Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thế giới quan triết học của hegel hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.1 KB, 15 trang )

A.

LỜI MỞ ĐẦU

Triết học cổ điển Đức được tạo nên từ cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, đây
được coi là thời kỳ đỉnh cao của triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới
triết học toàn nhân loại. Nhắc tới thời kỳ này, người ta không thể không nhắc tới tên
của một đại diện tiêu biểu cho nền triết học cổ điển Đức – Hegel. Georg Wilhelm
Friedrich Hegel (1770 – 1831) sinh ngày 27 tháng 08 năm 1770 trong một gia đình
viên chức nhà nước. Ông được giáo dục trong bầu không khí sùng đạo Tin Lành, được
cha khuyến khích trở thành giáo sĩ nên năm 1788 ông đã theo học trường trung học
Stuttgart. Năm 1816, Hegel nhận chức danh giáo sư triết học tại Đại học Heidelberg.
Và đến năm 1818 ông được mời đến giảng dạy tại Đại học Berlin. Các tác phẩm chính
của Hegel: Sự dị biệt giữa hệ thống của Fichte và của Schelling về triết học (1801);
Hiện tượng tinh thần học (1807); Khoa học logic (1812 – 1816); … Hegel được biết
đến là một triết gia duy tâm Đức, ông là nhà biện chứng lỗi lạc, phép biện chứng của
ông là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxít sau này. Triết học của
Hegel có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng của nước Đức và của cả Châu Âu đương
thời. Tuy nhiên, khi đứng ở hai vai trò, vừa là một nhà biện chứng, nhưng lại đồng
thời là nhà triết học duy tâm khách quan đã làm cho triết học của Hegel chứa đựng
đầy mâu thuẫn. Để hiểu hơn về vấn đề này, với đề tài: “Thế giới quan triết học của
Hegel. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó”, nội dung của bài luận sẽ phân tích
một cách cụ thể hơn.
B.

NỘI DUNG

I. Tư tưởng thế giới quan triết học của Hegel
1. Khái quát chung về thế giới quan và thế giới quan triết học
Những vấn đề triết học đặt ra và giải quyết trước hết là những vấn đề về thế
giới quan. Tồn tại trong thế giới, con người phải nhận thức về thế giới và về bản thân


mình. Từ đó hình thành nên thế giới quan.
 Thế giới quan: là những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung
quanh, về bản thân và về cuộc sống của con người, về vị trí của con người trong thế
giới đó. Thế giới quan bao hàm nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về
cuộc sống của con người, được hình thành để trở thành nhân tố định hướng cho con
người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xung quanh, cũng như tự xem xét bản thân
mình và từ đó xác định thái độ, cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới
quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ của thế giới
quan là một tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của cá nhân cũng như cộng đồng
xã hội nhất định.
1


Về nội dung, thế giới quan phản ánh thế giới ở 3 góc độ: (i) các đối tượng bên
ngoài chủ thể; (ii) bản thân chủ thể và (iii) mối quan hệ giữa chủ thể với các đối tượng
bên ngoài chủ thể. Ba góc độ này vừa thể hiện ý thức con người về thế giới, vừa thể
hiện ý thức con người về chính bản thân mình. Về hình thức, thế giới quan có thể biểu
hiện dưới dạng các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dưới dạng hệ
thống lý luận chặt chẽ. Về cấu trúc, là hiện tượng tinh thần, thế giới quan có cấu trúc
phức tạp và được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, song hai yếu tố cơ bản của thế
giới quan là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới
quan, song tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin để hình
thành lý tưởng, động cơ thôi thúc con người hành động. Như vậy một thế giới quan
nhất quán là một thế giới quan có tri thức và niềm tin thống nhất với nhau tạo nên cơ
sở vững chắc cho con người tiếp tục tìm hiểu thế giới, cho con người xác định thái độ,
cách thức hoạt động, cách thức sống nói riêng và xác lập nhân sinh quan nói chung.
Thế giới quan có các chức năng như: chức năng nhận thức, chức năng xác lập
giá trị, chức năng bình xét, đánh giá, chức năng điều chỉnh hành vi, … mà khái quát
lại, chức năng bao trùm của thế giới quan là chức năng định hướng cho toàn bộ hoạt
động sống của con người.

Là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, thế giới quan phát triển theo sự
phát triển nhận thức của con người. Cho đến nay, sự phát triển của thế giới quan đã
được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn
giáo và thế giới quan triết học.
 Thế giới quan triết học: là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý luận
thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu ra
các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân con người, mà
còn chứng minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận. Thế giới quan triết học
chỉ hình thành khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát
hoá, trừu tượng hoá và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có
định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống. Thế giới quan triết học diễn tả quan
niệm con người về thế giới dưới dạng hệ thống các quy luật, phạm trù và chứng minh
các quan niệm ấy bằng lý luận. Do đó, triết học được coi như trình độ tự giác trong
quá trình hình thành và phát triển thế giới quan. Triết học là hệ thống các quan điểm
lý luận chung nhất về thế giới quan, là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm chính là cơ sở lý luận của hai thế giới quan đối lập: Thế
giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực
2


lượng xã hội đối lập nhau. Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật là thế giới quan
của giai cấp, của lực lượng xã hội tiến bộ cách mạng, đã góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội; ngược lại, chủ nghĩa duy tâm được sử dụng làm công
cụ biện hộ về lý luận cho giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu, phản động.
2. Thế giới quan triết học của Hegel
Thông thường để xây dựng nên một hệ thống triết học thì mỗi triết gia đều phải
chọn cho mình những xuất phát điểm riêng biệt. Theo Ăngghen, điểm xuất phát đó là
vấn đề cơ bản của triết học mà nó được giải quyết trên lập trường của từng triết gia.
Đối với Hegel, ông đã xác định điểm xuất phát triết học cho mình là sự đồng nhất duy

tâm giữa tư duy và tồn tại hay là ý niệm tuyệt đối. Hay nói cách khác, Hegel là một
nhà duy tâm khách quan, nghĩa là đối với ông tư tưởng của chúng ta không phải là sự
phản ánh thế thời hiện thực khách quan, trái lại những sự vật, hiện tượng trong thế
giới là sự thể hiện của ý niệm tuyệt đối, mà ý niệm tuyệt đối này tồn tại trước khi thế
giới xuất hiện. Căn cứ vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối mà Hegel đã cấu trúc hệ
thống triết học của mình thành: Logic học, Triết học tự nhiên và Triết học tinh thần.
Hegel có những quan niệm thế giới quan triết học:
a) Tư tưởng về nguồn gốc thế giới
Hegel là nhà duy tâm khách quan, ông cho rằng khởi nguyên của thế giới
không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Ông coi tinh
thần thế giới là cái có trước, vật chất với tính cách dường như là sự thể hiện, sự biểu
hiện cụ thể của tinh thần thế giới, là cái có sau; tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất.
Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng
tạo của ý niệm tuyệt đối. Tinh thần thế giới – ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và
chứa đựng dưới dạng tiềm năng tất cả của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội. Nó là
nguồn gốc và động lực của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Học thuyết của Hegel coi tính thứ nhất là tinh thần, tính thứ hai là vật chất do ý
niệm tuyệt đối và tinh thần thế giới sinh ra và quyết định, là một sự “tồn tại” khác của
tinh thần sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần
thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng,
được Hegel gọi là “tinh thần tuyệt đối”. Đó cũng chính là sự thể hiện riêng về mặt
triết học những lời khẳng định của tôn giáo rằng Thượng đế sáng tạo ra thế giới.
Ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt đối là một quá trình phát triển
không ngừng và ông là một nhà triết học hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm, phép
biện chứng của ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và
nguồn gốc của mọi tồn tại.
3


Tư tưởng biện chứng của Hegel

Theo Hegel, triết học là sự xem xét đối tượng một cách có suy nghĩ, đối tượng
của triết học trùng với đối tượng của tôn giáo, đó là khách thể tuyệt đối vô hạn
Thượng đế. Còn tư duy nói chung là cái làm cho con người khác động vật. Thành tựu
quan trọng của triết học Hegel là phương pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó
là tư tưởng về sự phát triển.
Phương pháp biện chứng của Hegel là phương pháp suy ngẫm về thế giới. Kết
quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là
bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể. Phương pháp biện chứng
được thể hiện xuyên qua toàn bộ hệ thống triết học của ông từ logic học, triết học tự
nhiên đến triết học tinh thần.
Do có mâu thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối có sự tự vận động từ thấp lên
cao, trải qua sự phát triển, thông qua các khái niệm, rồi lại trở về với nó với một sự
phong phú hơn (Logic học). Do có sự vận động và chuyển hoá, nên ý niệm tuyệt đối
trở thành cái khác nó, đối lập với nó, tức là giới tự nhiên (Triết học về tự nhiên). Ý
niệm tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân mình trong đời sống có ý thức của cá
nhân con người và xã hội loài người và sự hoàn thành sự vận động của nó, đạt tới
đỉnh cao nhất trong hệ thống triết học Hegel (Triết học về tinh thần). Cho nên triết học
của Hegel là sự biện hộ cho tôn giáo. Biểu hiện cụ thể như trong Logic học, Hegel đã
thể hiện tư tưởng về Thượng đế có trước khi thế giới và con người xuất hiện. Đây là
tính quy luật của ý niệm tuyệt đối tồn tại trước bản thân thế giới và như là thuộc tính
siêu nhiên nào đó của thần thánh. Theo Hegel, logic học "thể hiện Chúa trong bản
chất vĩnh hằng của Đức chúa trước khi sáng tạo ra giới tự nhiên và các tinh thần hữu
hạn" tức là những con người cụ thể.
Trong tác phẩm Logic học, khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” vận động và phát
triển, Hegel cho rằng đó là sự tự vận động nội tại của “ý niệm tuyệt đối”. Tự vận động
tức là sự thay đổi các hình thức khác nhau của “ý niệm tuyệt đối”. Hạt nhân hợp lý
trong phương pháp biện chứng của Hegel là sự tự vận động. Nội dung hợp lý sâu sắc
trong quan điểm trên của Hegel là mối liên hệ tất yếu, là nguồn gốc nội tại của những
sự khác nhau. Hạt nhận hợp lý trong logic của Hegel là sự phù hợp với quá trình suy
nghĩ của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự vật tìm ra bản

chất, khi nắm bản chất ta rút ra khái niệm.
Ở phần tồn tại, Hegel cũng đã diễn đạt các phạm trù chất, lượng, độ và tư tưởng
biện chứng về sự chuyển hóa lượng – chất. Ở phần bản chất, Hegel diễn đạt các phạm
trù bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng và hiện thực, nguyên nhân và kết quả,
b)

4


trình bày học thuyết mâu thuẫn nguồn gốc của sự phát triển. Ở phần khái niệm, Hegel
đã diễn đạt các phạm trù cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích và
tổng hợp, đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có mục đích của con người, sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại quan niệm phát triển với tư cách là
phủ định của phủ định. Sự biện chứng của Hegel còn được thể hiện ở chỗ ông đã đặt
ra vấn đề sự thống nhất của quá trình logic với quá trình lịch sử; logic học, nhận thức
luận đều là sự tổng hợp của quá trình lịch sử; ông nêu lên tính hạn chế của logic hình
thức và đòi hình thành một logic nội dung thực tế, sinh động; ông nêu lên tư tưởng
thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức.
Trong triết học tự nhiên, hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hegel là tư
tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với vận động, dự đoán không gian, thời gian và
vận động có mâu thuẫn bên trong, ở đó thể hiện tính thống nhất giữa tính gián đoạn và
tính liên tục; là tư tưởng cho rằng sự khác biệt hóa học về chất bị phụ thuộc vào
những thay đổi về lượng, là sự biện chứng của quá trình hóa học; là mối liên hệ hữu
cơ giữa hóa học và vật lý, quá trình hóa học là khâu chuẩn bị cuối cùng cho đời sống
hữu cơ.
Trong triết học tinh thần, hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hegel thể
hiện ở chỗ ông coi sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật; sự phát triển của lịch sử
không tuần hoàn mà đi lên, mỗi thời đại lịch sử đều có đặc điểm riêng và quá trình
phát triển của lịch sử là có tính kế thừa.
c) Tư tưởng của Hegel về con người

Hegel coi thế giới vật chất chính là con người vô cơ, con người ở giai đoạn
chưa hình thành. Còn con người bằng xương, bằng thịt theo Hegel là con người đã
phát triển đầy đủ, là con người trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn
có của mình.
Hegel đã quy mọi quá trình của hiện thực thành quá trình tư duy, quy lịch sử
hiện thực về lịch sử tư duy, quy hoạt động thực tiễn của con người về quá trình tự ý
thức, tự nhận thức. Hegel coi con người vừa là chủ thể vừa là kết quả của chính quá
trình hoạt động của mình; con người vừa là chủ thể, đồng thời là mục đích của sự phát
triển lịch sử; tư duy và trí tuệ con người hình thành và phát triển trong chừng mực con
người nhận thức và cải biến thế giới, đối lập với bản thân mình thành cái của mình, ý
thức con người là sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của con người càng phát
triển thì ý thức của nó càng mang bản chất xã hội.
Hegel coi con người là sản phẩm và cũng là giai đoạn phát triển cao của tinh
thần tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người là công cụ để
5


tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình. Hegel tiếp cận được quan niệm coi
ý thức con người, nhân cách con người là sản phẩm của lịch sử.
 Con người và khả năng lớn lao của lý trí con người:
Hegel đã thiết lập mệnh đề tổng quát rằng “cái gì có lý tính là hiện thực và cái
gì hiện thực là lý tính”, từ mệnh đề này ông đi đến kết luận rằng bất cứ cái gì tồn tại
đều có thể hiểu được.
Hegel cho rằng các phạm trù không phải như là những quá trình của tinh thần
mà như là những thực tại khách quan có sự tồn tại độc lập với cá thể tư duy. Ông xem
xét những chủ đề về sự tha hóa của con người khỏi Thượng Đế và sự phục hồi của sự
duy nhất bị đánh mất giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, sự vô hạn này là đời sống sáng
tạo vốn ôm ấp mọi tư tưởng trong một vũ trụ duy nhất và đó chính là Thượng Đế hay
Toàn Thể hoặc là Thực tại như là một toàn thể.
 Con người trong tương quan với Nhà nước:

Hegel cũng xem xét con người trong tương quan với nhà nước. Theo ông giữa
cá nhân và Nhà nước có hai biện chứng, đó là gia đình và xã hội, vì thế: “Con người
có được hiện hữu là nhờ nhà nước” và nhờ quá trình biện chứng.
Hegel chủ trương Nhà nước là một cơ quan tìm cách phát triển ý niệm tự do tới
mức tối đa, và cá nhân chỉ đạt sự tự do khách quan khi mỗi cá nhân cũng làm như thế.
Ông quan niệm giá trị của con người tùy thuộc sự đáp ứng sáng tạo của họ trước sự
khai mở của ý niệm tự do. Hegel cho rằng các cá nhân có ý thức về tự do và diễn tả tự
do của họ một cách cụ thể nhất bằng hành vi ý chí. Theo ông tự do cao nhất khi cá
nhân hành động theo ý chí phổ quát, hợp lý với toàn thể xã hội.
Ông quan niệm rằng quá trình biện chứng đến mức nào đó sẽ xuất hiện của một
tình trạng không xung đột: nếu không còn xung đột thì sẽ không còn biến dịch nữa.
Ông tin rằng một xã hội như thế hoàn toàn vượt quá những giá trị của chủ nghĩa cá
nhân tự do: “Nhà nước là ý niệm của tinh thần trong sự biểu hiện bên ngoài của ý chí
con người và tự do của nó”.
d) Tư tưởng của Hegel về đạo đức
Quan điểm triết học của Hegel về đạo đức luôn gắn với pháp quyền, mục đích
chủ yếu của đạo đức học Hegel là phân tích xã hội đang tồn tại chứ không phải cái
hiện thực cần phải có. Hegel nghiên cứu đạo đức, pháp quyền, nhà nước, gia đình là
biểu hiện của sự tha hóa “tinh thần đạo đức khách quan”.
Pháp quyền dưới góc nhìn đạo đức của Hegel, quan điểm biện chứng về pháp
quyền theo một trình tự nhất định từ thấp lên cao. Pháp quyền bắt nguồn từ luân lý và
đời sống đạo đức (gia đình, xã hội dân sự, nhà nước) đến lịch sử thế giới (pháp quyền
6


tối cao). Quan hệ đạo đức của Hegel về gia đình là sự kết hợp giữa bản năng và tình
yêu một cách bền chặt và khách quan. Quan điểm triết học về đạo đức của Hegel thể
hiện việc trình bày các phạm trù đạo đức, đặc biệt là phạm trù cái thiện và cái ác trong
những mâu thuẫn nội tại và sự chuyển hóa giữa chúng với nhau.
Đỉnh cao của học thuyết về đạo đức của Hegel đó là lý luận về Nhà nước,

Hegel coi Nhà nước là mục đích tự thân, là cái hợp lý tự nó và cho nó, trong đó Nhà
nước tự do đạt tới pháp luật tối cao phù hợp với nó. Ngược lại, với quan niệm của triết
học Khai sáng Pháp coi nhà nước phải phục vụ lợi ích của cá nhân, Hegel cho rằng
Nhà nước có ý nghĩa tuyệt đối bậc nhất đối với lợi ích của từng cá nhân cụ thể, nó là
sự thực hiện tự do đích thực trong thế giới. Ông không chỉ tuyên bố Nhà nước là sự
thực hiện tự do, mà còn là sự chu du của Thượng đế trong thế giới. Vì vậy, khái niệm
nhà nước của Hegel không chỉ mang tính chất duy tâm, mà còn có tính chất thần
thánh nữa. Hegel coi Nhà nước là giai đoạn phát triển cao nhất của thực thể đạo đức
so với gia đình và xã hội công dân, Hegel đã đặt Nhà nước đứng trên nấc thang phát
triển cao hơn so với xã hội công dân và xã hội công dân hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà
nước. Hơn nữa, ông đã phân biệt nhà nước hiện thực với Nhà nước lý tưởng và cho
rằng Nhà nước hiện thực có thể xấu xa, còn nhà nước lý tưởng là tốt đẹp, bởi nó là
“Thượng đế hiện thực”.
Hegel coi Nhà nước lý tưởng là nhà nước quân chủ Phổ, đạo đức mà ông xây
dựng là đạo đức bảo vệ nhà nước quân chủ Phổ. Theo ông, nhà nước Phổ là sự thể
hiện hoàn thiện nhất của “ý niệm đạo đức” – tức sự thần bí hóa các mối quan hệ xã
hội. Chính vì là một nhà triết học duy tâm khách quan nên tư tưởng của Hegel về đạo
đức, Nhà nước và pháp quyền hoàn toàn mang màu sắc thần bí, các mối quan hệ xã
hội, công dân, Nhà nước chỉ được coi là sự thể hiện của ý niệm đạo đức. Theo đó,
pháp quyền hay quyền hạn Nhà nước sẽ không bị ràng buộc bởi những luân lý thuộc
cấp độ thấp hơn (gia đình, xã hội), nhưng phải chịu sự tác động của quyền hạn tuyệt
đối của tinh thần thế giới (cấp độ cao hơn), có thể hiểu như Tòa án thế giới. Như vậy,
Hegel là đại biểu của một nền đạo đức học định chế, theo đó con người không phải
làm bất kỳ điều gì khác ngoài những gì đã quy định trong một cộng đồng đạo đức.
Theo đó, sự đúng đắn và bổn phận của con người trong xã hội do bản thân chính xã
hội đó tạo ra.
Quan điểm về đạo đức của Hegel có ảnh hưởng lớn đến quan điểm chính trị và
xã hội của ông. Về phương diện đạo đức, bổn phận, trách nhiệm của cá nhân chỉ thể
hiện đầy đủ và trọn vẹn khi các cá nhân được đặt trong những mối quan hệ của xã hội,
đây chính là bối cảnh duy nhất thế hiện bổn phận, trách nhiệm của cá nhân. Ông cũng

7


bày tỏ sự phản đối gay gắt đối với những Nhà nước hạn chế sự tự do, và cho rằng điều
này là không chấp nhận được về mặt đạo đức.
II. Hạn chế trong tư tưởng thế giới quan triết học của Hegel và nguyên nhân của
hạn chế đó
1.Những hạn chế trong tư tưởng thế giới quan triết học của Hegel
Trong tư tưởng triết học của Hegel, quan niệm về thế giới quan triết học của
ông ngay từ đầu đã gặp phải hạn chế nhất định từ chính quan điểm. Hegel luôn coi
triết học là lĩnh vực tối cao của hoạt động khoa học tinh thần, là khoa học “tạo thành
trung tâm của văn hóa tinh thần của mọi khoa học và mọi chân lý”. Ông luôn coi triết
học như là cái tinh thần tuyệt đối, như là động lực nội tại khiến thế giới con người
phải theo và tiến tới.
Thêm vào đó, với xuất phát điểm là một nhà triết học duy tâm khách quan,
trong tư tưởng của Hegel có những nhận thức chưa thực sự phù hợp. Theo quan điểm
của chủ nghĩa duy vật, ý niệm là cái phản ánh của vật chất hiện thực vào trong ý thức
con người nhưng đối với Hegel, ông đã tách nó ra khỏi con người, làm cho nó trở
thành đấng tối cao sáng tạo ra tự nhiên và nhân loại. Phân tích quan niệm của Hegel
về “ý niệm mà rốt cuộc hoá ra là giới tự nhiên”. Lênin viết: “Hegel đã đoán được một
cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng của thế giới của giới tự
nhiên) trong biện chứng của khái niệm”. Nói cách khác, các quy luật phổ biến của sự
phát triển của giới tự nhiên của xã hội loài người và của sự nhận thức không thể được
mô hình hoá chỉ phù hợp với các quy luật của một mình sự nhận thức của một mình tư
duy như hệ thống Hegel giả định. Không thể rút ra các quy luật của tồn tại từ tư duy.
Từ một thực tế là các quy luật của tồn tại được phản ánh trong tư duy. Hegel đã rút ra
một kết luận sai lầm rằng tồn tại thực chất là tư duy. Quan hệ hiện thực đã bị Hegel
thần bí hoá bị “đặt lộn ngược chân lên đầu”. Đây là cách mà Hegel luận chứng theo
kiểu duy tâm luận điểm cho rằng các hình thức của tư duy là sự phản ánh các mối
quan hệ vốn có trong tự nhiên và trong xã hội không phụ thuộc vào tư duy.

Một trong những thành tựu nổi bật nhất trong hệ thống triết học của Hegel đó
chính là: Ông là người đầu tiên sáng tạo ra một hệ thống tri thức mới – phép biện
chứng. Phép biện chứng của Hegel là một trong những thành tựu quý giá nhất của
triết học cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học trước Mác nói chung. Tuy nhiên,
hạn chế trong triết học của Hegel đó chính là ông đã sáng tạo ra phép biện chứng trên
lập trường duy tâm. Ông đã xuất phát từ cơ sở đồng nhất giữa tư duy và tồn tại khi coi
những quy luật của tự nhiên, của lịch sử cũng là những quy luật của tư duy. Để lý giải
điều này, Hegel cho rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới một cách
8


tuyệt đối và đầy đủ, nghĩa là tư duy con người nhận thức được thế giới tự nhiên và xã
hội. Từ đó, ông coi tư duy là bản chất của chúng. Theo Hegel, tư duy ở đây hoàn toàn
không được xem xét như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người, như là nét đặc thù
của con người. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm tuyệt đối với tư cách
là cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế giới.
Hay nói cách khác, triết học của Hegel chứa đựng đầy mâu thuẫn. Nếu phương
pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát
triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ nhận tính khách quan của những
nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển của tự nhiên xã hội. Ông cho rằng
khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh
thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận
động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. “Ý niệm
tuyệt đối theo nhận xét”, theo nhận xét của Lênin, chỉ là một cách nói theo đường
vòng, một cách khác nói về Thượng đế mà thôi. Hegel cho rằng, ý niệm tuyệt đối là
cái có trước tất cả mọi cái.
Khi đặt ra những cơ sở của phép biện chứng Hegel cho rằng, phương pháp này
xuất phát từ sự vận động, phát triển của những mâu thuẫn được diễn ra trong những
khái niệm. Sự vận động của mặt khẳng định đến mặt phủ định và việc xem xét sự
thống nhất của chúng là bản chất của nhận thức trừu tượng, nhận thức biện chứng.

Trong Bút ký triết học Lênin đã chỉ ra rằng, Hegel đã phỏng đoán một cách thiên tài
về phép biện chứng của những sự vật, hiện tượng, thế giới tự nhiên trong phép biện
chứng của những khái niệm. Chính Mác cũng cho rằng, Hegel trong sự trình bày một
cách tư biện, trừu tượng thường lại đưa ra được một sự trình bày hiện thực bao gồm
chính các sự vật. Chính những quan điểm này tạo nên giá trị to lớn của phép biện
chứng của Hegel, mà về sau chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa và phát triển.
Tuy nhiên, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm đã không cho phép Hegel thực hiện nhiệm
vụ được đặt ra trong triết học của ông là cống hiến cho toàn bộ cuộc đời của sự vật.
Thêm vào đó, ông phủ nhận sự phát triển của giới tự nhiên và nhiều thành tựu
khoa học trong tự nhiên lúc bấy giờ nếu chúng không phù hợp với ý niệm tuyệt đối.
Hegel là người đầu tiên xây dựng nên một phép biện chứng tự giác, có hệ thống và
tương đối toàn diện mà cốt lõi của nó là học thuyết về sự phát triển. Ông cho rằng ý
niệm tuyệt đối có sự vận động và phát triển không ngừng. Trong quá trình tự nhận
thức chính mình, ý niệm tuyệt đối tha hóa thành giới tự nhiên. Do vậy, giới tự nhiên
cũng có sự vận động và phát triển theo những quy luật nhất định nhưng không phải là
sự tự vận động của chính nó mà sự tự vận động của ý niệm tuyệt đối đã bị tha hóa, từ
9


đó ông phủ nhận sự phát triển trong giới tự nhiên. Ngoài ra, Hegel cho rằng “Tính
hiện thực, trong sự phát triển của nó, tự biểu lộ ra là tính tất yếu”. Quan điểm này
được Ăngghen diễn giải là trong quá trình phát triển, những gì trước đây là hiện thực
thì nay trở thành không hiện thực, mất đi tính tất yếu, mất quyền tồn tại và bị tiêu
vong; những gì là hợp lý trong tư duy con người, dù có mâu thuẫn với hiện thực bề
ngoài cũng được quy định trở thành hiện thực. Từ quan điểm đó, Hegel đã phủ nhận
nhiều thành tựu khoa học trong tự nhiên lúc bấy giờ nếu chúng không hợp với ý niệm
tuyệt đối.
2. Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân của những hạn chế trong tư tưởng thế giới quan triết học của
Hegel được xem xét dưới hai khia cạnh: Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân

chủ quan, cụ thể:
a) Nguyên nhân khách quan
+ Đầu tiên, đó là xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội hình thành nên tư tưởng triết
học Hegel
Điều kiện kinh tế – xã hội hình thành nên tư tưởng triết học Hegel cũng là điều
kiện kinh tế – xã hội của triết học cổ điển Đức. Nước Đức từ cuối thế kỷ XVIII – nửa
đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến cát cứ điển hình, lạc hậu về kinh tế và
chính trị. Tình trạng cát cứ ấy đã gây trở ngại lớn đối với phát triển kinh tế. Về xã hội,
giai cấp tư sản mới ra đời còn non yếu về mọi mặt; quần chúng lao động bất bình với
chế độ đương thời.
Trong khi đó, ở Tây Âu, chủ nghĩa tư bản đã hình thành ở nhiều nước, đã đem
lại một nền sản xuất phát triển mở đầu cho nền văn minh công nghiệp, khẳng định
tính chất ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến. Khác với tình hình
chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học nước Đức thời kỳ này Tây Âu khá phát triển do kế
thừa tinh hoa văn hóa phương Tây trước đó, di sản văn hóa Đức, văn hóa Pháp vá các
thành tựu khoa học tự nhiên đương thời.
Sự lạc hậu của nước Đức, sự phát triển của các nước Tây Âu về kinh tế – xã
hội, sự phát triển của khoa học đã thức tỉnh tính phản kháng của giai cấp tư sản Đức
và đòi hỏi giai cấp tư sản Đức phải có cách nhìn mới về tự nhiên, xã hội và con người.
Giai cấp tư sản Đức muốn làm cách mạng tư sản như các nước Tây Âu, muốn xây
dựng nền triết học theo yêu cầu mới, song do mới ra đời nên còn yếu kém về số
lượng, kinh tế và chính trị nên họ giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề của đất nước. Chính điều đó quy định nét đặc thù của triết học cổ điển
Đức nói chung và triết học của Hegel nói riêng: nội dung cách mạng dưới một hình
10


thức duy tâm bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi con người là
một thực thể hoạt động, là nền tảng, là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Trong
các quan điểm xã hội, Hegel đứng trên lập trường của chủ nghĩa Sovanh, đề cao dân

tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là hiện thân của tinh thần vũ trụ
mới. Chế độ nhà nước Phổ đương thời được ông xem là đỉnh cao của sự phát triển nhà
nước và pháp luật.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hoà với trật tự
xã hội Phổ hiện tồn thời đó mà Hegel đã có những kết luận mâu thuẫn và không nhất
quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hegel đã đặt ra một giới hạn cho sự
phát triển của nhân loại kể cả cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố rằng học
thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết học.
+ Sự tác động của những tư tưởng triết học trước đó:
Hegel chịu ảnh hưởng của triết học hiện thực, của logic học với tư cách cơ sở
khả thể của hệ thống triết học cần tìm, tất nhiên không thỏa mãn với các thử nghiệm
ấy, ông đi đến kết luận rằng, bộ phận cơ bản của hệ thống phải là một bộ môn triết
học mới – Hiện tượng tinh thần (1807) như tác phẩm tổng kết giai đoạn Iena – được
dành để nghiên cứu nó.
Triết học Hy Lạp cổ đại đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ tới tư tưởng triết học
của Hegel. Do từ nhỏ, ông được giáo dục trong bầu không khí sùng đạo Tin lành,
được nghiên cứu nhiều tác phẩm cổ điển của Hy Lạp và La Mã khi theo học tại
trường trung học Stuttgart. Triết học Hy Lạp cổ đại với các triết gia tiêu biểu như:
Heraclite, Platon, Aristotle,… Điểm đặc trưng tiến bộ trong triết học Hy Lạp cổ đại đó
chính là đều chứa đựng tư tưởng biện chứng. Vào thời cực thịnh của triết học Hy Lạp
cổ đại, tư tưởng biện chứng được thể hiện trong tư tưởng Socrate. Socrate được xem
là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ biện chứng theo nghĩa là nghệ thuật tranh luận,
hướng các bên cùng quan tâm đến vấn đề tranh luận với mục đích đạt được chân lý
bằng con đường đối lập các ý kiến của họ qua hình thức hỏi – đáp. Tư tưởng này còn
phát triển hơn qua các quan niệm biện chứng của Platon và Aristotle. Nhìn chung,
phép biện chứng cổ đại mang nặng tính tự phát, ngây thơ. Mặc dù còn nhiều hạn chế
nhưn phép biện chứng cổ đại đã coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ
phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, quy định, tác động lẫn nhau; thế
giới không ngừng vận động, biến đổi.
Hegel còn chịu ảnh hưởng không nhỏ tư tưởng của các triết gia Tây Âu thời kì

trước đó. Triết học Tây Âu thời kỳ Trung cổ (thế kỷ V – XV) gắn liền với tôn giáo và
chủ nghĩa kinh viện và triết học Tây Âu thời Phục Hưng (thế kỷ XV – XVI); Cận đại
11


(thế kỷ XVII – XVIII) gắn với phương thức tư duy siêu hình của khoa học tự nhiên
nên tư tưởng biện chứng không được phát triển. Bước sang cuối thế kỷ XVIII – nửa
đầu thế kỷ XIX, với bối cảnh đặc thù của nước Đức, với sự phát triển của triết học cổ
điển Đức, tư tưởng biện chứng thời cổ đại mới được “sống lại” và phát triển trong
một hình thái mới. Phép biện chứng được xem là thành tựu lớn nhất của triết học cổ
điển Đức. Kant được xem là người sáng lập phép biện chứng cổ điển Đức. Trong triết
học của Kant, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập, theo đó, sự thống nhất và thâm nhập lẫn nhau giữa các mặt đối
lập là động lực của sự vận động và phát triển. Động lực đó có trước vật chất và tách
rời vật chất. Trong triết học Fichte, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mâu
thuẫn và nguồn gốc của sự phát triển. Mâu thuẫn và phát triển chỉ tồn tại trong ý thức,
thể hiện trong sự vận động tiến bộ của tư duy trong quá trình nhận thức. Trong triết
học Schelling, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mối liên hệ phổ biến, sự
thống nhất và sự phát triển, tư tưởng về sự thống nhất biện chứng của tự nhiên, sự
thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập trong tự nhiên. Nhìn chung, phép biện chứng
trong triết học cổ điển Đức là phép biện chứng duy tâm, được hình thành từ Kant,
phát triển qua các nhà triết học sau đó như Fichte, Schelling và phát triển đỉnh cao
trong triết học của Hegel.
Từ đó có thể giải thích được lý do tại sao trong tư tưởng triết học của Hegel
chứa đựng đầy mâu thuẫn. Triết học Hy Lạp đã mang lại cho Hegel tư tưởng tiến bộ
về phương pháp biện chứng – hạt nhân hợp lý chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát
triển thì hệ thống triết học duy của các triết gia Tây Âu trước ông đã làm ông phủ
nhận tính khách quan của những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển của
tự nhiên, xã hội. Hay nói cách khác, Hegel đã sáng tạo ra phép biện chứng trên lập
trường duy tâm.

b) Nguyên nhân chủ quan.
+ Nguyên nhân từ việc lựa chọn xuất phát điểm của Hegel: giống với các nhà triết học
gia cùng thời đại với ông, Hegel là một nhà triết gia duy tâm khách quan. Hegel xuất
phát không phải từ sự thống nhất mà từ sự đồng nhất của tư tưởng tư duy và tồn tại.
Ông cho rằng, chúng ta không cần phải nghiên cứu một cách cụ thể mọi chi tiết của sự
phát triển của tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của chúng chỉ là sự phản ánh sự phát
triển của những khái niệm. Cho nên theo Hegel, phân tích những khái niệm là phương
tiện nhận thức hiện thực dễ hơn là nghiên cứu một cách cụ thể chính bản thân hiện
thực này. Xuất phát từ quan niệm này mà Hegel coi sự phát triển của thế giới như là
sự phát triển của những khái niệm. Từ đó ông buộc phải đưa ra một số phạm trù mà
12


chúng chưa từng có trong hiện thực, đặc biệt là sự chuyển biến một cách giả tạo từ
một khái niệm này nẩy sinh ra một khái niệm khác. Theo Mác, đối với Hegel thì tất cả
những gì đã diễn ra và đang diễn ra trong thế giới đều đồng nhất với những gì đang
diễn ra trong tư duy vốn có của ông. Như vậy sự vận động và sự phát triển của những
phạm trù theo Hegel là thể hiện sự phát triển của tự nhiên, xã hội, của tất cả những
biểu hiện văn hóa của con người.
Có thời kỳ Hegel nghiên cứu kinh tế học chính trị. Vì vậy, định hướng phê phán
xã hội trong các tác phẩm của Hegel như: Cương lĩnh đầu tiên về hệ thống chủ nghĩa
duy tâm Đức (1796); Về quan hệ đối ngoại mới nhất của Vutemberg, đặc biệt về tổ
chức tòa thị chính (1798); tiểu phẩm: Tinh thần Kitô giáo và số phận của nó (1799)
và tác phẩm chưa hoàn tất: Hiến pháp Đức có liên hệ mật thiết với quá trình cải cách
sâu rộng đang diễn ra đối với trật tự xã hội, hệ thống các giá trị, các lý tưởng, các thể
chế lỗi thời, thể hiện rõ nhất trong cách mạng Pháp. Do ảnh hưởng ấy mà lý tưởng về
tự do đã trở thành giá trị chủ yếu dựa trên đó và Hegel bắt đầu luận chứng cho triết
học của mình.
+ Nguyên nhân từ những quan niệm, quan điểm trong tư tưởng triết học của Hegel:
Hegel đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt nhân duy lý, tức là cái

phương pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến chuyển theo
quá trình phát triển mâu thuẫn. Hegel đã vận dụng phương pháp nêu mâu thuẫn đó
một cách lộn ngược, chân cho lên trên, đầu để xuống dưới; lẽ ra phải thấy rằng do
mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào đó mới
phát sinh ra tinh thần, thì Hegel lại cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động của
tinh thần. Vậy, cái hạt nhân duy lý nói trên ở đâu mà ra? Tại sao chủ nghĩa duy tâm
tuyệt đối của Hegel lại nắm được cơ sở chân lý đó?
Triết học của Hegel vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện chứng,
tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu thuẫn.
Phương pháp của Hegel phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, cho là trong
mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá trình đó một cách
có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hegel lại nói rằng quá trình phát triển vật chất là do mâu
thuẫn của hoạt động tinh thần. Hegel chỉ trông thấy hiện tượng ở bên trên, nên cho
rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề
chung của Hegel phản ánh một chân lý: đó là con người sáng tạo thế giới lịch sử.
Nhưng con người đó chỉ được quan niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con
người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con người lao động thực sự. Hạt nhân duy lý
13


trong phương pháp biện chứng của Hegel là ở chỗ đó. Một số biểu hiện của những
quan điểm, quan niệm chưa toàn diện trong tư tưởng triết học của Hegel:
- Hegel đã đồng nhất giữa chủ thể và khách thể được xác định trong quá trình
nhận thức. Chủ thể và khách thể không còn ở ngoài nhau, mà thâm nhập lẫn nhau,
sống cuộc sống của nhau. Từ thời điểm tiếp nhận vào mình cái trước đó ở ngoài mình,
chủ thể có quan hệ với như với cái của mình, tức cái sống động, thực tại ở mức tối đa.
Quan hệ như vậy giả định không phải cái nhìn thờ ơ, xa lạ (trừu tượng, hình thức), mà
phải có cái nhìn ấp áp, quan tâm, đồng cảm. Tác động trong khuôn khổ của quan hệ
này không hẳn là tư duy, mà chủ yếu là “tư duy – tưởng tượng”, “tư duy – trực giác”
đặc biệt. Nhưng nó vẫn phải là tư duy chặt chẽ và nhất quán về mặt logic.

- Hegel biến tôn giáo thành đối tượng của mình, triết học không tách biệt với
tôn giáo. Triết học và tôn giáo có nội dung, nhu cầu và mối quan tâm chung. Giống
như triết học, đối tượng của tôn giáo là chân lý vĩnh cửu trong tính khách quan của
nó, là Chúa và luận giải về Chúa. Với tư cách nghiên cứu chân lý vĩnh cửu, triết học
là hoạt động như tôn giáo; khi triết lý, tinh thần thâm nhập sống động vào đối tượng,
đắm mình vào khách thể và kiên quyết khước từ những đặc điểm của mình y hệt ý
thức tôn giáo đang cố khước từ mọi cái đặc thù và hoàn toàn đắm mình vào nội dung.
Tôn giáo và triết học trùng hợp với nhau ở điểm này. Trên thực tế, bản thân triết học
phụng sự Chúa, là tôn giáo vì nó khước từ những bịa đặt và những ý kiến chủ quan
trong nghiên cứu Chúa. Do vậy, triết học đồng nhất với tôn giáo; khác biệt biểu hiện ở
chỗ triết học làm việc đó bằng những phương pháp riêng của mình, khác với phương
pháp thường được gọi là phương pháp tôn giáo. Điểm chung của chúng thể hiện ở chỗ
cả hai đều là tôn giáo, khác biệt thể hiện ở tính chất và phương pháp đạt tới Chúa.
Làm sáng tỏ tôn giáo, triết học làm sáng tỏ bản thân mình, làm sáng tỏ bản thân mình,
triết học làm sáng tỏ tôn giáo.
- Theo Hegel bản chất con người không quy về được cả bản nguyên tự nhiên
lẫn bản nguyên thuần túy xã hội. Ông kế tục truyền thống của Descartes khởi xướng.
Hegel tách biệt cái có tính người đích thực trong thành phần hiện sinh người. Cái có
tính người đích thực là cái siêu nhiên, do vậy có thể đánh giá lập trường của Hêghen
trong vấn đề con người là chủ nghĩa siêu nhiên. Cái siêu nhiên trong con người có
nguồn gốc thần thánh.
- Tư tưởng tự do xuyên suốt triết học của Hegel, ông bắt đầu từ quan niệm về tự
do của các giáo hoàng Rome và ý thức rõ quan niệm của người Châu Âu về Kito giáo.
Quan niệm này có liên hệ với phương diện đạo đức của khái niệm “tự do”. Theo ông,
14


tự do chủ quan hay tự do đạo đức chủ yếu được gọi là tự do theo nghĩa của người
Châu Âu.
- Một trong những động cơ của Hêghen là ý định xoa dịu sự đối lập gay gắt

giữa con người và thế giới do tư tưởng triết học Châu Âu cận hiện đại trước đó phác
họa. Hêghen cố hiểu những gì xảy ra với thế giới như những thứ xảy ra với bản thân
con người và ngược lại.
Suy cho cùng, dù có những hạn chế trong tư tưởng của mình nhưng những quan
điểm trong triết học của Hegel cho đến ngày nay vẫn được coi là hệ tư tưởng có ảnh
hưởng nhiều nhất tới hệ thống triết học trên toàn thế giới từ trước tới nay. Trong “Bút
ký triết học” Lênin có nói rằng có nhiều loại chủ nghĩa duy vật cũng như nhiều loại
chủ nghĩa duy tâm, và khẳng định: “Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa
duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn".Vả lại, trước Mác, nhưng nhà
triết học nổi tiếng là duy vật của thế kỷ XVII - XVIII ở Anh và ở Pháp cũng vẫn chỉ là
duy vật nửa vời "duy vật một nữa", nghĩa là chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn
trong lĩnh vực xã hội thì họ cũng duy tâm. Hơn nữa, họ lại siêu hình, không lý giải
được nguồn gốc, sự vận động và sự phát triển của thế giới khách quan. Chính đó là
một lý do quan trọng làm cho chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII bị chủ nghĩa duy
tâm của triết học Đức phủ định. Triết học Hegel là một thứ "chủ nghĩa duy tâm thông
minh", có những "hạt nhân hợp lý" và rất có giá trị, trở thành một trong những tiền đề
trực tiếp của chủ nghĩa Mác, được các học giả và các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đánh giá rất cao.
C.

KẾT LUẬN

Phép biện chứng duy tâm của Hegel là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ
điển Đức. Tuy có những hạn chế nhất định nhưng có thể coi triết học của Hegel đã đi
đến điểm tận cùng. Một mặt vì trong hệ thống triết học của ông, ông đã tổng kết một
cách hết sức hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học. Mặt khác, Hegel đã vạch ra
định hướng để hệ thống triết học có thể đi tới sự nhận thức thực sự tích cực về thế
giới. Và chính đối với C. Mác và Ăng ghen, mặc dù hai ông đã phê phán một cách
triệt để tính phản khoa học và thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học của Hegel
nhưng bên cạnh đó, hai ông cũng đã đánh giá cao và tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong

phép biện chứng của Hegel để xây dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng
duy vật của mình.

15



×