Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Bài 6 tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.54 KB, 39 trang )

BÀI 6:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
I. Đặt vấn đề
Đại đoàn kết dân tộc là một trong những truyền thống quý báu, một sức
mạnh vĩ đại đã được thử thách trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn
năm của dân tộc Việt Nam, nhất là trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ Tổ quốc. Từ khi có Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kế
thừa và không ngừng phát huy sức mạnh đó, mở rộng nội dung và nâng nó lên
một tầm cao mới, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng
mới.
Đại đoàn kết dân tộc đã trở thành một những nhân tố quan trọng nhất bảo
đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành
linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng rộng rãi và bền vững. Người đã
tập hợp, quy tụ được các dân tộc, các giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo,
nhân sỹ trí thức, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài, xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đại đoàn kết dân tộc đã trở thành nội dung xuyên suốt trong tư tưởng cũng
như hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc là một trong những cống hiến đặc sắc của Người cho cách mạng Việt
Nam. Đây cũng là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng
đối với cách mạng nước ta trong tình hình hiện nay.
II. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích
Bài học này giúp cho học viên:
`- Về kiến thức
1


+ Hiểu chính xác, đầy đủ những những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.


+ Thấy được sự cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh về lý luận và thực tiễn
trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt quá trình cách mạng
Việt Nam để từ đó biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết vào
công cuộc xây dựng khối đại doàn kết toàn dân trong giai đoạn hiện nay.
- Về tư tưởng, thái độ
+ Giúp học viên xây dựng niềm tin vững chắc vào quan điểm, đường lối
của Đảng ta về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tích cực đấu tranh
chống lại các quan điểm sai trái, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Giúp học viên thấy được những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam, từ đó xây dựng tình cảm, niềm tin và sự kính
trọng đối với vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của cách mạng và dân tộc Việt Nam.
- Về kĩ năng
+ Thu thập, xử lý các tài liệu có liên quan để nghiên cứu vấn đề.
+ Vận dụng kiến thức của bài học để nghiên cứu những vấn đề có liên
quan ở bài học khác, môn học khác và trong cuộc sống.
2. Yêu cầu
- Học viên học tập với tình cảm và trách nhiệm cao nhất, ý thức học tập
phải nghiêm túc, chấp hành tốt kỷ luật.
- Đọc trước giáo trình, tài liệu; nghe, ghi chép và tích cực thảo luận nội
dung của bài học…
III. Nội dung và thời gian
1. Nội dung: gồm 3 phần (Trong tâm phần II, trọng điểm 2.3)
- I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
- II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
- III. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
2


2. Thời gian:
- Thời gian lên lớp:

- Thời gian thảo luận, ôn luyện:
IV. Phương pháp
- Giáo viên: Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề...
- Học viên: Đọc tài liệu, nghe, ghi chép, thảo luận...
V. Giáo trình, tài liệu
- Giáo trình:
+ HĐTW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb CTQG, H, 2003 (Tái bản 2008).
- Tài liệu tham khảo :
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng trong
các trường đại học và cao đẳng), Nxb CTQG, H, 2006 (Tái bản 2008, 2010,
2011).
+ Tổng cục Chính Trị, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb QĐND, H, 2006.
+ Song Thành (Chủ biên), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb CTQG, H, 2010
+ Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 1 – 15.

3


I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
* Khái niệm về đại đoàn kết
 Từ điển Tiếng Việt: Từ điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Giáo dục, năm
1994, đưa ra khái niệm: Đoàn kết là “kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt
động vì một mục đích chung”, đại đoàn kết là “đoàn kết rộng rãi”.
 Hồ Chí Minh: Trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập chỉ có duy nhất một lần
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa về đại đoàn kết, thể hiện trong Bài Nói chuyện
tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, (10.1.1955). Theo đó, “Đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền
gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có

nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà
thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ, thì dù những người đó
trước đây chống ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” (T7, tr.438).
Trong tác phẩm Bệnh tự kiêu, tự ái, (1948), Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ:
“Không đoàn kết tức là cô độc. Đã cô độc thì chẳng việc gì thành công” (T5,
tr.515)
Thống kê lại vấn đề Đoàn kết, Đại đoàn kết trong các tác phẩm của Hồ
Chí Minh thấy rằng, đây là vấn đề được Hồ Chí Minh đề cập nhiều: trong bộ Hồ
Chí Minh toàn tập cụm từ đoàn kết xuất hiện trong 1654 trang (tư liệu), cụm từ
đại đoàn kết xuất hiện trong 53 trang, trải đều từ bài Mấy ý nghĩa về vấn đề thuộc địa
(1922) đến Di chúc (1969).
Trong một số bài, cụm từ Đoàn kết, Đại đoàn kết được Hồ Chí Minh lặp đi lặp
lại với một tần số rất cao. Ví dụ:
- 16 lần trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947)
- 17 lần trong Bài nói chuyện tại lễ khai mạc Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên
Việt (1951)
4


- 19 lần trong Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh (1957)
Như vậy có thể nói: Đại đoàn kết là một nội dung nổi bật, xuyên suốt
trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh.
 Tóm lại: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một hệ thống quan
điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tổ chức, tập hợp lực lượng cách mạng một cách
rộng rãi và chắc chắn, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, của quốc
tế, đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong
Đảng và đoàn kết quốc tế.
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên cơ sở

những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề đoàn kết, tập hợp
lực lượng cách mạng; từ truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc; từ kinh
nghiêm của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về đoàn kết, tập hợp lực
lượng cách mạng
- Chủ nghĩa Mác – Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng;
nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Nhưng quần chúng nhân dân chỉ phát huy
được sức mạnh to lớn đó khi học được giáo dục, giác ngộ đầy đủ, được tổ chức
chặt chẽ thành một khối thống nhất và đặt dưới sự lãnh đạo của một Đảng cách
mạng chân chính – Đảng của giai cấp công nhân.
Theo Lênin, nếu không có sự giáo dục, tổ chức, tập hợp, đoàn kết lại thì
quần chúng nhân dân cũng chỉ như những “củ khoai tây” đựng vào bao thì tụ lại
còn đổ ra thì mỗi củ lăn một nơi.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ ra rằng, vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau; cách mạng vô sản muốn giành
được thắng lợi phải đoàn kết những người vô sản ở chính quốc với những người
5


vô sản và nhân dân lao động ở các thuộc địa, liên minh công nông là cơ sở to lớn
của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế, giai cấp vô sản
là lực lượng lãnh đạo cách mạng và phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc.
Lênin cho rằng: Tranh thủ bạn đồng minh, lôi kéo họ về phía mình là một
vấn đề chiến lược. Nếu không làm được điều đó là một điều dại dột, thậm chí là
tội ác nữa.
- Mác, Ăngghen và Lênin đề cập đến vấn đề đoàn kết quốc tế đều trên cơ
sở tôn trọng nền độc lập của mối quốc gia để tạo điều kiện cho liên minh và
đoàn kết quốc tế tự nguyện. Đồng thời các ông cũng nêu lên những luận điểm có
ý nghĩa chiến lược, nhằm đoàn kết, tập hợp lực lượng vô sản toàn thế giới vào
cuộc đấu tranh chung là giải phóng nhân loại.

Mác nêu khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”.
Lênin làm cách mạng vô sản thành công ở nước Nga, lực lượng công nông đã trở thành cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết quốc tế. Khẩu hiệu của Mác được Lênin
mở rộng “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết
định sự hình thành và bản chất cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Người từng
bước tiếp cận các trào lưu tiến bộ của thời đại, đánh giá chính xác các yếu tố tích
cực cúng như những hạn chế trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu
nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành
tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
 Truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc
- Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là lịch sử đấu tranh không mệt
mỏi chống hạn hán, lũ lụt và chống chiến tranh xâm lược của các thế lực bên ngoài.
Từ trong cuộc đấu tranh trường kỳ ấy, đã sớm nảy sinh ý thúc cố kết cộng đồng, ý
6


thức tập thể và cao hơn nữa là ý thức dân tộc. Ý thức này ngày càng thấm sâu vào tư
tưởng tình cảm, tâm hồn của mỗi người Việt Nam và được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác và trở thành một truyền thống bền vững của dân tộc.
- Truyền thống yêu nước - đoàn kết - nhân nghĩa đã trở thành một tình cảm tự
nhiên, in đậm trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng gắn bó
chặt chẽ: gia đình – làng xã – quốc gia (nhà – làng – nước) và trở thành sợi dây liên
kết các dân tộc, giai cấp, tầng lớp trong cộng đồng người Việt; đã tạo thành sức
mạnh vô địch để dân tộc ta có thể chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, cũng như đấu
tranh bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
- Điều nay đã được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam,
trong mỗi con người Việt Nam, yêu nước – đoàn kết – nhân nghĩa đã trở thành:
+ Một tình cảm rất tự nhiên và thân thuộc:

• Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau
cùng.
• Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
• Anh em như thể tay chân/ Rách lành đùm bọc, dở hay vui vầy.
+ Một triết lý nhân sinh:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
+ Một phép ứng xử:
• Lá lành đùm lá rách.
• Một miếng khi đói bằng một gói khi no.
• Tình làng, nghĩa nước.
• Nước mất thì nhà tan.
• Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh.
 Yêu nước – đoàn kết – nhân nghĩa trở thành sợi dây liên kết các dân tộc
giai cấp đấu tranh vì mục tiêu chung của đất nước.
7


- Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn học dân
gian mà còn được các anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau nâng lên
thành phép đánh giặc, giữ nước như:
+ Trần Hưng Đạo ở thế kỷ XIII từng khuyên vua Trần Anh Tông: “khoan
thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó mới là thượng sách giữ nước” 1. Thực hiện
chiến lược “toàn dân là lính”, “cả nước đánh giặc”, Vua tôi nhà Trần đã 3 lần
đánh thắng quân Nguyên – Mông. Tổng kết nguyên nhân của cuộc chiến thắng,
Trần Hưng Đạo khẳng định: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp
sức”2 nên đã thắng giặc
+ Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV cũng chỉ ra cội nguồn của sức mạnh giữ nước
chính là lòng dân, “chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân” . Trong
Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng chỉ ra chiến lược giữ đánh giặc giữ nước:

“Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngon cờ phất phới.
Tướng sỹ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” …
- Truyền thống ấy được tiếp tục tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng
dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm
lược và các thế lực phong kiến tay sai ở đầu thế kỷ XX, mà tiêu biểu nhất là cụ
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh.
- Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức và tiếp thu được những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt là truyền thống yêu nước – đoàn kết – nhân
nghĩa. Người đánh giá cao sức mạnh to lớn của tinh thần đoàn kết và lòng yêu
nước của dân tộc Việt Nam Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần yêu nước ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
1
2

Hỏi đáp Lịch sử Việt Nam, Nxb Trẻ, TP HCM, 2008, tập 2, tr.236
Hỏi đáp Lịch sử Việt Nam, Nxb Trẻ, TP HCM, 2008, tập 2, tr.236

8


sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (T6, tr.171).
Từ đó Người nhắc nhở: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức,
lãnh đạo làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành
vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” (T2, tr.172).
 Tư tưởng và bài học kinh nghiệm về đại đoàn kết trên thế giới và Việt
Nam

- Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị, hạt nhân hợp lý trong văn hoá
phương Đông, phương Tây và tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà cách
mạng lớn ở khu vực để hình thành nên tư tưởng đại đoàn kết dân tộc.
+ Ở Nho giáo, với những tư tưởng đại đồng, nhân ái, luân lý yêu thương
được Hồ Chí Minh tiếp thu, cải biến.
+ Ở đạo Phật, tinh thần “Lục hoà” - sáu phương pháp cư xử nhằm tạo ra
sự hoà hợp để đạt tới mục đích cao đẹp: Thân hòa đồng trụ, ngôn hòa đồng
hiệp, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tụ, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân.
Quan điểm “Cầu đồng tồn dị”: tìm điểm tương đồng để cùng tồn tại trong
sự khác biệt. Quan điểm này của Phật giáo cũng được Hồ Chí Minh tiếp thu và
đề cao. Nêu cao chữ “Đồng” khiến cho người ta có thể loại bỏ thành kiến, cổ vũ
tinh thần đoàn kết dân tộc.
“Khuyên ai xin nhớ chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.” (T3, tr.206)
+ Ở Thiên chúa giáo, tư tưởng “bác ái”, giáo huấn con người phải đối xử
thương yêu, nhân ái với nhau. Tình yêu thương là cơ sở để con người gần gũi
với nhau hơn, tạo thành một khối đoàn kết vững chắc.
+ Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu nhưng tư tưởng của phương Tây như tư
tưởng “Tự do - bình đẳng - bác ái”.

9


- Kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam cũng như các nước
trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đã giúp
Hồ Chí Minh xây dựng chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
+ Người thấy rằng mặc dù các phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra
mạnh mẽ, sôi nổi nhưng đều thất bại vì chưa có phương thức đoàn kết, tập hợp
lực lượng và chưa có tổ chức lãnh đạo. Đòi hỏi khách quan của lịch sử, cần phải
có nhân thức mới về đoàn kết, tập hợp lực lượng, phù hợp với yêu cầu của thời

đại mới.
Ví dụ:
• Phong trào Cần Vương (1885 - 1895), do đại thần nhà Nguyễn là Tôn
Thất Thuyết nhân danh Vua Hàm Nghi phát động chống Pháp xâm lược đã thất
bại do: tính chất cục bộ, địa phương, không liên kết phối hợp hoạt động với các
địa phương khác, phong trào khác; không đoàn kết tôn giáo (đàn áp, giết hại
những người Công giáo); không đoàn kết dân tộc, sắc tộc.
• Phan Bội Châu cũng đã chủ trương đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế để
chống thực dân Pháp xâm lược. Trong tác phẩm Hải ngoại huyết thư (1906), ông
đã xác định tập hợp 10 hạng Người để chống Pháp: Phú hào, Quý tộc, Nhi nữ,
Anh sỹ, Du đồ, Hội đảng, Thông ngôn, Ký lục, Bồi bếp, tín đồ Thiên chúa giáo
nhưng thiếu Công nhân, Nông dân. Trong đoàn kết quốc tế ông chủ trương đoàn
kết theo quan điểm “Đồng châu, đồng chủng, đồng văn”, vì thế ông xác định
Nhật là bạn và phát động phong trào Đông Du.
+ Trong quá trình đi tìm đường cứu nước của mình, Hồ Chí Minh cũng
tiến hành khảo sát phong trào cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các
nước thuộc địa ở hầu khắp các châu lục.
• Người nghiên cứu cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ. Người cho rằng, hai
cuộc cách mạng này thắng lợi vì giai cấp tư sản đã biết tập hợp nhân dân, nêu ra

10


khẩu hiệu: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” để lôi kéo quần chúng lao động đi về
phía mình chống phong kiến.
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người phân tích: “Dân Pháp tuy
lương thực ít, súng ống thiếu nhưng chỉ nhờ gan cách mệnh mà trong dẹp nội
loạn, ngoài phá cường quyền”(T2, tr.272), dân Mỹ quá khổ cực nên “sống chết
cũng đuổi được chính phủ Anh mới thôi” (T2, tr.270).
Tuy nhiên, đây là những cuộc cách mạng tư sản không đến nơi bởi vì sau

khi thành công giai cấp tư sản đã quay lưng lại đàn áp nhân dân, nên cách mạng
thành công rồi mà quần chúng vẫn bị bóc lột, nô dịch; những phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc cũng đều thất bại nguyên nhân là chưa có phương pháp
tập hợp mọi lực lượng, chưa biết đoàn kết.
• Hồ Chí Minh còn nghiên cứu cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc. Người nhận thấy sức mạnh tiềm ẩn to lớn của họ, đồng thời cũng thấy
được những hạn chế của các phong trào đấu tranh ở đây. Người cho rằng, phong
trào cách mạng ở các nước thuộc địa do chưa có lý luận tiên tiến soi đường,
chưa có chính đảng tiền phong của giai cấp vô sản đúng ra tổ chức tập hợp lực
lượng. Mặt khác ở đó chưa có sự liên kết với nhau trên phạm vi quốc tế và chưa
có sự phối hợp hành động giữa CMVS ở các nước TB với CMGPDT ở các nước
thuộc địa nên chưa thắng lợi.
Người chỉ rõ: “Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng
lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình
trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh
đạo”(T1, tr.289).
• Người chú ý đến cuộc cách mạng Trung Quốc và Ấn Độ, nhất là hai
nhân vật tiêu biểu là Tôn Trung Sơn, Mahatma Gandhi.
Ví dụ: Tôn Trung Sơn – lãnh tụ của cuộc cách mạng Tân Hợi (1911). Ông
chủ trương đoàn kết 400 dòng họ lớn của người Trung Quốc nhằm thực hiện
11


đoàn kết dân tộc chống đế quốc. Chủ trương “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công
nông”; “Hợp tác quốc cộng” nhằm “đánh đuổi Mãn Thanh, khôi phục Trung
Hoa, thành lập dân quốc, bình quân địa quyền”.
Còn phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ đầu thế kỷ XX nhằm mục
tiêu xây dựng một nước Ấn Độ độc lập và dân chủ.
Những cuộc cách mạng này đem lại cho Hồ Chí Minh nhiều bài học về tập
hợp lực lượng để tiến hành cách mạng, đoàn kết các giai cấp, đảng phái, tôn

giáo, nhất là bài học xác định mục tiêu cách mạng phù hợp với nguyện vọng của
quàn chúng nhân dân. Tư tưởng này của ông đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ hơn
vai trò của chủ nghĩa dân tộc trong tiến hành thực hiện chủ trương đoàn kết ở
các nước thuộc địa nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Những bài học này có
vai trò quan trọng trong việc hình thành nên chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh.
• Hồ Chí Minh cũng giành nhiều thời gian để nghiên cứu cuộc cách mạng
tháng Mười Nga, Người thấy rằng cuộc cách mạng này đã thành công đến nơi,
đem lại cho Hồ Chí Minh nhiều bài học về kinh nghiệm huy động, tập hợp lực
lượng quần chúng đông đảo, nhất là sức mạnh của khối đoàn kết công nông và
tài năng lãnh đạo của những người cộng sản trong việc giành chính quyền và
bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế
quốc, để xây dựng chế độ XHCN, mở ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại.
Chính cuộc cách mạng này đã đem lại cho Hồ Chí Minh nhiều kiến thức thực
tiễn về xây dựng, tập hợp lực lượng.
 Cuộc hành trình khắc các châu lục đã giúp Hồ Chí Minh thêm nhiều
hiểu biết phong phú, có tầm nhìn rộng lớn về vấn đề dân tộc và thuộc địa, về chủ
nghĩa thực dân và đế quốc. Kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong
trào cách mạng của Việt Nam và các nước trên thế giới là cơ sở quan trọng hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
12


1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc gồm một hệ thống những
quan điểm nhằm định hướng cho nhận thức và hành động của Đảng ta trong việc
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Trong đó, có quan điểm về vị trí vai trò của
đại đoàn kết dân tộc, có quan điểm mang tính nội dung, có quan điểm mang tính
hình thức – nguyên tắc đoàn kết và có quan điểm về phương pháp đại đoàn kết
dân tộc.

1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt
Nam
- Đây là quan điểm quan trọng, chỉ ra vai trò của đại đoàn kết dân tộc đối
với sự thành công của cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, chứ không phải là nhiệm vụ mang tính nhất thời hay là một giải pháp
tình thế.
Trong Bài nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc
(10.1.1955), Hồ Chí Minh đã khẳng định “Đoàn kết là một chính sách dân tộc,
không phải là một thủ đoạn chính trị”(T7, tr.438).
+ Vấn đề Chiến lược: là vấn đề có tính chất toàn cục, lâu dài, ổn định,
xuyên suốt tiến trình cách mạng.
+ Vấn đề Sách lược: là trên cơ sở vấn đề chiến lược, căn cứ vào hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, Đảng ta đề ra những mục tiêu, biện pháp cho từng thời kỳ cách
mạng cụ thể.
- Vì sao đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt
Nam?
+ Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng, lực
lượng đó phải đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội

13


mới. Muốn có lực lượng không còn cách nào khác là thực hành đoàn kết vì
“đoàn kết là lực lượng”, đoàn kết sẽ tạo ra sức mạnh vô địch.
Người căn dặn: “Đoàn kết là sức mạnh; có sức mạnh đoàn kết thì làm gì
cũng thành công” (T10, tr.102).
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người chỉ rõ: “Bất kỳ khó khăn gì, bất
kỳ việc to mấy ta đoàn kết đều làm được hết cả. Ví dụ: Lật đổ chế độ thực dân
phong kiến có khó không? Khó thế nhưng ta đoàn kết nên ta lật đổ được. Lúc

bắt đầu kháng chiến, ta ở trong cảnh rất khó khăn. Pháp có hải quân, không
quân, xe tăng, có những tên tướng có kinh nghiệm mấy chục năm, có khí giới
của Mỹ giúp. Lúc đó cơ đồ ta chỉ có tay không mà phải đánh một kẻ địch mạnh
hơn. Nhưng chúng ta đã thắng. Vì sao? Vì đoàn kết” (T8, tr.403).
Do đó, Người khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”
(T11,tr. 22); “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” (T11,tr.
154).
+ Trong thời đại mới kẻ thù của cách mạng là kẻ thù rất mạnh, mang tính
quốc tế. Nếu chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ, phải đoàn kết tập hợp được
tất cả các lực lượng có thể tập hợp được, phải xây dựng được khối đại đoàn kết
dân tộc bền vững. Đây chính là chìa khóa thành công của cách mạng hay nói
cách khác đoàn kết là nhân tố cơ bản tạo nên thành công.
Người chỉ rõ: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta
độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nước ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm
lấn”(T3, tr.217). Người nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan
trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”
(T7, tr.492).
Vì thế, theo Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt
chẽ thì chúng ta nhất định có thể khắc phục được mọi khó khăn, phát triển mọi thuận

14


lợi và làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó” (T7, tr. 392); “Đoàn kết là lực lượng vô
địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi” (T7, tr.397).
+ Nhân dân là lực lượng đông đảo to lớn, nhưng nhân dân phải được tổ
chức, giáo dục thì mới phát huy được sức mạnh to lớn thực sự nên phải đoàn kết.
Người khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là
rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới
chắc chắn thắng lợi”(T9, tr. 290).

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết
mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì
cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống
nhất” (T8, tr. 198). Đoàn kết là điểm mẹ, “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra
con cháu đều tốt…” (T8, tr. 392). Do đó, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/
Thành công, thành công, đại thành công” (T10,tr. 607).
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa
sống còn, lâu dài quyết định thành bại của cách mạng. Đây là tư tưởng nhất
quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi
lực lượng có thể tập hợp được, nhằm tạo ta sức mạnh to lớn của toàn dân tộc
trong cuộc đấu tranh với kẻ thù.
- Để quy tụ được mọi lực lượng, theo Hồ Chí Minh, tuỳ từng thời kỳ, từng
giai đoạn cụ thể để điều chỉnh chính sách, phương pháp tập hợp cho phù hợp với
mọi đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu chung của dân tộc. Song đại đoàn kết
dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định sự thành
bại của cách mạng.
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách
đoàn kết dân tộc đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành
công khối đại đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi
to lớn: làm cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
15


Cộng hòa; kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình, thống nhất đất nước; giành
thắng lợi trong cuông cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo XHCN…
Ví dụ:
+ Trong bài Kính cáo đồng bào (1941), nhằm kêu gọi toàn dân đoàn kết
góp sức vào sự nghiệp cứu nước, Hồ Chí Minh viết: “Hỡi đồng bào yêu quý!
Việc cứu nước là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một
phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức

góp sức, người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi
cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dẫu phải hy sinh tính mệnh
cũng không nề” (T3, tr.198).
+ Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người kêu
gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc” (T4, tr.480).
 Như vậy, với Hồ Chí Minh “đoàn kết, đại đoàn kết” là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng, là một chiến lược cách mạng
- chiến lược huy động tập hợp lực lượng, hình thành nên sức mạnh to lớn của
toàn dân tộc trong đấu tranh với kẻ thù chung. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí
Minh còn trở thành đạo lý sống và lối ứng xử Việt Nam.
ĐH X của Đảng cũng xác định: “Đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 3.
Đại hội XI của Đảng (2011) cũng xác định: “Phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Ðảng, toàn dân,
toàn quân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới.
3

ĐCSVN, Văn kiện ĐH đại biểu Toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 40 - 41

16


Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp

nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc. Ðề cao
tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết
mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”.
1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Việt Nam
- Đây cũng là một quan điểm mà Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh tới vai
trò của đại đoàn kết dân tộc đối với cách mạng Việt Nam.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là vấn đề
chiến lược nói chung mà còn được thể hiện một cách thiết thực cụ thể trong từng
giai đoạn, thời kỳ cách mạng, trở thành mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt
trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
+ Trong thời kỳ 1941 - 1945 mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng lúc này là
cứu quốc. Do đó, khẩu hiệu “Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “chính quyền về tay
nhân dân”, “Cùng nhau đoàn kết đặng mà đấu tranh…Làm cho rõ mặt cháu
Tiên, con Rồng” (T3, tr., 202).
+ Thời kỳ 1946 - 1954 cuộc cách mạng tháng Tám thành công nhiệm vụ
lúc này là đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng. Lời hiệu triệu “Tổ quốc trên
hết”, “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
+ Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày
3.3.1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục
đích của Đảng Lao Động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC” (T6, tr. 183).

17


+ Trong bài nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: “Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng
chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được

mấy việc. Một là, đoàn kết. Hai là, làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc
lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền, huấn luyện là: “Một
là, đoàn kết. Hai là, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là, đấu tranh thống nhất
nước nhà” (T11, tr. 130).
- Nhận thức rõ và đánh giá đúng đắn vai trò, khả năng to lớn của quần
chúng nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục
tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của cả dân tộc.
Đảng phải tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và những yêu cầu cụ thể của
từng giai đoạn cách mạng để xác định nội dung, hình thức tuyên truyền vận động
quần chúng cho phù hợp và đưa ra khẩu hiệu phản ánh đúng đắn đòi hỏi cấp
bách của lịch sử, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
 Như vậy, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng; là sự nghiệp của quần
chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có nhiệm vụ đáp ứng những đòi hỏi
ấy bằng cách đứng ra tập hợp quần chúng tạo thành một sức mạnh vô địch thực
hiện những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng.
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
* Đây là quan điểm mà Hồ Chí Minh đề cập về lực lượng của đại đoàn kết
dân tộc - đó chính là lực lượng toàn dân.
* Khái niệm về Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng, Người thường
dùng các khái niệm: dân ta, nhân dân, quần chúng nhân dân, đồng bào … để chỉ
18


về Dân. Theo Hồ Chí Minh, đã là người Việt Nam đều có một nguồn gốc chung
“con dân nước Việt”, “con Lạc cháu Hồng”, “con Rồng cháu Tiên”, “người
chung một bọc”.

- Khái niêm dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa dùng để chỉ quần chúng
nhân dân nói chung, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, không
phân biệt dân tộc, tôn giáo, già trẻ, giái trai, giàu nghèo, quý tiện, trong nước
hay ngoài nước… đều là chủ thể, là lực lượng chủ yếu của khối đại đoàn kết dân
tộc.
 Như vậy, Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự bao dung, độ
lượng, nhân ái và nhân đạo cao cả, là một trong những lực lượng quan trọng
được Hồ Chí Minh chủ động khơi dậy và phát huy nhằm xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc.
∗ Quan niệm về lực lượng trong đại đoàn kết dân tộc
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi và lâu dài,
phải tập hợp được tất cả mọi người dân (toàn dân) vào một khối trong cuộc đấu
tranh chung. Theo ý nghĩa đó lực lượng đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh rất phong phú, gồm nhiều tầng lớp, giai cấp, bộ phận, lực lượng xã hội
từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới… không phân
biệt là lực lượng nào, không bỏ sót lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng
yêu nước, trung thành, sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là việt gian, không
phản bội lại quyền lợi của dân chúng.
Người đã nhiều lần khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi
mà còn đoàn kết lâu dài…Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”(T7,
tr. 438).

19


- Tuy nhiên trong khối đại đoàn kết toàn dân đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải
lấy liên minh công nông và trí thức làm nền tảng. Nền tảng càng được củng cố
vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không có thế lực

nào có thể làm suy yếu được.
Theo Người, “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà,
gốc của cây” (T7, tr.438).
Người còn nhấn mạnh: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là
công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống
nhất”(T10, tr. 18). Về sau, Người nêu thêm: lấy liên minh công - nông - lao
động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân.
+ Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết không chỉ là tình cảm của “người
trong một nước phải thương nhau cùng” mà phải được xây dựng trên cơ sở một
lý luận cách mạng, khoa học đó là chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Trong khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn, nhiều tầng nấc, cấp độ nhưng
không phải là một tập hợp hỗn loạn, lỏng lẻo mà phải có tổ chức, có mục đích,
nguyên tắc rõ ràng, phải dựa trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức.
Mục đích của đoàn kết là: “Ta đoàn kết để đấu tranh thống nhất và độc
lập Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết là để xây dựng nước nhà” (T7, tr. 438). Đây
chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
+ Đại đoàn kết dân tộc phải lấy liên minh công - nông và trí thức làm nền
tảng bởi vì:
• Công nhân, nông dân là hai lực lượng đông đảo trong xã hội, lại bị áp
bức bóc lột nặng nề nhất nên có tinh thần cách mạng triệt để nhất, tầng lớp trí
thức Việt Nam cũng rất yêu nước và trung thành với dân tộc, cũng chịu chung
thân phận nô lệ mất nước nên cũng có nguyện vọng là độc lập cho dân tộc, tự do
20


cho nhân dân. Sự phù hợp một cách tự nhiên về lợi ích là cơ sở để xây dựng khối
liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp này.
• Liên minh công - nông - trí thức vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là quy

luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa; đặc biệt là trong khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi vì
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình phức tạp, gian khổ, lâu dài, phải tạo
ra một nền kinh tế phát triển cao với lực lượng sản xuất hiện đại, có khoa học
công nghệ phát triển cao. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi có sự liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức.
∗ Biện pháp đoàn kết dân tộc
- Phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc.
+ Truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc được hình
thành, củng cố, phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của cả dân
tộc, trở thành giá trị bền vững, được lưu truyền qua các thế hệ ngêi d©n ViÖt
Nam. §ã là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng
mọi thiên tai địch hoạ, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được
giữ vững. Đây chính là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc cần
được giữ gìn và phát huy, nhất là trong việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc.
+ Năm 1942, trong bài Nên học sử ta, Hồ Chí Minh viết: “Dân ta phải
biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” và “Sử ta dạy cho ta bài học
này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do.
Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nên ta
phải đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngon cờ
Việt Minh để đánh Tây – đuổi Nhật, khôi phục lại nền độc lập, tự do ”(T3,
tr.217)

21


+ Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người tổng kết: “Bất kỳ khó khăn gì,
bất kỳ việc to mấy ta đoàn kết đều làm được hết cả. Ví du: Lật đổ chế độ thực
dân phong kiến có khó không? Khó thế nhưng ta đoàn kết nên ta lật đổ được.

Lúc bắt đầu kháng chiến, ta ở trong cảnh rất khó khăn. Pháp có hải quân,
không quân, xe tăng, có những tên tướng có kinh nghiệm mấy chục năm, có khí
giới của Mỹ giúp. Lúc đó cơ đồ ta chỉ có tay không mà phải đánh một kẻ địch
mạnh hơn. Nhưng chúng ta đã thắng. Vì sao? Vì đoàn kết” (T8, tr.403).
Từ đó Người nhắc nhở: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức,
lãnh đạo làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành
vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” (T2, tr.172).
- Phải có tấm lòng khoan dung độ lượng với con người.
+ Hồ Chí Minh căn dặn cần xoá bỏ mọi thành kiến, phải thật thà đoàn kết
với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân. Kể cả những người
lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc,
đoàn kết với họ mà hoàn toàn không định kiến, khoét sâu cách biệt.
+ Người đã dùng hình tượng năm ngón tay mặc dù có ngón ngắn ngón dài
nhưng cả năm ngón đều thuộc bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện
đoàn kết rộng rãi. Năm 1946, trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ, Người viết: “Tôi
khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn
ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng
có người thế này, thế khác nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên
ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ.” (T4, tr.246-247).
+ Hồ Chí Minh cho rằng, “Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta
phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại
đoàn kết thì tương lai chắc chắn vẻ vang” (T4, tr.246-247). “Đối với những kẻ đi
lầm đường lạc lối, đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan hồng. Lấy lời
khôn lẽ phải mà bày cho họ” (T4, tr.175). “Đối đãi tử tế với tù binh”(T4,
22


tr.484).
+ Trong thư Gửi các tù binh Pháp (1946), Người viết: “Tôi coi các người
như là bạn của tôi… các bạn hãy yên lòng và sống dưới sự che chở của chúng

tôi, cho đến khi hết chiến tranh, khi đó các bạn sẽ được tự do” (T4, tr.488).
+ Trong thư gửi các ngụy binh viết năm 1951, Người viết: “Ngụy binh
cũng là con dân nước Việt, nhưng vì dại mà đi lầm đường, cho nên tôi và Chính
phủ sẵn sàng tha thứ những người sớm biết lỗi và quay về với đại gia đình
kháng chiến” (T6, tr.306).
+ Thực tế, sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã cố gắng
khoả lấp mọi khoảng cách, đã đạt tới đỉnh điểm của mối tương đồng, đẩy xa
những tính khác biệt để đạt được mục tiêu phù hợp với bối cảnh lịch sử cụ thể,
có lợi cho sự nghiệp chung. Bởi thế, Người đã quy tụ được các bậc yêu nước lão
thành, những trí thức lớn rời bỏ cuộc sống vinh hoa để phục vụ đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã mời và thuyết phục được cụ Huỳnh Thúc Kháng ra đảm
nhiệm việc nước. Người cũng đã thuyết phục được cụ Bùi Bằng Đoàn - nguyên
Thượng thư Bộ Hình ra làm Trưởng ban thường vụ Quốc hội; cụ Phan Kế Toại nguyên Khâm sai Bắc Kỳ ra làm Phó Thủ tướng.
+ Lòng khoan dung độ lượng của Hồ Chí Minh không phải là một sách
lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là một sự tiếp nối, kế thừa lòng khoan
dung, độ lượng, từ truyền thống nhân ái của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc
cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán, được thể
hiện trong đường lối chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới
chế độ cũ và những người lầm lạc biết hối cải.
- Phải có lòng tin ở nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của
nhân dân, tin rằng hễ là người Việt Nam thì trong mỗi con người “ai cũng có ít
hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi
23


bị bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước
ấy lại bộc lộ.
Hồ Chí Minh khái quát: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (T8, tr.

276). Người nhấn mạnh: “Nước lấy dân làm gốc”(T5, tr.409), “gốc có vững cây
mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (T5, tr.410).
Người cũng rất tâm đắc với câu nói của nhân dân Quảng Bình thời chống
Mỹ, và đã dùng câu nói đó để giải thích cho người nước ngoài hiểu vì sao dân
tộc Việt Nam là một dân tộc nhỏ, nghèo lại dám đánh và đánh thắng đế quốc Mỹ
- một nước lớn, giàu có nhất thế giới, đó là:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong” (T12, tr.212)
- Giáo dục, giác ngộ, hướng dẫn nhân dân vào mục đích chung để đoàn
kết dân tộc.
Mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền
độc lập, thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Người khẳng định: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập
dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống ta, bây giờ chúng ta cũng thật
thà đoàn kết với họ” (T7, tr.438).
Theo Hồ Chí Minh, “Tổ quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai
cũng được tự do. Nếu nước mất thì ai cũng phải làm nô lệ” (T4, tr.458). Người
đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích riêng của từng bộ phận với lợi ích
chung của cả dân tộc, đấu tranh cho Tổ quốc cũng là đấu tranh cho chính mình.
Hồ Chí Minh đã tìm thấy “mẫu số chung”, quy tụ lợi ích chung của toàn
dân tộc, thay vì khoét sâu cách biệt hay loại trừ những lợi ích khác nhau. Mẫu số
chung tìm ra trên cơ sở những nét tương đồng, lấy cái chung làm nền tảng xoá

24


mờ nét riêng biệt. Đây là nét đặc sắc Hồ Chí Minh, nhờ đó Người tìm được đồng
thuận rộng rãi trong nhân dân.
1.2.4. Xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất vững mạnh
- Đây là quan điểm nói về hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn

dân – đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh của toàn dân tộc chỉ trở thành sức mạnh to
lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung,
được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối
chính trị đúng đắn. Khối đại đoàn kết toàn dân không chỉ dùng lại ở quan niệm,
ở những lời kêu gọi, hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng,
phải trở thành khẩu hiệu của Đảng, của toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức
mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó là Mặt trận
dân tộc thống nhất.
∗ Mặt trận dân tộc thống nhất là gì?
- Trên thế giới.
+ Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, khái niệm Mặt trận
thống nhất ra đời với Lênin. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Quốc tế II bị chủ
nghĩa cơ hội lũng đoạn đi tới chỗ phân liệt. Năm 1919, Lênin sáng lập Quốc tế
III, với tư duy tỉnh táo, sáng suốt, Lênin thấy cần thiết phải điều chỉnh chiến
lược đề ra chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân,
thực hiện đoàn kết các trào lưu khác nhau trong phong trào công nhân.
+ Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (7/1935), trên cơ sở phê bình về những
sai lầm biệt phái, tả khuynh, hẹp hòi… không lôi cuốn được các giai cấp nông
dân, tiểu tư sản thành thị vào cuộc đấu tranh, đã đề ra chủ trương thành lập Mặt
trận nhân dân rộng rãi chống phát xít.
Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Cộng sản Tay Ban Nha đã đi đầu trong
phong trào này, thực hiện sự liên minh với các đảng xã hội và đảng cánh tả khác
25


×