Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.34 KB, 28 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ CÔNG LƯƠNG

ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước
Mã số

: 62 31 02 03

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2016


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Phan Hữu Tích
2.

TS.

Hoàng

Mạnh

Đoàn



Phản biện 1: ..............................................................................
....................................................................................................
Phản biện 2: ..............................................................................
....................................................................................................
Phản biện 3: ..............................................................................
....................................................................................................

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Vào hồi

ngày tháng

năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trí thức là vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện
trình độ trí tuệ của một quốc gia và có vai trò quan trọng trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là nhiệm
vụ chung của toàn Đảng, toàn dân, nhưng đội ngũ trí thức với đặc thù
lao động của mình có vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định.
Không có đội ngũ trí thức đủ mạnh thì không thể tiến hành CNH,

HĐH đất nước, không thể xây dựng thành công CNXH.
Nối tiếp truyền thống của dân tộc, vận dụng những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tiến trình cách mạng của mình cũng đã
thường xuyên chăm lo vận động, xây dựng đội ngũ trí thức. Bên cạnh
những những kết quả đạt được, sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức cũng còn bộc lộ những hạn chế.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch với chiến
lược “diễn biến hòa bình” đang tăng cường các hoạt động chống phá
cách mạng nước ta, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, chia rẽ dân với
Đảng, đặc biệt chúng tập trung lôi kéo, lợi dụng trí thức để nhằm xóa
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận nói
chung và công tác vận động trí thức nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên và từ yêu cầu nhiệm vụ, thực tiễn
công tác của bản thân, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn
hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng và
chính quyền nhà nước, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức đề xuất phương hướng và giải


2
pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí
thức đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án, làm rõ kết

quả nghiên cứu về trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức;
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức;
- Đánh giá thực trạng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức, nêu nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm;
- Xác đinh mục tiêu, yêu cầu và đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là
một vấn đề rất rộng và phức tạp. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số
vấn đề lý luận về trí thức và công tác vận động trí thức; nghiên cứu thực
trạng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức từ năm 1986 đến nay, trong đó tập trung chủ yếu vào
giai đoạn 2000 đến 2013. Luận án cũng đề cập đến những nhân tố tác
động và những yêu cầu đặt ra đối với đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức, từ đó đề ra những giải pháp để tiếp tục đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai
đoạn từ nay đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về trí thức và công tác vận động trí thức.



3
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin
đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử - logic, phân
tích - tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát thực tiễn,
phương pháp chuyên gia và phương pháp điều tra xã hội học.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học
- Nghiên cứu và đưa ra khái niệm về trí thức và công tác vận động
trí thức; nội dung, phương thức lãnh đạo trí thức và xây dựng luận cứ
khoa học khẳng định tính tất yếu phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và rút
ra những kinh nghiệm lãnh đạo công tác vận động trí thức làm cơ sở
thực tiễn cho việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức.
- Dự báo thuận lợi, khó khăn, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu và
đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức đến năm 2025.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần phát triển hướng nghiên
cứu mới về lý luận và thực tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức trong tình hình hiện nay. Luận án góp
phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác vận động trí thức trong tình hình hiện nay
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo, nghiên cứu giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, các
cơ quan, tổ chức và cá nhân quan tâm.
7. Kết cấu của luận án
Gồm phần mở đầu, 4 chương với 8 tiết, kết luận, danh mục công
trình nghiên cứu đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo

và phụ lục.


4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Ở TRONG NƯỚC

1.1.1. Sách
- “Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng” (1995) do TS
Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Định
hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” (2001) - GS.TS Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội; “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây
dựng đất nước”(1995); Đỗ Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
“Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước” (1998) - PTS.Nguyễn
Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch, Nxb Lao động, Hà Nội; “Xây dựng đội
ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ Chí
Minh” (2013) do PGS, TS Nguyễn Khánh Bật, Th.s Trần Thị Huyền
(đồng chủ biên; “Một số vấn đề về trí thức Việt Nam” (1998) Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.- TS Nguyễn
Đắc Hưng: “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước”(2004) và “Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại”(2008)…
1.1.2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
“Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện
nay”, luận án tiến sĩ Triết học của Phan Thanh Khôi, Hà Nội, 1992;
“Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” - luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn
Xuân Phương, 2004; “Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng
và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007”luận án tiến sĩ Lịch sử của Lương Quang Hiển, 2007; “Trí thức

người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới’ - luận án
tiến sĩ Triết học của Trịnh Quang Cảnh, 1988;“Vấn đề phát triển
nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay” - luận án
tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Giáng Hương, 2013;“Giáo dục -


5
đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt
Nam hiện nay” - luận án tiến sĩ chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Lương Công Lý, 2014; “ Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ 1991 đến 2005” luận án tiến sĩ Lịch sử của Nguyễn Thắng Lợi, 2005;“Trí thức Việt
Nam trong phát triển kinh tế tri thức” luận án tiến sĩ Triết học của
Nguyễn Công Trí, 2011; Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát
huy vai trò của đội ngũ trí thức và sự vận dụng trong thời kì Đổi mới luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Thuận, 2011; “Phát triển đội ngũ trí
thức ở Hà Tĩnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
- luận văn thạc sĩ Triết học của Trần Văn Thành, 2009.
1.1.3. Đề tài khoa học
- Đề cương báo cáo tình hình đội ngũ trí thức và công tác trí
thức của Đảng của Nguyễn Đình Tứ, Hà Nội 01/1996 ;
Đề tài khoa học cấp nhà nước (KX04.16/06-10)”Xây dựng đội
ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011 -2020” do PGS,TS Đàm Đức
Vượng làm Chủ nhiệm; Đề tài cấp bộ”Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với trí thức nước ta hiện nay” (2008) của Viện
Xây dựng Đảng - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, do TS Ngô Huy
Tiếp, Viện Xây dựng Đảng làm Chủ nhiệm…
Đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị-xã hội trong điều kiện mới”, mã số KX. 04-02/11/15 thuộc
chương trình khoa học xã hôi và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước
“Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2011-2015” do

PGS, TS Trần Khắc Việt làm chủ nhiệm
1.1.4. Các bài viết đăng tạp chí
Trí thức là một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều
đối tượng, nhiều lĩnh vực, vì thế có khá nhiều bài viết , đề tài nghiên
cứu về lĩnh vực này.


6
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA NƯỚC NGOÀI

1.2.1. Sách
- Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn
hưng đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội do hai tác giả người Trung Quốc
Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diện (chủ biên) (1996); Chiến lược
quốc gia nhân tài biến đổi thế giới của Vương Huy Diệu (Trung
Quốc), Nhà xuất bản Nhân dân (2010); Trí thức, lịch sử và cách
mạng - Bút ký về cuộc sống của nước Nga hiện nay của tác giả người
Nga,Vladimir Alexanderovits Mau,(2009), Nhà xuất bản Tri thức. Hà
Nội, do Ngân Xuyên dịch; Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh tầng lớp
trí thức của tác giả người Nga, N. A. Berdaev (2009), Nhà xuất bản
Tri thức. Hà Nội, do Phạm Nguyên Trường dịch và chú thích.; Tuyển
40 năm chính luận của Lý Quang Diệu (1994)…
1.2.2. Luận án
- Luận án tiến sĩ của In pon Nhôt xa vông. Thực trạng và xu
hướng biến đổi của nhóm xã hội trí thức trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Hà Nội, (1998);
Luận án tiến sĩ của Khăm Phăn Vông Pha Chăn “Đào tạo đội ngũ
cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị ở Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào hiện nay” , (2014)…
1.3. NHỮNG KẾT QUẢ CỦA CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN

QUAN VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

1.3.1. Những kết quả của các công trình khoa học liên quan
Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và nước
ngoài đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về trí thức và
công tác trí thức của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Nhìn
chung, những kết quả đạt được của các công trình khoa học liên quan
đến luận án đều có giá trị định hướng về phương pháp tiếp cận, giải
quyết vấn đề nghiên cứu. Những giải pháp mà các nhà khoa học đề
xuất nhằm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ trí
thức và đổi mới công tác vận động trí thức đều có giá trị tham khảo
trong quá trình triển khai thực hiện luận án.


7
1.3.2. Nội dung nghiên cứu của luận án
Kế thừa kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan,
luận án hệ thống hóa và bổ sung những quan niệm về trí thức và công
tác vận động trí thức, về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức, xây dựng luận cứ khoa học đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
Luận án làm rõ thực trạng đội ngũ trí thức và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay để
làm cơ sở thực tiễn đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay, nghiên cứu những cơ hội
và thách thức, phương hướng, quan điểm chỉ đạo và đề xuất những
giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2
ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - NHỮNG VẤN ĐỀ
CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. TRÍ THỨC VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC Ở
NƯỚC TA

2.1.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của trí thức
2.1.1.1. Khái niệm trí thức
Kế thừa và phát triển quan niệm của Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về trí thức, Nghị quyết số 27- NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra quan niệm về trí thức: “Trí thức là những người lao động trí óc,
có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực
tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”.
2.1.1.2. Vai trò của trí thức


8
Một là, trí thức là vốn quý của đất nước, của nhân dân và dân
tộc, có vai trò quyết định sức sáng tạo và trình độ phát triển của
quốc gia.
Hai là, đội ngũ trí thức là lực lượng trực tiếp nghiên cứu phát
triển lý luận, tổng kết thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa học
phục vụ hoạch định đường lối, chính sách, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng và chế độ.
Ba là, trí thức là chủ thể của cách mạng khoa học- kỹ thuật là
động lực thúc đẩy phát triển công nghệ hiện đại.
Bốn là, trí thức là lực lượng có vai trò quan trọng, có ý nghĩa
quyết định trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), nâng cao

dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Năm là, trí thức là lực lượng trực tiếp tham gia giữ gìn và phát
triển những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
những tinh hoa giá trị văn hoá của nhân loại nhằm làm phong phú đời
sống văn hoá, tinh thần của nhân dân và đất nước.
2.1.1.3. Đặc điểm của trí thức Việt Nam
Một là, trí thức Việt Nam là những người lao động trí óc có tính
sáng tạo, sản phẩm lao động của họ thường mang đậm dấu ấn cá nhân.
Hai là, trí thức Việt Nam đã tiếp nối và phát huy được truyền
thống văn hiến của dân tộc, luôn đồng hành với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc,của Đảng và có đóng góp đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Ba là, trí thức Việt Nam được hình thành từ nhiều nguồn, có sự
khác nhau; qua biến cố của lịch sử nhưng không phản bội Tổ quốc, có
những đóng góp về tư tưởng, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, công nghệ..
Bốn là, trí thức Việt Nam được tổ chức thành đội ngũ, chủ yếu
hoạt động trong các tập thể khoa học công lập, do Nhà nước cấp kinh
phí hoạt động và một bộ phận hoạt động trong các tập thể khoa học
ngoài công lập.


9
Năm là, một số trí thức Việt Nam chịu ảnh hưởng của tàn dư
phong kiến, thiếu sự liên kết chặt chẽ trong sáng tạo khoa học, tinh
thần hợp tác chưa cao.
2.1.2. Công tác vận động trí thức - Khái niệm, nội
dung, phương thức
2.1.2.1. Khái niệm vận động trí thức và công tác vận động trí thức
Công tác vận động trí thức là một bộ phận quan trọng trong công
tác dân vận; là hoạt động có tổ chức của Đảng, Nhà nước, các tổ chức

trong hệ thống chính trị và toàn xã hội để tuyên truyền giải thích, thuyết
phục, định hướng, tập hợp, đoàn kết, cổ vũ, động viên, tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhằm phát huy vai trò trách nhiệm, tài năng trí tuệ của đội ngũ
trí thức góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng, xây dựng và
bảo vệ bảo vệ Tổ quốc.
2.1.2.2. Nội dung công tác vận động trí thức
Một là, xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
2.1.2.3. Hình thức vận động trí thức
Một là, vận động trí thức thông qua việc đề ra cương lĩnh, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, vận động trí thức bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, đối thoại, gặp gỡ, giao lưu với trí thức.
Ba là, vận động trí thức bằng công tác quản lý nhà nước, thông
qua việc thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước.
Bốn là, vận động trí thức bằng công tác cán bộ,thông qua vai trò
tiên phong gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.


10
Năm là, vận động trí thức bằng sự phối, kết hợp giữa các tổ chức
đảng với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -xã
hội, các tổ chức của trí thức, các tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ.
2.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
VÀ ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG THỨC


2.2.1. Khái niệm, nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo
công tác vận động trí thức
2.2.1.1. Khái niệm Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức
Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức là toàn bộ hoạt động
của Đảng từ việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tổ chức thực
hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách vận
động trí thức nhằm đoàn kết tập hợp, xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc.
2.2.1.2. Nội dung Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức
Một là, đường lối của Đảng xác định, mục tiêu, quan điểm, chủ
trương về trí thức và vận động trí thức
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa thành chính sách,
pháp luật để thực hiện công tác vận động trí thức.
Ba là, Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ,
động viên trí thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức, cán bộ chuyên trách
làm công tác vận động trí thức.
Năm là, Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo
xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức.
Sáu là, Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, tập hợp, đoàn
kết trí thức trong khối đại đoàn kết toàn dân tham gia sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.


11
2.2.1.3. Phương thức Đảng lãnh đạo công tác
vận động trí thức

Một là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức bằng Cương
lĩnh, đường lối, nghị quyết và các định hướng chính sách lớn về trí
thức và công tác vận động trí thức.
Hai là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua
công tác tư tưởng của Đảng.
Ba là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua các
mặt hoạt động của Nhà nước.
Bốn là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức bằng công tác
tổ chức và cán bộ của Đảng.
Năm là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Sáu là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua vai trò
tiền phong, gương mẫu của các cán bộ, đảng viên là trí thức và các tổ
chức đảng hoạt động trong các tập thể lao động khoa học của trí thức.
Bảy là, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức thông qua phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội và các hội
trong tập hợp, đoàn kết trí thức cống hiến cho đất nước.
2.2.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức - Khái niệm, nội dung, phương thức
2.2.2.1. Khái niệm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí
thức là hoạt động của Đảng nhằm thay đổi, bổ sung, hoàn thiện, phát
triển nội dung, phương thức lãnh đạo công tác vận động trí thức để
công tác này đạt kết quả cao hơn.
2.2.2.2. Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức
Một là, tiếp tục đổi mới nhận thức, quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng về công tác vận động trí thức.



12
Hai là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
trong xây dựng chính sách, pháp luật về xây dựng, phát huy đội ngũ trí
thức và quản lý nhà nước theo pháp luật về công tác vận động trí thức.
Ba là, đổi mới nội dung lãnh đạo trong xây dựng tổ chức, bộ máy
của trí thức và cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí thức.
Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tuyên
truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức.
Sáu là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với việc tạo lập
môi trường, điều kiện hoạt động khoa học thuận lợi cho trí thức lao động,
cống hiến.
Bảy là, đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể chính tri - xã hội trong việc tập hợp, phát huy
trí thức tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.2.2.3. Nguyên tắc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức
Đổi mới muốn thành công đòi hỏi phải có tính nguyên tắc. Đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức cần phải
giữa vững các nguyên tắc sau đây:
Một là, Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu trên, mà làm
cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm
đúng đắn về trí thức, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp
phù hợp.
Hai là, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức trước hết phải lấy Chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, vận dụng sáng tạo và phát triển những

nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong hoàn cảnh
mới, chứ không phải xa rời những nguyên lý ấy.


13
Ba là, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lý của nhà nước, vai trò của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các tổ
chức xã hội…để phát huy tiềm năng, trí tuệ của trí thức, tạo điều kiện
tốt nhất cho đội ngũ trí thức cống hiến và trưởng thành.
Bốn là, Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng, đối
với đội ngũ trí thức là tất yếu.
Năm là, phát huy quyền dân chủ, khuyến khích tự do lao động
sáng tạo của trí thức trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội.
Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ cương, với pháp luật và với
ý thức trách nhiệm công dân.
Sáu là, Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức là nhằm đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức trong và
ngoài nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
góp phần thức đẩy, đưa đất nước phát triển, hội nhập với khu vực
và quốc tế.
2.2.2.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức
Một là, đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị quyết và các định
hướng chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước về trí thức và vận
động trí thức
Hai là, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động trí thức theo
hướng mở rộng dân chủ, tôn trọng, lắng nghe trí thức; thẳng thắn,
chân thành với trí thức.

Ba là, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
chính quyền các cấp trong công tác vận động trí thức.
Bốn là, đổi mới công tác tổ chức, cán bộ của Đảng trong vận
động trí thức


14
Năm là, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị trong việc phối hợp nâng cao hiệu quả
công tác vận động trí thức.
Sáu là, đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong việc
thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách đối với trí thức và
công tác vận động trí thức.
Chương 3
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC VÀ ĐỔI MỚI SỰ
LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ
THỨC THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ CÔNG TÁC VẬN
ĐỘNG TRÍ THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

3.1.1. Thực trạng đội ngũ trí thức
3.1.1.1. Ưu điểm
* Đội ngũ trí thức phát triển nhanh chóng về mặt số lượng
* Về cơ cấu đội ngũ trí thức có những chuyển biến hợp lý
* Đội ngũ trí thức đã có những đóng góp, cống hiến to lớn vào
sự phát triển của đất
3.1.1.2. Khuyết điểm
* Trí thức Việt Nam phân bổ không đồng đều giữa các địa
phương, các vùng lãnh thổ, các loại hình đơn vị và các thành phần

kinh tế
* Trí thức bậc cao vừa thiếu vừa cơ cấu bất hợp lý, trí thức trẻ
chất lượng thấp, thất nghiệp cao
* Chất lượng đội ngũ trí thức Việt Nam chưa cao, chưa đáp ứng
được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chưa tiến kịp với
khu vực và quốc tế
3.1.2. Thực trạng công tác vận động trí thức


15
3.1.1.1. Những ưu điểm trong công tác vận động trí thức
a) Về nội dung công tác vận động trí thức
* Đảng đã ban hành nghị quyết, xác định nhiều chủ trương,
chính sách về công tác xây dựng đội ngũ trí thức
* Công tác đoàn kết, tập hợp và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được chú trọng
b) Về hình thức vận động trí thức
Một là, công tác vận động trí thức đã được thể hiện trong Cương
lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, công tác tuyên truyền, thu hút, tập hợp trí thức với nhiều
hình thức (gặp gỡ, giao lưu, đối thoại, trao đổi …) được chú trọng.
Ba là, Nhà nước đã xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện
nhiều văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến công tác vận động
trí thức.
Bốn là, vai trò tiên phong gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và
hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong công tác
vận động trí thức có chuyển biến.
Năm là, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -xã
hội, các tổ chức của trí thức, các tổ chức xã hội được phát huy, đã có sự
phối hợp để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc đoàn kết, tập hợp và

phát huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức.
3.1.2.2. Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác vận
động trí thức
a) Về nội dung công tác vận động trí thức
Một là, công tác tư tưởng đối với trí thức vẫn còn nhiều hạn chế.
Hai là, việc tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức chưa cao, việc thu
hút trí thức Việt kiều về tham gia xây dựng đất nước còn hạn chế.
Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ
trí thức còn bộc lộ nhiều yếu kém.
Bốn là, việc chăm lo bảo đảm chính sách, chế độ đãi ngộ, lợi ích
vật chất, tinh thần của đội ngũ trí thức còn thiếu đồng bộ chưa đáp
ứng được yêu cầu chính đáng của trí thức.


16
b) Về hình thức công tác vận động trí thức
Một là, hình thức tuyên truyền thuyết phục trí thức đổi mới
chậm, chưa sát với đặc thù của trí thức.
Hai là, vận động trí thức thông qua chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đôi lúc còn thiếu kịp thời,
thiếu sự nhất quán, thiếu thực tế.
Ba là, việc vận động trí thức bằng công tác cán bộ, thông qua
vai trò tiên phong gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động
của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa có sức thuyết phục trí thức.
Bốn là, việc vận động trí thức bằng sự phối, kết hợp giữa các tổ
chức đảng với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị -xã hội, các tổ chức xã hội thiếu sự liên kết đồng bộ.
3.2. ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM

3.2.1. Thực trạng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức
3.2.1.1. Những ưu điểm
* Những ưu điểm trong đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng
Một là, đã có những đổi mới trong nhận thức, quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng về công tác vận động trí thức và đổi mới
việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách đó
Hai là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối
với Nhà nước trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật về công
tác vận động trí thức và quản lý nhà nước theo pháp luật về công tác
vận động trí thức
Ba là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong
xây dựng tổ chức, bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác vận
động trí thức.
Bốn là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí


17
thức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước
Năm là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức
Sáu là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và các lực lượng xã hội trong việc tạo lập môi trường, điều kiện
hoạt động khoa học thuận lợi cho các tập thể trí thức lao động, cống hiến
Bảy là, đã có những đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể chính tri - xã hội trong việc tập hợp, đoàn kết trí
thức trong khối đại đoàn kết toàn dân tham gia sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc

* Những ưu điểm trong đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng
Một là, đã có những đổi mới việc ban hành chủ trương, nghị
quyết và các định hướng chính sách lớn về trí thức và công tác vận
động trí thức
Hai là, đã có những đổi mới hoạt động của Đảng trong chỉ đạo
xây dựng chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước về công tác vận
động trí thức.
Ba là, đã có những đổi mới công tác tư tưởng của Đảng trong
tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Bốn là, đã có những đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của
Đảng trong các cơ quan quản lý Nhà nước về công tác vận động trí
thức, trongcác tập thể lao động khoa học, trong các đơn vị sự nghiệp
khoa học công lập.
Năm là, đã có những đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đối với các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập
thể khoa học, các tổ chức và các hội nghề nghiệp của trí thức
Sáu là, đã có những đổi mới trong đề cao vai trò tiền phong,
gương mẫu và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là trí thức hoạt


18
động trong các tập thể lao động khoa học; đổi mới phong cách, tác
phong công tác của cán bộ, đảng viên là trí thức.
Bảy là, đã có những đổi mới công tác Mặt trận và các đoàn thể
theo hướng phát huy vai trò của trí thức tham gia giám sát và phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động của bộ máy Nhà
nước; đoàn kết tập hợp trí thức công hiến cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.

3.2.1.2. Những khuyết điểm
a. Trong đổi mới nội dung lãnh đạo
Một là, việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng về công tác vận động trí thức; việc lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng đối với Nhà nước trong quá trình xây dựng chính sách, pháp
luật về công tác vận động trí thức còn chưa kịp thời, kém hiệu quả.
Hai là, việc đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây
dựng tổ chức, bộ máy, cán bộ chuyên trách làm công tác vận động trí
thức còn mang nặng tính quan liêu, hình thức thậm chí hữu khuynh.
Ba là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng,
tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ, động viên trí thức thực hiện đường lối
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chậm, tính
thuyết phục không cao.
Bốn là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng, chăm lo xây dựng và bảo vệ đội ngũ trí thức chưa có chuyển biến
đáng kể
Năm là, việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
các lực lượng xã hội trong việc tạo lập môi trường, điều kiện hoạt động
khoa học thuận lợi cho các tập thể trí thức lao động, cống hiến chưa được
như mong muốn
b. Trong đổi mới phương thức lãnh đạo
Một là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng công tác tư tưởng chưa
thực sự mang lại hiệu quả mong muốn.


19
Hai là, phương thức lãnh đạo bằng công tác tổ chức - cán bộ
còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, hạn chế
Ba là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng đối với các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các

tập thể khoa học, các tổ chức và các hội nghề nghiệp của trí thức mới
chỉ dừng ở quan điểm, chủ trương
Bốn là, việc đổi mới sự lãnh đạo bằng hình thức nêu gương của
đảng viên, gương người tốt việc tốt chưa đạt yêu cầu.
3.2.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm
3.2.2.1. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, Đảng nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò của trí thức và
sự cần thiết phải đổi mới để tăng cường công tác vận động trí thức.
Hai là, thành tựu đạt được của công cuộc đổi mới, sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước đã góp phần mang lại những kết quả
trong quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức.
Ba là, năng lực trình độ của đội ngũ trí thức và cán bộ làm công
tác vận động trí thức có sự phát triển mới, tạo tiền đề cho công tác
vận động trí thức.
Bốn là, xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ thế giới đem lại nhiều cơ
hội, điều kiện thuận lợi cho trí thức trong hội nhập và phát triển.
Năm là, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà
nòng cốt là liên minh Công nhân - Nông dân và Trí thức được củng
cố và tăng cường cũng là một điều kiện thuận lợi để huy động sức
mạnh tổng hợp thực hiện công tác vận động trí thức.
b. Nguyên nhân của khuyết điểm
Một là, nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy đảng về trí thức
và công tác vận động trí thức vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm.


20
Hai là, việc thể chế hóa các chủ trương đường lối của Đảng về

vận động trí thức của Nhà nước còn chậm, chưa đầy đủ, có nơi, có
lúc thực hiện thiếu nghiêm túc.
Ba là, chưa tạo được không khí dân chủ, môi trường thuận lợi
cho hoạt động của trí thức.
Bốn là, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn
hạn chế chưa thực sự là tấm gương để trí thức học tập và noi theo.
Năm là, về khách quan, nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng lạc
hậu, trình độ khoa học và công nghệ còn thấp; giáo dục và đào tạo còn
nhiều hạn chế, yếu kém tác động tiêu cực đến công tác vận động trí thức.
3.2.2.2. Một số kinh nghiệm
Một là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức phải dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về trí thức và vận động trí thức.
Hai là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức cần phải gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước trong sạch, vững mạnh.
Ba là, trong đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức cần chú trọng những đặc điểm của đội ngũ trí thức tầng lớp xã hội đặc biệt; mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát
từ lợi ích của trí thức.
Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức là phải phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội.
Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức là quá trình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
tính tích cực, độc lập và năng động sáng tạo và giác ngộ của trí thức.


21
Chương 4
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU VÀ CÁC

GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025
4.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU TIẾP TỤC
ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC

4.1.1. Những yếu tố tác động đến đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động trí thức
4.1.1.1. Thuận lợi
Một là, sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế tri thức.
Hai là, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
Ba là, những thành tựu 30 năm đổi mới, xu hướng phát triển của
đất nước trong những năm tới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
vận động trí thức
Bốn là, truyền thống hiếu học và sự phát triển của GD&ĐT, nhất là
giáo dục đại học là tiền đề quan trọng để xây dựng đội ngũ trí thức
4.1.1.2. Khó khăn
Một là, những tác động mặt trái của toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế
Hai là, chiến lược diễn biến hoà bình và sự chống phá trên mặt
trận tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch vẫn đang tiếp diễn
Ba là, những khuyết điểm yếu kém của giáo dục và đào tạo, nhất là
giáo dục đại học đang là lực cản trong xây dựng đội ngũ trí thức
Bốn là, những hạn chế, bất cập về lý luận, sự thoái hóa biến chất
của một bộ phận cán bộ, đảng viên tác động xấu đến đội ngũ trí thức,
gây khó khăn cho việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức
Năm là, những hạn chế, yếu kém của một bộ phận trí thức



22
4.1.2. Mục tiêu và yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025
4.1.2.1. Mục tiêu
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và
toàn xã hội trong việc xây dựng đội ngũ trí thức có số lượng, chất lượng
và cơ cấu hợp lý, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức
các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới; phát huy tiềm năng trí tuệ,
tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức, thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân
và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4.1.2.2. Những yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025
Một là, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Ðảng đối với công tác
vận động đội ngũ trí thức.
Hai là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức nhằm xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu
về số lượng, chất lượng, bản lĩnh chính trị.
Ba là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức phải bảo đảm cho đội ngũ trí thức Việt Nam phát huy vai trò
lao động sáng tạo, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức phải huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội thực hiện công tác vận động trí thức.
Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức nhằm phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động

nghiên cứu, sáng tạo của trí thức đi đôi với bảo đảm tuân thủ pháp
luật, kỷ cương, kỷ luật.


23
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức
đảng về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
4.2.2. Đổi mới công tác xây dựng và triển khai, tổ chức thực
hiện các nghị quyết của Đảng về công tác vận động trí thức
4.2.3. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
trong công tác vận động trí thức
4.2.4. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ để xây dựng đội ngũ trí thức và
tạo môi trường thuận lợi cho trí thức sáng tạo, cống hiến
4.2.6. Đảng lãnh đạo phát huy vai trò phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong công
tác vận động trí thức
4.2.6. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức


×