Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN NHÀ NƯỚC CAN THIỆP VÀO NỀN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.25 KB, 10 trang )

I.
CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Nhà nước và dặc trưng của nhà nước

Nhà nước là thiết chế quyền lực chính trị của một giai cấp (nhóm giai cấp, tập đoàn) này đối
với toàn bộ các giai cấp khác trong xã hội, đồng thời còn là quyền lực công đại diện cho lợi ích
chung của cộng đồng xã hội nhằm duy trì và phát triển xã hội trước lịch sử và trước các xã hội khác.
Sứ mệnh của nhà nước là phải thực hiện việc quản lý chung toàn bộ các hoạt động của xã
hội, phải bảo vệ được cuộc sống an toàn cho các công dân; đồng thời phải làm cho đất nước giầu có,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đặc trưng của nhà nước:
- Nhà nước gắn với lãnh thổ và với sự phân chia giai cấp trong xã hội
- Nhà nước quản lý bao trùm toàn bộ xã hội; Nhà nước quản lý xã hội nói chung bằng nhiều
công cụ nhưng công cụ chủ yếu là bằng pháp luật và có tính cưỡng bức
- Nhà nước đặt ra và thu thuế đối với xã hội, trước hết là đối với các đơn vị kinh tế để từ đó
phục vụ trở lại cho xã hội.
2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý nhà nước về kinh tê
a. Kinh tế
- Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất và kinh doanh, các điều kiện sống của con người và các
quan hệ trao đổi của cải vật chất và dịch vụ giữa con người với nhau trong quá trình tái sản xuất xã
hội mà cốt lõi là vấn đề sở hữu và vấn đề lợi ích. Ba vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường: Sản xuất
cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? đều do các chủ thể kinh doanh trên thị trường quyết
định.
+ Kinh tế luôn luôn là vấn đề sống còn của mọi nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường,
việc thực hiện tối ưu kinh tế vĩ mô thường mâu thuẫn hoặc ít phù hợp với sự tối ưu kinh tế của từng
doanh nghiệp, cho nên Nhà nước phải thay mặt xã hội và đại diện cho giai cấp thống trị xử lý quan
hệ mâu thuẫn này khi nó xuất hiện.
- Khái niệm: Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế (quản lý nhà nước về kinh tế) được hiểu
là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của nhà nước lên nền kinh tế nhằm sử dụng có
hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các
mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và ngày càng mở rộng
các giao lưu kinh tế quốc tế.


Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý
khác của xã hội. Nội dung của quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm sự tác động của nhà nước lên
nền kinh tế quốc dân và các chủ thể KT-XH (các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp, hộ gia đinh, tổ
chức xã hội/đoàn thể, các hộ tiêu dùng cá nhân và tập thể…) thông qua những công cụ nhất định
(như các quy định pháp lý, các chính sách khuyến khích/hạn chế . . .) nhằm thực hiện các mục tiêu
phát triển KT-XH nhất định hoặc ngăn ngừa, hạn chế các tiêu cực có thể xảy ra.

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 1


b. Quản lý nhà nước về kinh tế xét trên quan điểm hệ thống:
Hệ thống là một tập hợp các phần tử, giữa chúng có mối liên hệ và tác động qua lại tạo nên
một chỉnh thể. Hệ thống kinh tế mang tính phức tạp do trong hệ thống luôn có các lợi ích, mục tiêu,
cách thức hoạt động riêng của các phần tử. Hệ thống kinh tế có xu hướng tìm đến mục tiêu và một
trạng thái cân bằng nào đó, nó tồn tại và chịu sự tác động của môi trường. Nếu biết tổ chức, phối
hợp, liên kết các bộ phận, các phần tử một cách tốt nhất và thiết lập được mối quan hệ hợp lý với
môi trường thì sẽ tạo ra sự phát triển cao cho cả hệ thống cũng như từng bộ phận cấu thành.
Nguồn lực của hệ thống bao gồm: Nguồn vốn, tài sản, nguyên vật liệu, tài nguyên thiên
nhiên, thiết bị máy móc và đặc biệt là nguồn nhân lực( nguồn lực hữu hình). Ngoài ra, nguồn lực vô
hình thể hiện ở uy tín của hệ thống, ở chất lượng nguồn nhân lực, tiềm năng của cán bộ lãnh đạo và
khả năng thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài.Nguồn lực bị giới hạn và khan hiếm.
Trên quan điểm hệ thống, Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tương tác giữa các yếu tố mục
tiêu, cơ chế và cơ cấu:
Quan hệ giữa mục tiêu, cơ chế,
cơ cấu trong việc điều khiển hệ
thống

MỤC TIÊU


CƠ CHẾ

CƠ CẤU

+ Mục tiêu là hướng vận động chung của hệ thống.
+ Cơ cấu là quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận trong hệ thống, thể hiện nguồn lực phát triển của
hệ thống.
+ Cơ chế là sự tác động lẫn nhau thường xuyên giữa các bộ phận, thúc đẩy hệ thống vận hành
hướng đến mục tiêu nếu cơ chế đó là phù hợp với quy luật phát triển của hệ thống.

* Đặc điểm quản lý nhà nước về kinh tế
+ Bản chất của quản lý nhà nước về kinh tế là do thể chế chính trị quyết định.
+ Quản lý nhà nước về kinh tế là một khoa học và một nghệ thuật.
+ Đối với Việt Nam, việc quản lý nhà nước về kinh tế có hai yêu cầu:


Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế và quản lý kinh tế.

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 2




Hai là, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò của mình đói với nền kinh tế nói riêng, với toàn
bộ các hoạt động kinh tế - xã hội nói chung.

II. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước về kinh tế

1. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường:
a. Kinh tế thị trường nói chung gồm những yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, các chủ thể trong nền kinh tế hoàn toàn độc lập, tự chủ trong việc quyết định việc
sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Họ tự chịu trách nhiệm đối với quyết định
của bản thân dựa trên những tín hiệu thị trường.
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường gồm các thị trường đất đai, thị trường sức lao động,
thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường khoa học - công nghệ, thị trường hàng hóa và dịch vụ
tiêu dùng và phải vận động binh thường.
Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua sự vận hành của nền kinh tế thị trường.Tín
hiện giá cả là căn cứ khách quan đối với các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất - kinh
doanh (SX-KD) trong môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Thứ tư, cơ chế cạnh tranh thị trường là cơ chế tự điều chỉnh, nó còn được gọi là “bàn tayvô
hình”.Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút khỏi những ngành và nơi kém hiệu quả, di
chuyển đến những nơi có thể thu được lợi nhuận cao hơn.
Thứ năm, sự vận hành của nền kinh tế thị trường dựa trên các quy luật kinh tế: Đó là các quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ,... Theo quy luật giá trị,
việc sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Giá cả
hàng hóa luôn xoay quanh giá trị và biến động theo quan hệ cung cầu. Thông qua sự biến động của
giá cả, người sản xuất biết được giá trị cá biệt hàng hoá của mình là cao hay thấp hơn giá thị trường,
từ đó mà tính được lỗ/lãi. Vì vậy, quy luật giá trị điều tiết hoạt động sản xuất và phân bổ các nguồn
lực, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Quy luật cung - cầu là quy luật kinh tế liên quan đến việc xác
định giá cả thị trường. Sự tác động qua lại giữa cung - cầu diễn ra tự phát, nhưng cuối cùng sẽ gặp
nhau tại điểm cân bằng và giá thị trường được xác định tại đây. Cạnh tranh phụ thuộc vào số người
bán và người mua, vào tương quan giữa hai bên bán và mua. Cạnh tranh chủ yếu mang tính tích cực,
nó thúc đẩy cải tiến sản xuất, áp dụng KH-CN và hạ giá thành sản xuất.
Tuy có nhiều ưu điểm, cơ chế thị trường có một số nhược điểm:
- Ở phạm vi doanh nghiệp, việc điều hành là tối ưu, có kế hoạch; nhưng giữa các doanh nghiệp
không có mối liên hệ trực tiếp nên sự phát triển thiếu tính tổ chức.
- Kinh tế thị trường dễ xảy ra cạnh tranh không lành mạnh: Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà
độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền,

thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.
- Kinh tế thị trường dễ nảy sinh tiêu cực xã hội vì chạy theo lợi nhuận tối đa. Vì vậy họ có thể lạm
dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã
hội không được bảo đảm.

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 3


- Kinh tế thị trường khi mở rộng quan hệ với nước ngoài sẽ nảy sinh nhiều vấn đề về chủ quyền, an
ninh quốc gia nên buộc phải có vai trò nhà nước kiểm soát của .
- Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những
nhu cầu cơ bản của xã hội.
- Kinh tế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó
không giải quyết được cái gọi là “ hàng hoá công cộng” ( đường xá, cầu cống các công trình văn
hoá, y tế, giáo dục…)
- Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã
hội.
- Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ tiến bộ mà còn cả suy thoái,
khủng hoảng, thất nghiệp và xung đột xã hội nên cần phải có sự can thiệp của Nhà nước.
Để tránh khỏi thất bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết vĩ mô sự vận hành nền
kinh tế. Nhà nước tham gia vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của
cơ chế vận hành kinh tế . Kinh tế thị trường cần có vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước

b. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường:
+ Đảm bảo mục đích phát triển kinh tế đất nước theo định hướng chung từng thời kỳ nhằm mục tiêu
dân giâu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Phát huy các mặt tích cực của kinh tế thị trường, tạo môi trường bình đẳng và hỗ trợ doanh nghiệp
trước những thách thức của hội nhập quốc tế, giải quyết tốt quan hệ đối ngoại, tạo thuận lợi cho hoạt

động kinh tế diễn ra được an toàn và lành mạnh.
+ Hạn chế tới mức thấp nhất các nhược điểm có thể của nền kinh tế thị trường.
2. Tính tất yếu khách quan của quản lý nhà nước về kinh tế
a. Về mặt lý luận:
+ Kinh tế biến đổi bất thường do các sự cố, có những lĩnh vực ít được tư nhân đầu tư gây
thiếu hụt và không đáp ứng đủ nhu cầu sản phẩm/dịch vụ, bởi vậy nhà nước cần có chính sách để
điều tiết các hoạt động sản xuất-kinh doanh (SX-KD).
+ Phát huy ưu điểm của cơ chế thị trường (mở rộng và thúc đẩy cạnh tranh; duy trì cơ chế
định giá thị trường dựa trên quy luật cung cầu..); Khắc phục thất bại của thị trường do chạy theo lợi
nhuận nên đầu tư thiên lệch, nạn thất nghiệp, ô nhiễm và suy thoai môi trường, phân hóa giầu nghèo
ngày càng mạnh.
+ Khả năng nắm bắt và xử lý thông tin bất bình đẳng đối với các chủ thể kinh doanh, hoặc
với người tiêu dùng nên nhà nước cần tham gia điều chỉnh để đảm bảo sự bình đẳng thông tin và
bảo vệ lợi ích chinh đáng của mọi người/mọi tổ chức.

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 4


+ Nền kinh tế quốc gia phải thích ứng với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập: Hàng rào thương
mại được dỡ bỏ; sân chơi và luật chơi chung; cạnh tranh và hợp tác giữa nhiều bên nên cần có vai
trò hỗ trợ của nhà nước. Không thể có sự phát triển KT -XH nếu không có Nhà nước hoạt động có
hiệu quả với các hành lang pháp lý rõ ràng, đầy đủ, minh bạch và các chính sách hỗ trợ tốt đối với
những ngành non trẻ, tạo nên các yếu tố môi trường ổn định và thuận lợi cho sự phát triển.
b. Về mặt thực tiễn: vì nhiều lý do phát sinh hàng ngày. Tuy hoạt động kinh tế do bản thân người
dân phải tự quản lý, nhưng Nhà nước không thể đứng ngoài, để cho các doanh nhân/cá nhân tuỳ tiện
SX-KD theo cách riêng. Cơ quan Nhà nước ý thức được và xác định đúng đối tượng phạm vi điều
chỉnh/ can thiệp của mình vào hoạt động của các doanh nghiệp ở mức độ hợp lý là điều rất quan
trọng. Nhà nước ta cũng phải quan tâm đến việc quản lý nền kinh tế là vì các lý do sau đây:

- Trong quá trình hoạt động SX-KD các doanh nhân và doanh nghiệp có thể có những hành vi gây
thiệt hại cho người khác hoặc cho xã hội, khi ấy chỉ có Nhà nước mới có thể ngăn chặn và điều
chỉnh hành vi của họ. Bản chất của hoạt động kinh doanh là kiếm lời. Vấn đề là ở chỗ, họ mưu lợi
cho bản thân bằng cách nào? Bên cạnh các biện pháp tích cực, như cải tiến thiết bị và công nghệ,
tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm,không ít trường hợp vì tối đa hóa lợi nhuận mà làm
điều hại nhân. Đó là cái đáng chống và cũng chính là lý do cần đến sự can thiệp của Nhà nước vào
đời sống kinh tế.
- Có doanh nhân bất chấp những quy định pháp lý mà tuỳ tiện SX-KD những hàng hoá/dịch vụ có
hại cho người tiêu dùng, dễ nhận thấy hoặc khó nhận ra. Ví dụ, thực phẩm chứa chất độc hại, sản
phẩm kém chất lượng, hàng nhái/ hàng giả, cung ứng những dịch vụ phản văn hoá,những máy móc
thiết bị kém an toàn, khiến cho người sử dụng nó có thể bị sự cố hoặc thiệt hại,..v..v..
- Mọi tổ chức và cá nhân đều có liên quan đến môi trường sinh thái thông qua việc thải loại phế liệu
và chất thải sinh hoạt. Trên thực tế có nhiều tổ chức/cá nhân trốn tránh nghĩa vụ, không chịu áp
dụng các biện pháp chống ô nhiễm môi trường. Địa điểm xây dựng doanh nghiệp có ảnh hưởng xấu
đến môi trường, như tiếng ồn, chất thải độc, khói bụi,..v..v.. thế nhưng lại muốn ở gần các trung tâm
kinh tế. Tình trạng lấn chiếm trái phép vị trí thường xảy ra.Với quyền uy của mình, Nhà nước mới
có thể ngăn chặn, trừng trị và răn đe đối với bất kỳ tổ chức/cá nhân nào có hành vi chống lại lợi ích
chung.
- Về xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều cần có cơ sở vật
chất kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh của mình. Đương nhiên, doanh nhân phải tự đầu tư để tạo ra
cơ sở đó. Tuy nhiên, có những bộ phận cơ sở vật chất kỹ thuật không thể do từng doanh nhân xây
dựng riêng lẻ được. Ví dụ, các trung tâm mua bán (gọi đơn giản là các chợ), hệ thống giao thông, hệ
thống thoát nước thải tại các cụm công nghiệp,..v..v. Đó là những việc chỉ có thể do .Nhà nước làm
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới hình thức cho tư nhân thầu, Nhà nước đóng vai trò gạch nối
cung-cầu.
- Các doanh nhân không tự giải quyết nổi nhiều vấn đề của quá triình SX-KD, phải nhờ Nhà nước
họ mới có khả năng ra quyết định đúng. Như về phương hướng đầu tư - sản xuất cụ thể thì mỗi
doanh nhân phải có nhiều thông tin, đôi khi là những thông tin cơ mật hoặc ở tầm quốc tế. Các nhân
doanh nhân không thể có được các thông tin đó, cũng không đủ tầm tư duy để dự đoán. Về tìm đối
tác đáng tin cậy và có hiệu quả thuộc các ngành công nghệ cao, có liên quan đến nước ngoài...

doanh nhân bị hạn chế về thông tin và kinh nghiệm. Một số doanh nhân có thể xử sự không công

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 5


bằng, thiếu nhân đạo trong việc phân chia kết quả sản xuất kinh doanh, đây là kết quả chung của
một tập thể, bao gồm tập thể chủ sở hữu về vốn và nhiều người thợ. Việc chia kết quả lao động
không dễ làm được một cách công bằng, văn minh, do sự hạn chế của tính cách con người.
Đó chỉ là một số điều khó xử lý của doanh nhân khiến phải có nhà nước can thiệp
III.LIÊN HỆ THỰC TẾ.
(Nền kinh tế trị trường VN trên thực tế đã phát huy được những ưu điểm
Nói thuyết trình: Trong năm vừa rồi, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt tới 6,7%, còn lạm phát
đạt chưa tới 1%, thấp nhất trong vòng 12 năm trở lại đây. Và đây chỉ là 2 trong số rất nhiều dấu ấn
của nền kinh tế Việt Nam trong 1 năm đầy biến động
Chiếu video 1)
1. Thành tựu đạt được

Theo công bố mới nhất của Tổng cục Thống kê, GDP cả nước năm 2015 ước tính tăng 6,68% so với
năm 2014, GDP bình quân đầu người năm 2015 ước tính đạt 45,7 triệu đồng, tương đương 2109
USD, tăng 57 USD so với năm 2014.
Vượt lên nhiều khó khăn thách thức, kinh tế Việt Nam năm 2015 được các tổ chức quốc tế đánh giá
là “một trong những điểm sáng hiếm hoi của kinh tế châu Á".
Năm 2015, lạm phát chưa tới 1% là mức thấp nhất trong 12 năm gần đây. Đây là kết quả của chính
sách ổn định kinh tế vĩ mô cùng với việc giảm giá nhiên liệu.
Tổng vốn FDI đăng ký ước đạt 22,76 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4% so
với năm trước và tăng gấp đôi so với năm 2009. Điều này cho thấy xu hướng phục hồi mạnh mẽ của
dòng vốn FDI, thể hiện lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam.
Năm 2015 là thời điểm đánh dấu sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam với trong khu vực và trên thế

giới. Sau 8 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã đàm phán và ký kết
nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước và khu vực, như FTA với Hàn Quốc, EU, Liên
minh Kinh tế Á - Âu, tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và kết thúc đàm phán Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương.
Cùng với đó, việc đổi mới mạnh mẽ thể chế kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
và cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông cũng là những điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam trong
năm 2015.
Đáng chú ý, năm 2015 còn ghi nhận sự phục hồi và phát triển của thị trường bất động sản Việt Nam
qua những con số về sự tăng giá liên tục của nhiều dự án cũng như việc giải quyết hàng tồn kho và
thanh khoản tăng cao.
Bên cạnh đó, tin tức từ Bloomberg cho biết Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP 6,27% trong năm
nay, cao thứ 6 trong số các nền kinh tế mới nổi trên thế giới.

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 6


Việt Nam cũng là một trong số 6 nền kinh tế mới nổi tăng trưởng trên 6% trong năm nay, bên cạnh
Ấn Độ (7,3%), Tanzania (7,2%), Trung Quốc (6,95%), Uganda (6,85%), và Dominica (6,35%).
Hơn thế nữa, năm 2015 là năm thứ hai liên tiếp xếp hạng về năng lực cạnh tranh và điều kiện kinh
doanh của Việt Nam được cải thiện. Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã tăng từ 75 (năm
2013) lên 70 (năm 2014) và 68 (năm 2015); xếp hạng điều kiện kinh doanh tăng từ 99 (năm 2013)
lên 93 (năm 2014) và 90 (năm 2015).
Nhìn lại kinh tế Việt Nam năm 2015, nhiều chuyên gia nhận định rằng kinh tế vĩ mô Việt Nam tăng
trưởng ổn định, lạm phát thấp, cơ cấu nền kinh tế tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực.

Ngoài ra, những lĩnh vực khác cũng cho thấy kết quả tích cực, như: trong lĩnh vực tài khóa, thu và
chi ngân sách đều hoàn thành kế hoạch, vượt mức dự toán; lĩnh vực tiền tệ đã ổn định được thị
trường tiền tệ, thị trường vàng, lãi suất và tỷ giá; cán cân thương mại được cải thiện với kim ngạch

xuất khẩu tăng trưởng hơn năm trước trong bối cảnh giá dầu giảm mạnh, đồng thời an sinh xã hội
được duy trì ổn định.

Nguyên nhân đạt được thành tựu.
Để đạt được những thành tựu nêu trên, có nhiều nguyên nhân, nhưng có thể kể đến 4 nguyên nhân
chính:
Thứ nhất, sự quyết tâm và quyết liệt của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện các
chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội dưới sự chỉ đạo của Chính phủ.
Thứ hai, phải kể đến vai trò giám sát của Quốc hội đã được đề cao và tăng cường.
Thứ ba, là vấn đề lập pháp. Năm 2015, có rất nhiều luật mới được Quốc hội thông qua và triển
khai thực hiện, trong đó có một số luật được điều chỉnh và ban hành theo xu hướng hội nhập quốc tế
của Việt Nam và được cả trong nước và dư luận quốc tế đánh giá cao như Luật Doanh nghiệp (sửa
đổi), Luật Đầu tư (sửa đổi)… cùng với việc triển khai nhiều nội dung của Hiến pháp mới đã tạo
động lực cho kinh tế - xã hội thuận lợi hơn các năm trước.
Thứ tư, sự nỗ lực và chủ động hơn của doanh nghiệp (DN). Năm 2015, bên cạnh việc rút kinh
nghiệm từ các bài học kinh nghiệm và giải pháp khắc phục, DN của Việt Nam đã phát huy tính chủ
động, sáng tạo và tích cực chuẩn bị cho thời kỳ tiếp theo.
2. Khó khăn và hạn chế

Thứ nhất, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa phát huy đầy đủ mặt
tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường.
Thứ hai, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 7


Thứ ba,, quản lý các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, thương mại, phân phối thu
nhập, xây dựng cơ bản, đất đai, vốn, tài sản nhà nước chưa tốt và chậm đổi mới.

Thứ tư, tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, quan hệ phân công và hiệp tác chưa rõ ràng, còn
nhiều vướng mắc, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phân tán cục bộ còn nghiêm trọng; cán
bộ và công chức nhà nước còn nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực và phẩm chất, chưa tương
xứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ năm, cải cách hành chính tiến hành chậm, hiệu quả thấp.
THƯC TẾ: Tuy đạt được những thành quả nhất định, song kinh tế Việt Nam năm 2015 vẫn bộc lộ
nhiều khó khăn và hạn chế.Trước tiên là tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ hầu như không
thay đổi và chậm lại, trong nông nghiệp (giảm từ 2,94% của năm 2014 xuống còn 2,08% năm
2015).
Dấu hiệu chững lại của lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ không chỉ cho thấy khó khăn của lĩnh vực
này, mà còn cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam rất khó khăn, vẫn phải tiếp
tục dựa vào công nghiệp. Bên cạnh đó, một số vấn đề về tài khóa như nợ công, bội chi ngân sách và
nghĩa vụ trả nợ so với thu ngân sách đều tăng. Mặc dù được coi là vẫn trong giới hạn an toàn nhưng
tốc độ tăng nợ công nhanh và đã đến ngưỡng an toàn theo tính toán của các tổ chức quốc tế. Mục
tiêu đưa nợ xấu xuống dưới 3% theo Nghị quyết của Quốc hội đã hoàn thành, tuy nhiên còn một số
khoản vẫn cần xử lý tiếp.
Cùng với đó, trong lĩnh vực DN, nhất là các DN vừa và nhỏ vẫn còn gặp nhiều khó khăn (trong năm
2015, phần lớn DN phải dừng hoạt động hoặc giải thể, phá sản là DN quy mô nhỏ, có số vốn đăng
ký dưới 10 tỷ đồng), trong khi quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn còn
chậm.

VÍ DỤ: Về quản lí vệ sinh an toàn thực phẩm: việc quản lý lĩnh vực an toàn thực phẩm đang rất
chồng chéo, rối rắm, không rõ ràng, trình độ thì lại còn hạn chế. Chẳng hạn, ngành Công thương
giống như là đi trong đêm tối khi được giao quản lý một mảng của an toàn vệ sinh thực phẩm, dẫn
tới hệ lụy là hoạt động yếu kém nhất trong việc quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm giữa các ngành.
Lãng phí ngân sách
3.

Giải pháp.
( Năm 2016 sẽ là năm hội nhập quốc tế tích cực với những hiệp định đã ký và chuẩn bị ký

kết. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động lớn hơn từ bối cảnh kinh tế thế
giới. Sự biến động của kinh tế Trung Quốc, những thay đổi chính sách kinh tế của Mỹ, biến
động của giá dầu, đó là những bất ổn về chính trị - xã hội ở một số nước và khu vực cũng có
khả năng tác động tới kinh tế của nước ta. )

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 8


Như vậy, năm 2016, cần tập trung vào một số giải pháp mang tính định hướng sau:
Thứ nhất, năm 2016 sẽ là năm triển khai các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XII, một trong
những vấn đề trọng tâm sẽ là tạo môi trường phát triển thuận lợi và phát triển được nguồn lực một
cách hợp lý, hiệu quả là hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho kế hoạch 5 năm tiếp theo.
Thứ hai , cần cụ thể hóa những quy định đã có trong Hiến pháp và trong các luật mới ban hành, đặc
biệt là ưu tiên những quy định tác động tích cực tới sự phát triển của DN càng sớm càng tốt.
Thứ ba, phải duy trì được ổn định kinh tế vĩ mô, đây chính là tiền đề cho tăng trưởng và bảo đảm an
sinh xã hội nói chung và là môi trường bảo đảm thực thi có hiệu quả các chính sách kinh tế - xã hội.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó nòng cốt vẫn là ba lĩnh vực trọng tâm là
đầu tư, tài chính và DN. Để tái cơ cấu nền kinh tế tốt hơn, cần nghiên cứu và xây dựng những mục
tiêu cụ thể với lộ trình rõ ràng hơn trong từng lĩnh vực gắn với tái cơ cấu ngành và tăng cường giám
sát việc thực hiện mục tiêu và lộ trình này.
Thứ năm ,đối với lĩnh vực tài khóa, cần tận dụng cơ hội hiện tại để cơ cấu lại các nguồn thu và
khoản chi, bảo đảm chi tiêu ngân sách tiết kiệm và hiệu quả hơn, đồng thời tăng cường công tác
quản lý thu thuế. Về vấn đề nợ công, bên cạnh giảm dần tốc độ tăng nợ công, cần phải giảm dần
mức bội chi ngân sách, đồng thời xử lý tốt các khoản nợ còn tồn đọng.
Thứ sáu, đối với lĩnh vực tiền tệ, cần tiếp tục điều hành một cách linh hoạt hơn, đồng thời với việc
xử lý nợ xấu và quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng. Bên cạnh việc xử lý nợ xấu cũ, cần chú ý
hạn chế phát sinh thêm nhiều khoản nợ xấu mới. Trong tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, cần chú
trọng nâng cao chất lượng quản trị nội bộ.

Thứ bảy, đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa DNNN và quan tâm nhiều hơn nữa đến sự phát
triển của các DN, nhất là DN vừa và nhỏ và DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thứ tám, phải thực hiện mạnh mẽ hơn các biện pháp cải cách hành chính. Cần nghiên cứu tăng
cường hơn vai trò giám sát, cơ quan giám sát, những thiết chế độc lập để thực hiện giám sát với việc
tách biệt giữa chức năng quản lý và giám sát và giữa chức năng hoạch định chính sách với chức
năng quản lý, thực thi chính sách.
Thứ chín, quan tâm và bảo đảm các chính sách an sinh xã hội, nhất là các chính sách liên quan đến
người lao động và nông dân. Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển ở mức cao hơn, phải luôn quan
tâm tới những vấn đề an sinh xã hội (đặc biệt là ở nông thôn) với chất lượng tốt hơn là xu hướng
phát triển chung của các nước trên thế giới.

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 9


KẾT LUẬN:
Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định, nhằm
tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc
phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị
trường ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị trường,
đồng thời kính thích đối với sản xuât thông qua trao đổi hàng hoá dưới hình thức thương mại.

Nhóm 4_ QLNN_18_10 chủ đề 1

Page 10




×