Ấn Độ đã phát
triển. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại
rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình “công xã nông
thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước, gắn
liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong công xã và quan hệ giữa gia
đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân chia thành
các đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: Satria
(cai trị), balamon (hành nghề tôn giáo), vaisia (bình dân) và sudra (tiện nô). Sự
phân chia đẳng cấp đó làm cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn
đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu
tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật giáo.

1


c) Về văn hóa - khoa học


Văn hoá Ấn Độ cổ - trung đại được chia làm ba giai đoạn. Khoảng thế kỷ
XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế kỷ XV – VII TCN gọi là
nền văn minh Veđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình thành các trường
phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và
không chính thống. Trong đó, hệ tư tưởng chính thống với thế giới quan duy
tâm, tôn giáo của kinh Veda, và giáo lý Bàlamôn trở thành hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị. Tiêu chuẩn của chính thống và không chính thống là có thừa nhận
uy thế của kinh Veda và đạo Bàlamôn hay không. Nhưng hệ tư tưởng không
chính thống với Đạo Phật, đạo Jaina và phong trào đòi tự do tư tưởng, đòi bình
đẳng xã hội ở vùng Đông Ấn lại ăn sâu vào tầng lớp nhân dân Ấn Độ nói riêng
và con người nói chung. Về khoa học, ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã
đạt được những thành tựu về khoa học tự nhiên. Đặc biệt là các lĩnh vực thiên
văn, toán học, y học…
2. Sự ra đời và sự phát triển của tư tưởng triết học Phật giáo
Phật giáo ra đời vào thế kỷ VI TCN. Người sáng lập là Siddharta (Tất Đạt
Đa). Sau này ông được người đời tôn vinh là Sakyamuni (Thích ca Mâu ni), là
Buddha (Phật). Phật là tên ghi âm Hán Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ.
Phật giáo là hình thức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức Phật,
tức từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddharta.
Sau Buddha qua đời, đạo Phật chia thành hai giáo phái: Thượng tọa bộ gồm
các tu sĩ già có khuynh hướng bảo thủ và Đại chúng bộ (Theravada) gồm các tu
sĩ trẻ có khuynh hướng vải cách việc tu luyện để thu hút được nhiều tín đồ hơn.
Về sau từ hai bộ lớn này Phật giáo tiếp tục phân chia thành 18 tông phái nhỏ.
Đầu Công nguyên, trong Phật giáo xuất hiện giáo phái Đại thừa
(Mahayana: cỗ xe lớn) chủ trương đại chúng hóa đạo Phật để thu hút được đông
đảo quần chúng, đối lập với phái nguyên thủy Đại chúng bộ chủ trương duy trì
việc tu luyện với những luật lệ khắt khe nên ít người có thể theo được gọi là phái
Tiểu thừa (Hinayana: cỗ xe nhỏ).

2



II. Nội dung tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo
Tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo được thể hiện tại Tam tạng kinh
điển của Phật giáo gồm trên 5000 quyển được chia thành Kinh tạng - Luật tạng
và Luận tạng, trong đó:
- Kinh tạng: Chép lời Đức Phật giảng về giáo lý;
- Luật tạng: Ghi lại việc tu tập và toàn bộ những giới luật của Phật giáo quy
định;
- Luận tạng: Luận tạng do các bậc cao tăng viết ra nhằm giới thiệu giáo lý
của Phật giáo một cách có hệ thống, đó là những bài bình chú, giải thích gồm
bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật giáo.
Có thể thấy, Phật giáo là một tôn giáo có nhiều triết lý sâu sắc, tuy nhiên
Phật giáo ít đề cập tới triết học thuần túy, mục đích chính của nó là giải thoát
chúng sinh khỏi nỗi khổ của cuộc đời. Các tư tưởng triết học cơ bản của Phật
giáo có hai nội dung chính là thế giới quan (quan niệm về thế giới) và nhân sinh
quan (quan niệm về đời sống con người). Trong đó, Phật giáo nhìn nhận thế giới
tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích nhân - quả. Theo Phật giáo, nhân
- quả là một chuỗi liên tục không gián đoạn và không hỗn loạn, có nghĩa là nhân
nào quả ấy. Mối quan hệ nhân quả này Phật giáo thường gọi là nhân duyên với ý
nghĩa là một kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của một kết quả
khác.
1. Về thế giới quan
Thế giới quan phật giáo là một thế giới quan có nhiều yếu tố duy vật (mộc
mạc) và biện chứng (sơ khai) nhưng về cơ bản là thế giới quan duy tâm, với các
đặc điểm sau:
a) Thế giới là vô tạo giả (tức là không có người sáng tạo đầu tiên): Bằng
sư phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể tìm ra một nguyên nhân
đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng Brahman nào sáng tạo ra vũ
trụ. Cùng với việc phủ định Brahman, Phật giáo cũng phủ định phạm trù Atman

(linh hồn bất tử). Tức là, thế giới tồn tại khách quan không phụ thuộc vào thần
thánh, không do thần thánh sáng tạo ra. Thế giới tự nó sinh thành. Thế giới là vô
thủy, vô chung, vô cùng, vô tận. Nó chỉ là một tiểu thiên thế giới, hàng nghìn
tiểu thiên thế giới tạo nên trung thiên thế giới. Hàng nghìn trung thiên tạo nên
đại thiên thế giới. Nhưng đại thiên thế giới cũng chỉ là một quả bóng nhỏ xíu
trong vũ trụ bao la vô tận.
3


b) Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo được thể hiện rõ qua
việc luận chứng về tính chất vô ngã, vô thường của vạn vật và thuyết nhân
duyên
- Phạm trù “vô ngã” (Không có bản ngã - tức bản thể cá nhân, bản tính
riêng biệt của sự vật): Phật giáo thừa nhận thế giới tồn tại cả vật chất và tinh
thần, tức là thế giới do các yếu tố vật chất và tinh thần kết hợp với nhau tạo nên.
Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị
thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và
“Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao
gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất
mà chỉ có tên gọi, nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn
để hành động) và thức (sự nhận thức). Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố
gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao gồm sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn
tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức), chúng tác động qua lại với nhau tạo nên
vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua,
không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có “bản ngã” hay
cái tôi chân thực.
- Phạm trù “vô thường” (vận động biến đổi không ngừng): Phật giáo cho
rằng “vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật, hiện tượng trong
vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu
trình bất tận là “sinh - trụ - dị - diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất

đi. Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng. Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là
biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong
một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình
thành đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong
một sự vât, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng
dạy rằng không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết
đi) mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không
phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành mới.

4


- Phạm trù nhân duyên: Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hóa vô
thường của vạn vật, đã xây dựng nên thuyết nhân duyên. Phật giáo cho rằng,
mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự
chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên
nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác,
nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự
biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “Nhân-Quả”, nhân là
cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng
thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có
quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy. Đức
Phật dạy “Đã gieo nhân nào. Sẽ gặt quả ấy. Hành thiện sẽ gặt quả lành. Hành ác
sẽ gặt quả dữ. Hãy gieo giống tốt. Ta sẽ gặt quả lành”.
Phật giáo dùng thuyết nhân duyên để giải thích nguồn gốc của tất cả các sự
vật, hiện tượng. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân. Nhân kết
hợp với duyên thì sinh ra quả. Quả kết hợp với duyên lại biến thành nhân và sinh
ra quả khác… Như vậy, tất cả đều nằm trong một dòng sinh diệt bất tận. Ở quan
điểm này cho thấy một hạn chế của Phật giáo là chỉ thấy sự vận động, tuyệt đối

hóa sự vận động mà không nhìn thấy sự đứng yên tương đối.
Như vậy, thông qua các phạm trù vô ngã, vô thường và nhân duyên, triết
học Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman
sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được
cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm
trong quá trình liên hệ, vận động, biến đồi không ngừng. Nguyên nhân của sự
vận động , biến đổi nằm trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế
giới tuy còn mộc mạc, chất phát nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan
điểm duy vật biện chứng về thế giới.

5


2. Về nhân sinh quan
Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát” khỏi
vòng luân hồi, “nghiệp báo” để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn. Nội dung triết
lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ Diệu
Đế” tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu
đế gồm:
a) Khổ đế
Theo Phật giáo, cuộc đời con người là đau khổ. Đạo Phật xác nhận đặc
tướng của cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ.
Có 8 nỗi khổ là : sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương
nhau phải xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc
(mong muốn mà không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con
người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết
học, khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý
khách quan hiện thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân duyên

được tạo tác từ tâm thức. Như vậy, tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào
soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn
nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay
quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó. Đạo
Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con
người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác.
Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví
sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước
biển”.

6


b) Nhân đế (hay Tập đế)
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết
tập lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả
mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc
của luân hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là
do “thập nhị nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong
mỗi con người. 12 nhân duyên gồm:
(i) Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không
sáng suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con
đường thoát khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không
thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.
(ii) Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
(iii) Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
(iv) Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các
cơ quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
(v) Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các
giác quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để

thiêu hủy, đón nhận.
(vi) Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó
là sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
(vii) Duyên thụ (thọ): là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài
tiếp xúc với lục căn sinh ra cảm giác.
(viii) Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác
động của thế giới bên ngoài.
(ix) Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn
chiếm lấy, giữ lấy không chịu buông ra.
(x) Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
(xi) Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
(xii) Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi
già, ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên
cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có
7


lời giải thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn
đế là ái và thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên
nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của nổi khổ đau nhân
loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô
thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong
chúng. Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng
mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà
có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỷ hay phiền não
khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.

c) Diệt đế
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt
thì sự khổ cũng được tận diệt. Muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên,
bắt đầu từ diệt trừ vô minh. Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ
được bản chất tồn tại, thực tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục
và kéo theo những hành động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi
sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn
dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
d) Ðạo đế
Là cách thức chấm dứt đau khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo
đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên và một khi
dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt
luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường
chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính
đạo bao gồm:
(i) Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về
Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã.
(ii) Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý
nghĩa của bốn chân lí một cách không sai lầm.
(iii) Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
(iv) Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm
việc xấu, nên làm việc thiện.
8


(v) Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên
quan đến sát sinh.
(vi) Chính tinh tiến: cố gắng nỗ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để
phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.

(vii) Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát,
luôn tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
(viii) Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ diệu
đế, vô ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh,
đạt tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng
suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 điều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con
người và xã hội gọi là ngũ giới và 6 điều con người nên làm gọi là lục độ. Ngũ
giới bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất vọng ngữ
(không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo (không
trộm cướp). Lục độ gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và bát
nhã.

9


Tóm lại: Phật giáo là một tôn giáo nhưng có tính duy vật vô thần, phủ nhận
đấng sáng tạo tối cao. Phật giáo khuyên con người suy nghĩ thiện và làm việc
thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân.
Phật giáo có ưu điểm là chống lại sự phân biệt đẳng cấp, chủ trương bình
đẳng xã hội, khinh ghét những ham muốn dục vọng vật chất tầm thường, có tính
nhân đạo cao cả, khuyên con người làm điều thiện, tránh xa điều ác, thương yêu,
cứu giúp mọi người. Tuy nhiên, nhìn chung tư tưởng triết học Phật giáo mặc dù
có một số yếu tố duy vật vô thần và biện chứng nhưng nhân sinh quan Phật giáo
lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm (giải thích nguồn gốc của khổ từ trong tâm, diệt
khổ cũng từ trong tâm). Nhận thức luận của Phật giáo cũng có tính chất duy tâm.
Phật giáo không thừa nhận vai trò của nhận thức cảm tính và tư duy cũng như
vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Mặc dù Phật giáo lên án gay
gắt chế độ người bóc lộc người, chống lại chủ nghĩa duy tâm của Balamon giáo

nhưng Phật giáo không chủ trương giải phóng con người bằng cách mạng xã
hội. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh
chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Phật giáo cho cuộc đời là giả, ảo, mọi
ham muốn đời thường đều là tội lỗi; thế nhưng Niết bàn, cái mà Phật cho là thực
tại thì không có gì làm bằng chứng./.

10



×