Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Quá trình công nghệp hóa của hàn quốc và một số bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.01 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Môn học
KINH TẾ PHÁT TRIỂN 2

ĐỀ TÀI

QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA HÀN QUỐC VÀ
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Lớp:

QH 2011 – E KTPT - LK

Hà Nội, 5/2014

i


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1.................................................................................................................. 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA.........................2
CHƯƠNG 2................................................................................................................ 16
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA HÀN QUỐC.........................................16
CHƯƠNG 3................................................................................................................ 45
MÔT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM..........................................45
KẾT LUẬN................................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 60



ii


MỞ ĐẦU
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh phát triển mạnh của các
ngành công nghiệp đang mở ra rất nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với mọi
quốc gia trên thế giới; đặc biệt đối với những nước đang phát triển như Việt
Nam. Các nhà hoạch định chính sách của mỗi quốc gia đều đồng ý rằng các nền
kinh tế trên thế giới đều không thể loại mình ra khỏi tiến trình này, vậy nên cấp
thiết phải hành động để tận dụng được các lợi thế, đồng thời giảm thiểu tối đa các
bất lợi trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Trong sự nghiệp phát triển ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã xác định
nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt trong
thời kỳ đổi mới, mở cửa phát triển kinh tế. Để thực hiện thành công nhiệm vụ
trên, nhiều hoạt động và chương trình phát triển kinh tế - xã hội cần được hoàn
thành trong từng giai đoạn phát triển, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước
và thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cần nghiên cứu thêm những lý thuyết hiện
đại về ngành công nghiệp cũng như học hỏi kinh nghiệm của các nước đã và
đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng mô hình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiệu quả và phù hợp với Việt Nam.
Ngày nay, trên thế giới có khoảng 25 quốc gia thuộc nhóm nước phát triển
và 10 quốc gia thuộc nhóm nước công nghiệp mới. Đó là những quốc gia đã và
đang thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa đất nước. Mỗi thành công
của một quốc gia đều cho ta những bài học kinh nghiệm bổ ích. Tuy nhiên,
những kinh nghiệm từ các nước châu Á, đặc biệt là Hàn Quốc, có nhiều điểm
tương đồng với Việt nam là có ý nghĩa to lớn và trực tiếp nhất. Do vậy, nghiên
cứu mô hình công nghiệp hóa cũng như các chính sách, các bước đi trong thực
hiện và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hàn Quốc sẽ giúp
gợi mở cho Việt Nam những bài học kinh nghiệm cần thiết để đẩy mạnh quá

trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa.

1


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. Khái niệm công nghiệp hóa và hiện đại hóa
1.1.1. Công nghiệp hoá
Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình
phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng.
Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
cũng có những điểm không hoàn toàn giống nhau và tất nhiên sẽ dẫn đến những
chính sách và giải pháp thực thi cũng khác nhau đối với từng nước, thậm chí đối
với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Điều đó được thể hiện
khá rõ ở sự đa dạng trong việc lựa chọn mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
các nước trên thế giới.
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra
định nghĩa sau đây (vào năm 1963): "Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển
kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc
dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ
thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn
thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo
đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến
bộ về kinh tế - xã hội".
Một định nghĩa được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay có ý nghĩa tương
đối bao quát và phù hợp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại ngày nay

do Báo cáo Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) đưa ra là "quá trình chuyển đổi
căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - cong nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao". Định nghĩa này đã nói lên được phạm vi và vai trò đặc
biệt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã
hội; gắn liền được hai phạm trù không thể tách rời là công nghiệp hoá và hiện đại
hóa. Nó cũng xác định vai trò không thể thiếu của khoa học - công nghệ trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

2


1.1.2. Hiện đại hóa
Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công
nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình công nghiệp hoá. Đa số các ý kiến
của các nhà nghiên cứu cho rằng hiện đại hoá là quá trình liên tục hiện đại nền
kinh tế, thay đổi công nghệ cũ bằng công nghệ mới tiên tiến hơn. Thực chất, hiện
đại hoá là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Cái đích này
không cố định hay duy nhất đối với một quốc gia hay một ngành nghề mà nó
luôn thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ văn minh
chung của nhân loại. Nó còn phụ thuộc cả và loại ngành nghề, từng khu vực khác
nhau ngay trong một nước. Xu thế chung của thế giới ngày nay là thực hiện đổi
mới công nghệ nhanh chóng, rút ngắn chu kỳ sống của mỗi loại công nghệ
1.2. Bản chất của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây:
● Thứ nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một phương thức có tính
chất phổ biến để thực hiện mục tiêu trong phát triển của hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Mỗi nước vì có hệ thống mục tiêu riêng của mình mà lựa chọn phương

thức công nghiệp hoá phù hợp. Nhưng mục tiêu chung nhất của mọi quốc gia là
nhằm tăng nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất mọi mặt
của mọi tầng lớp dân cư thông qua việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng
hiện đại, huy động và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước.
● Thứ hai, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Trong lịch sử
công nghiệp hoá đã diễn ra hàng trăm năm ở các nước trên thế giới, công nghiệp
hoá và hiện đại hoá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì hiện đại hoá để
đạt tới trình độ kỹ thuật hiện đại nhất là một yêu cầu cơ bản của quá trình công
nghiệp hoá. Thực tễ kỹ thuật hiện đại nhất đối với mỗi giai đoạn lịch sử có giới
hạn nhất định và luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính vì vậy, hiện đại hoá
không phải là một quá trình độc lập mà là một hoạt động có tính liên tục của
công nghiệp hoá gắn liền với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hay là một quá
trình kế tiếp để đạt được mục tiêu của công nghiệp hoá.
● Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình tác động đến tất cả
các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nền kinh tế. Vì trong một chỉnh thể
kinh tế của một quốc gia, các ngành các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội có
quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau. Sự thay đổi ở ngành, lĩnh vực này
sẽ dẫn tới sự thay đổi ở các ngành, các lĩnh vực khác. Quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và
cơ cấu lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển dịch cơ

3


cấu làm cho vị trí của ba khu vực kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
luôn luôn thay đổi.
- Nông nghiệp giữ vị trí quan trọng nhất vì nó tạo ra lương thực, thực
phẩm nuôi sống con người hàng ngày và những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu
nhất. Đồng thời nông nghiệp cũng tạo ra những điều kiện tiền để quan trọng ban
đầu cho phát triển công nghiệp. Đến khi nhu cầu cơ bản của người dân cư được

bảo đảm thì tỷ trọng lao động nông nghiệp và giá trị sản lượng nông nghiệp trong
nền kinh tế sẽ giảm đi để nhường chỗ cho sự phát triển tăng dần của khu vực
công nghiệp và dịch vụ.
- Công nghiệp luôn được coi là ngành mấu chốt tạo ra sự phát triển xã
hội.Vì vậy, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công nghiệp được mọi
quốc gia ưu tiên đầu tư phát triển. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không đồng
nhất với phát triển công nghiệp, nhưng không thể tiến hành quá trình này nếu
không chú trọng phát triển mạnh công nghiệp. Vì vậy, vai trò, vị trí của công
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng lên trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Hoạt động dịch vụ cả phục vụ sản xuất và phục vụ đời sống là điều kiện
không thể thiếu để phát triển kinh tế và nâng cao đời sống dân cư. Không thể
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh trên cơ sở hệ thống dịch vụ và kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội yếu kém. Để tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
cần chú trọng đầu tư thoả đáng phát triển dịch vụ kết cấu hạ tầng để phát triển
sản xuất và thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Trong các giai đoạn của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vị trí của khu vực dịch vụ sẽ có sự thay đổi căn
bản trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
● Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự kết hợp chặt chẽ của các quá
trình kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là sẽ đem lại cho đất nước trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại,
kinh tế ngày càng vững mạnh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng nâng cao dân
trí, mức sống dân cư và phát triển xã hội ngày càng văn minh. Như vậy, trong
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá trình kinh tế - kỹ thuật xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho việc thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế- xã hội. Trong khi
đó, quá trình kinh tế - xã hội mang lại động lực quan trọng cho thực hiện mục
tiêu của quá trình kinh tế - kỹ thuật.
● Thứ năm, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là quá trình mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Ngày nay, mở rộng phân công lao động
quốc tế và xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra như một tất yếu. Mỗi quốc

gia là một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của biến động

4


kinh tế thế giới và có tác động ở mức độ khác nhau đến kinh tế của các nước
khác.
Ngày nay, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong khai thác các nguồn
lực tự nhiên để phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, các nước
cần kết hợp giữa việc sử dụng có hiệu quả với việc tiết kiệm, bảo tồn và tái tạo
chúng. Do vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm đạt được mục tiêu tăng
trưởng nhanh trong phát triển kinh tế, nhưng nó phải gắn với sự bền vững trong
phát triển. Điều đó được hiểu trên các giác độ kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi
trường.
Từ những phân tích trên đây có thể tóm tắt: Công nghiệp hoá và hiện đại
hoá gắn kết chặt chẽ trong một quá trình lịch sử tất yếu khách quan nhằm tạo nên
những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội của đất nước, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở khai thác và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế đất nước, xây dựng cơ cấu kinh tế đa dạng
với khu vực công nghiệp là then chốt và trình độ khoa học - công nghệ ngày càng
hiện đại, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.3. Các mô hình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở các nước đang phát
triển
1.3.1. Mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (chiến lược hướng nội)
● Mục tiêu của chiến lược thay thế nhập khẩu
Các nước đang phát triển trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá theo chiến lược thay thế nhập khẩu, do điều kiện kinh tế - xã hội của
mình và những tác động khách quan của điều kiện kinh tế quốc tế, nên việc xác
định mục tiêu cụ thể trong chiến lược này có những điểm khác nhau. Tuy vậy, về

cơ bản các mục tiêu của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có thể
được khái quát như sau:
- Khai thác nguồn lực tại chỗ để đáp ứng nhu cầu cơ bản, cấp bách của thị
trường trong nước;
- Giảm thiểu ngoại tệ chi tiêu cho nhập hàng hoá từ nước ngoài;
- Khai thác thị trường nội địa để phát triển các ngành nghề sẵn có;
- Tạo nhiều việc làm, giảm bớt lạm phát và thất nghiệp.
Thực chất mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là mỗi nước cần
phát triển mạnh mẽ việc sản xuất hàng tiêu dùng để thay thế các hàng hoá vẫn
phải nhập khẩu từ các nước tư bản. Sự phát triển như vậy sẽ mang lại tác dụng

5


nhiều mặt: khai thác các nguồn lực sẵn có để thoả mãn các nhu cầu cơ bản và cấp
thiết trong nước, mở rộng thị trường nội địa, phát triển sản xuất hàng hoá, tạo
thêm việc làm, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc và tiết kiệm ngoại
tệ.
● Chính sách và biện pháp triển khai mô hình công nghiệp hoá thay thế
nhập khẩu
Xuất phát từ mục tiêu trên, nội dung cơ bản của chiến lược công nghiệp
hoá thay thế nhập khẩu nhằm xác định được tổng cầu mỗi loại hàng hoá trong
nước qua phân tích và tính toán lượng hàng hoá thực tế phải nhập khẩu trước
đây, dựa vào tổng số và cơ cấu dân cư, mức sống. Nhìn chung, chiến lược hướng
nội lấy trọng tâm là thị trường trong nước để phát triển sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Thực tế, chiến lược này về cơ bản không đồng nghĩa với việc bế quan
toả cảng" hay "đóng cửa" nền kinh tế, mà các quan hệ kinh tế đối ngoại vẫn được
chú ý, đặc biệt là nhập khẩu các tư liệu sản xuất để sản xuất hàng thay thế hàng
nhập khẩu hay kêu gọi đầu tư nước ngoài vào các mục tiêu thay thế nhập khẩu.
Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã được thực hiện thông qua

hàng loạt chính sách và biện pháp sau:
- Bảo hộ sản xuất và thị trường trong nước
Để trợ giúp sản xuất trong nước có thể tồn tại và phát triển, kích thích đầu
tư vào các ngành thuộc mục tiêu ưu tiên, nhà nước thiết lập hàng rào bảo hộ sản
xuất trong nước bằng chính sách thuế quan, bằng hàng rào phi thuế quan, bằng
chính sách hạn chế nhập khẩu v.v.. để bảo vệ những ngành công nghiệp trong
nước non trẻ, giữ cho những ngành công nghiệp này được đặc quyền tiêu thụ
hàng hoá trên thị trường nội địa. Phong trào bài trừ hàng ngoại xuất hiện rất
mạnh ở các nước trong thời kỳ thực hiện chiến lược này.
- Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu
Các nước đang phát triển đi từ điểm xuất phát thấp, nên phải nhập khẩu
nhiều hàng công nghiệp từ các quốc gia đã công nghiệp hoá cao, đặc biệt là máy
móc thiết bị. Các nước đang phát triển chỉ là nơi cung cấp nông phẩm, tài nguyên
và là thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp cho các nước phát triển. Đây là quan
hệ phụ thuộc một chiều gây nhiều bất lợi cho các nước nghèo. Để giảm sự lệ
thuộc này, các nước đang phát triển đã tìm cách xây dựng cho mình các ngành
công nghiệp tự đáp ứng nhu cầu trong nước, thay thế dần nhập khẩu. Các nước
phấn đấu dần dần hình thành một cơ cấu ngành công nghiệp hoàn chỉnh (Ấn Độ,
Inđônêxia…) hoặc là tương đối hoàn chỉnh (Myanma, Malaysia…). Nhiều quốc
gia đặt cho mình mục tiêu xây dựng những ngành công nghiệp thiết yếu, có thể
đảm bảo được những nhu cầu cơ bản của đất nước như năng lượng, luyện kim,

6


cơ khí, hoá chất… Họ xem những ngành công nghiệp trên đây là cơ sở đảm bảo
nên độc lập tự chủ nhằm trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc
dân và thoát khỏi sự lệ thuộc vào bên ngoài. Do vậy, nhà nước chủ trương
khuyến khích các nhà sản xuất trong nước đầu tư và dần dần làm chủ được kỹ
thuật sản xuất. Đồng thời còn khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia

vào sản xuất hoặc cung cấp công nghệ, vốn, kỹ năng quản lý. Trong quá trình ấy,
những chính sách như cố định tỷ giá đồng nội tệ thường được giữ ở mức cao để
khuyến khích thay thế nhập khẩu; mức lãi suất rất thấp và bao cấp rộng rãi cho
các doanh nghiệp nhà nước; nhà nước kiểm soát giá cả và thương mại, đặc biệt là
ngoại thương chặt chẽ.
Nhìn chung, hầu hết các nước khi theo đuổi mô hình công nghiệp hoá thay
thế nhập khẩu đều chú trọng nhiều đến việc xây dựng hệ thống các doanh nghiệp
nhà nước. Do vậy, trong thời kỳ công nghiệp theo hướng thay thế nhập khẩu, khu
vực kinh tế quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước đang phát triển. Từ
thực tế các nước đang phát triển vào thập kỷ 50, 60 cho thấy, chính sách bảo hộ
sản xuất và thị trường trong nước tiến triển qua ba giai đoạn:
+ thứ nhất, bảo hộ với cường độ cao để khuyến khích sản xuất và tiêu
dùng trong nước;
+ thứ hai, giảm dần mức độ bảo hộ, yêu cầu các doanh nghiệp trong nước
vươn lên hạ giá thành, nâng cao chất lượng hàng hoá;
+ thứ ba, các doanh nghiệp trong nước khống chế được thị trường trong
nước và vươn ra thâm nhập thị trường quốc tế.
● Kết quả và hạn chế của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
Việc thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu đã đem lại sự mở mang nhất
định các cơ sở sản xuất, giải quyết công ăn việc làm, quá trình đô thị hóa bắt đầu.
Chính sách khuyến khích công nghiệp trong nước có tác dụng mở rộng và tăng
cường phát triển các doanh nghiệp cũng như đội ngũ doanh nhân dân tộc trong
công thương nghiệp.Tuy vậy, thực tế cho thấy nếu dừng lại quá lâu ở giai đoạn
chiến lược thay thế nhập khẩu sẽ vấp phải những trở ngại rất lớn. Trong xu
hướng quốc tế hoá và khu vực hoá kinh tế ngày càng tăng lên dẫn đến sự liên hệ
và tuỳ thuộc tất yếu giữa các quốc gia trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng
hoá. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật đang
trở thành yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế và tự bản thân nó đã phá
vỡ các mối quan hệ đóng cửa giữa các quốc gia. Tâm lý nóng vội chủ quan của
các nước đang phát triển đã dẫn đến thực tế là việc xây dựng và phát triển những

ngành công nghiệp quy mô lớn nhưng chu chuyển tư bản chậm, công suất máy
móc sử dụng lãng phí trong khi lợi thế so sánh để tăng xuất khẩu không được

7


khuyến khích. Mặt khác các chính sách trợ cấp, trợ giá tràn lan trong điều kiện
dự trữ ngân sách nghèo nàn làm cho cán cân thanh toán, cán cân thương mại luôn
luôn mất cân bằng. Chính sách hướng nội trong điều kiện thị trường nội địa nhỏ
hẹp, khả năng tiêu dùng của đại bộ phận cư dân còn thấp, làm cho tăng trưởng
chậm và thất nghiệp tăng. Thực tế ấy được biểu hiện cụ thể ở những khía cạnh
sau:
Thứ nhất, hầu hết việc thay thế hàng nhập khẩu đã được thực hiện bằng
việc nhập khẩu nhiều tư liệu sản xuất và sản phẩm trung gian từ nước ngoài. Do
vậy, xuất hiện hai kết cục: Một mặt, các ngành công nghiệp cần nhiều vốn được
thiết lập, thường là phục vụ thói quen tiêu dùng của những người giàu, có rất ít
tác động tạo công ăn việc làm. Thực hiện việc sản xuất thay thế nhập khẩu tuy có
thể tiết kiệm được ngoại tệ trên phương diện thành phẩm, nhưng lại đòi hỏi nhập
khẩu nhiều nguyên liệu và bán thành phẩm hơn để tăng cường cung ứng cho sản
xuất trong nước. Mặt khác, tình hình cán cân thanh toán của các nước đang phát
triển trong tình trạng không được cải thiện lại càng trở nên tồi tệ hơn do thay thế
hàng nhập khẩu. Đồng thời, sản xuất thay thế nhập khẩu thu ngoại tệ, do đó
không phải là kế sách lâu dài để bù vào chỗ thiếu hụt trong cán cân thương mại.
Thứ hai, quá trình thay thế nhập khẩu giúp các công ty nước ngoài, họ có
thể đứng sau bức tường thuế quan và tận dụng ưu đãi về đầu tư và giảm thuế.
Thứ ba, mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có tác dụng không
tốt đối với việc xuất khẩu các sản phẩm truyền thống.
Thứ tư, chiến lược thay thế hàng nhập khẩu có khi còn gây tiêu cực với
công nghiệp trong nước. Nhiều ngành "công nghiệp non trẻ" chẳng bao giờ mạnh
lên vì họ bằng lòng nấp đằng sau hàng rào thuế quan bảo hộ.

Thứ năm, mô hình công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu thực chất là
nhằm vào thoả mãn nhu cầu trong nước là chính, chú trọng nhiều đến tỷ lệ tự cấp
của thị trường nội địa. Với chiến lược như vậy, thương mại quốc tế không được
coi trọng, không tận dụng được ảnh hưởng tích cực của kinh tế thế giới đối với
sự phát triển kinh tế trong nước. Điều đó tất sẽ hạn chế việc khai thác tiềm năng
của đất nước trong việc phát triển thương mại và các quan hệ kinh tế đối ngoại
khác.
Thứ sáu, kinh tế của các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công
nghiệp hoá có nhiều khó khăn, tổng cầu vượt quá tổng cung và thường thông qua
nhập khẩu để cân bằng. Xu hướng này không thể khắc phục được trong thời gian
ngắn, nếu hạn chế quá mức nhập khẩu. Việc thực hiện chính sách bảo hộ không
thích hợp sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

8


1.3.2. Mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (chiến lược hướng
ngoại)
Từ cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 một số quốc gia đang phát triển do
nhận thức sớm về vai trò tác động của kinh tế thị trường đã nhanh chóng chuyển
đổi chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, chiến lược công nghiệp
hoá hướng về xuất khẩu được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển trong
mấy thập kỷ gần đây.
● Mục tiêu của chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu
- Mục tiêu cơ bản của chiến lược là dựa vào đầu tư trực tiếp cũng như sự
hỗ trợ về vốn, kỹ thuật bên ngoài để tạo ra khả năng cạnh tranh và đẩy nhanh
xuất khẩu. Nhân tố then chốt trong toàn bộ quá trình này là chính phủ sở tại tạo
những điều kiện tốt nhất để hấp dẫn đầu tư trực tiếp của tư bản nước ngoài, đồng
thời tiến hành những cải cách kinh tế trong nước tạo môi trường thuận lợi cho
vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả hơn

- Thực hiện mở cửa nền kinh tế hướng ra thị trường nước ngoài nhằm khai
thác lợi thế so sánh trong trật tự phân công lao động quốc tế;
- Đa dạng hoá trong sản xuất, kinh doanh trên cơ sở khai thác tối đa nguồn
lực để tăng nhanh xuất khẩu; Vai trò vốn nước ngoài và các công ty ngoại quốc
được nhấn mạnh hơn.
● Chính sách và biện pháp triển khai chiến lược công nghiệp hoá
hướng về xuất khẩu
Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu không phải chỉ thuần tuý là xây
dựng các ngành công nghiệp xuất khẩu, mà nội dung quan trọng hơn của nó là
xây dựng cơ cấu công nghiệp mới theo hướng hiện đại hơn, có đủ sức chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu, dựa trên cơ sở kết hợp những nhân tố
thuận lợi bên ngoài với phát huy các lợi thế trong nước. Ngoại thương đã trở
thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế tạo ra mối quan hệ chặt chẽ
giữa thị trường nội địa và bên ngoài nhằm tạo ra mô hình tăng trưởng rút ngắn.
- Thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư của các công ty nước ngoài vào các ngành
xuất khẩu thông qua một số chính sách
Khi triển khai chiến lược hướng ngoại, các nước đều có chính sách ưu đãi,
khuyến khích sự tham gia của tư bản nước ngoài vào chương trình phát triển kinh
tế quốc gia. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được đặc biệt coi trọng. Do vậy, nhà
nước đã tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn đầu tư nước ngoài:

9


+ Áp dụng hệ thống thuế và quan thuế ưu đãi với các nhà đầu tư nước
ngoài,
+ Khuyến khích áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong các công ty
nước ngoài hoặc liên doanh với địa phương
+ Nới lỏng những quy định về tỷ lệ đầu tư, hồi hương vốn và lợi nhuận,
tái đầu tư,

+ Thành lập các khu vực kinh tế đặc biệt dưới nhiều tên gọi khác nhau
như đặc khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu mậu dịch tự do.
+ Thực hiện tự do hoá nhập khẩu đồng thời với cải cách tỷ giá.
+ Thu hút công nghiệp nước ngoài và phát triển khoa học - kỹ thuật phục
vụ cho xuất khẩu.
- Kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu
Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là chiến lược đòi hỏi sự kết hợp của
cả bảo hộ sản xuất trong nước với trợ cấp xuất khẩu như trợ cấp tín dụng xuất
khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các ngành sản xuất hàng xuất khẩu hoặc liên
quan đến xuất khẩu, cho phép sử dụng những khoản thu được nhờ xuất khẩu để
nhập khẩu, miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu những hàng hoá và dịch vụ có liên
quan tới xuất khẩu, tìm hiểu thị trường nước ngoài cho các nhà sản xuất hàng
xuất khẩu.
- Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu ở nhiều nước đang phát triển trong
mấy thập kỷ qua có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các loại hình doanh nghiệp này với vốn đầu tư không lớn, có những khả năng tạo
ra nhiều việc làm với chi phí thấp, sản xuất kinh doanh đa dạng, dễ thích ứng với
sự biến động của thị trường và những thay đổi của công nghệ. Nó có khả năng
phát huy nguồn lực tại chỗ để phát triển những ngành nghề truyền thống, đồng
thời góp phần cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
● Kết quả và hạn chế
Cho đến nay chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu về cơ bản đã
đem lại nhiều thay đổi to lớn ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, cần phải
nhấn mạnh rằng, chỉ riêng khuynh hướng ngoại không bao giờ đủ để đem lại
thànhcông kinh tế của bất kỳ quốc gia đang phát triển nào. Nhưng nếu hướng
ngoại là xu hướng bao trùm trong mọi ngành kinh tế quốc dân thì nó đòi hỏi một
loạt những chính sách quản lý, điều tiết, nền kinh tế vĩ mô toàn diện. Hệ thống
những chính sách đúng đắn, kịp thời trên thực tếđã đem lại sự ổn định và tính


10


linh hoạt trong sản xuất. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao là cơ sở cho các
quốc gia đang phát triển có thể ứng phó thành công với những biến động bên
ngoài, giải quyết kịp thời những vấn đề kinh tế - xã hội bên trong. Kinh nghiệm
cho thấy, nhìn chung chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu có hiệu
quả hơn so với chiến lược thay thế nhập khẩu.
Tuy vậy, chiến lược hướng ngoại có những hạn chế sau:
Thứ nhất, do tương quan lực lượng kinh tế còn quá chậm chênh lệch giữa
nền kinh tế các nước đang phát triển và các nước phát triển dẫn tới sự lệ thuộc
một chiều khá sâu sắc của các nước đang phát triển. Vì vậy, điều không tránh
khỏi là những ảnh hưởng từ qui luật cạnh tranh và tình trạng độc quyền mà lợi
thế thường thuộc về các nước phát triển.
Thứ hai, do sự lệ thuộc quá lớn vào thị trường nước ngoài, nên những
chấn động của thị trường quốc tế dẫn đến tình hình xuất nhập khẩu ở các nước
đang phát triển có khi trở nên tắc nghẽn hoặc không bình thường.
Thứ ba, nhu cầu đầu tư phát triển xuất khẩu tăng lên thường kéo theo tình
trạng nợ nước ngoài gia tăng. Khả năng trả nợ của các nước đang phát triển nhìn
chung rất khó khăn, có nước không có khả năng thanh toán nợ.
Thứ tư, sự phụ thuộc của các nước đang phát triển còn thấy được ở các
phương diện công nghệ, thị trường. Hoạt động đầu tư, khai thác của nước ngoài
nhiều khi vì mục tiêu đơn thuần là lợi nhuận đã kéo theo sự tàn phá môi sinh môi
trường, khai thác bừa bãi làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Thực tế cho thấy,
sự lệ thuộc về kinh tế còn kéo theo những phức tạp trong đời sống chính trị - xã
hội của đất nước, làm sói mòn văn hoá truyền thống dân tộc…
1.3.3. Mô hình công nghiệp hóa bền vững theo hướng hội nhập (chiến lược
hỗn hợp)
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ dưới ảnh
hưởng của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, nền kinh tế thế giới giống

như một chỉnh thể thống nhất nhưng lại chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Thực tế cho
thấy, cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế đòi hỏi các nước đang
phát triển phải điều chỉnh chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xu hướng
chung ngày nay nhiều nước đang quan tâm lựa chọn mô hình công nghiệp hoá
bền vững theo hướng hội nhập quốc tế.
● Mục tiêu của chiến lược công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội
nhập
- Phát huy lợi thế so sánh của từng quốc gia trên cơ sở khai thác tối đa
nguồn lực trong và ngoài nước để đạt tăng trưởng kinh tế cao;

11


- Gắn tăng trưởng kinh tế với sự bền vững trong phát triển: vừa hướng
mạnh ra thị trường thế giới, vừa coi trọng thị trường trong nước. Không để tình
trạng doanh nghiệp trong nước thua trận ngay trên sân nhà;
- Công nghiệp hoá không chỉ hướng về xuất khẩu mà còn theo hướng hội
nhập khu vực và thế giới với việc tham gia sâu rộng vào các tổ chức kinh tế khu
vực và quốc tế (APEC, WTO, NAFTA, AFTA…)
● Chính sách và biện pháp triển khai chiến lược công nghiệp hoá bền
vững theo hướng hội nhập
Nội dung cơ bản của chiến lược công nghiệp hoá bền vững theo hướng
hội nhập là kết hợp hài hoà giữa hướng về xuất khẩu với thay thế nhập khẩu.
Chiến lược này là vừa đẩy mạnh vươn ra thị trường quốc tế nhưng vẫn coi trọng
thị trường trong nước. Trong khi tăng cường phát huy lợi thế so sánh về các mặt
hàng nông sản, nguyên liệu sơ chế, sản phẩm trung gian dựa vào nguồn lao động
dồi dào, đồng thời lấy các yêu cầu của thị trường quốc tế làm hướng phát triển
các ngành sản xuất trong nước. Hiện nay, các nước đang phát triển muốn tăng
trưởng nhanh cần có sự bổ sung những nhân tố bên ngoài để kết hợp với những
nhân tố sẵn có bên trong nhằm đạt hiệu quả cao xét cả về mặt kinh tế và xã hội.

Do vậy, các nước này cần:
 Phát triển nông nghiệp trong nước nhằm đảm bảo lợi ích của đa số
nông dân, thực hiện an toàn lương thực quốc gia, ổn định xã hội.
 Thực hiện những biện pháp nhằm bảo vệ nền công nghiệp trong nước,
nhất là những ngành công nghiệp non trẻ nhưng có nhiều triển vọng trong
việc thu hút các nguồn tài nguyên nhân lực và vật lực của đất nước và có
khả năng cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
 Chủ động, tích cực hội nhập để thực hiện tự do hoá thương mại và đầu
tư. Trong quá trình ấy, tự do hoá quan hệ kinh tế đối ngoại và bảo hộ công
nghiệp trong nước là hai mặt không hề đối lập nhau, mà bổ sung cho nhau.
Những chính sách và biện pháp thực hiện mô hình này được các nước áp
dụng gồm:
- Chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập
Trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá bền vững theo hướng hội
nhập quốc tế thì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra trong điều kiện khác trước
vì hàng hoá, vốn, dịch vụ, lao động, công nghệ, tiền tệ sẽ được chuyển dịch tự do
hầu như không có biên giới quốc gia. Như vậy, các nước đang phát triển muốn có
được những ngành công nghiệp hiện đại thì nhà nước phải tạo ra được môi
trường cần thiết để thu hút được những ngành này từ bên ngoài. Bên cạnh đó, thị

12


trường của những ngành công nghiệp này là thị trường toàn cầu, việc tính toán
nhu cầu của thị trường trở nên phức tạp. Đó là những yếu tố liên quan tới việc
xác định cơ cấu kinh tế trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do vậy, cơ cấu kinh
tế theo hướng hội nhập sẽ bao gồm những ngành hướng ra thị trường quốc tế và
không nhất thiết bắt đầu từ những ngành công nghiệp chế biến, sử dụng nhiều lao
động mà có thể bắt đầu ngay từ những ngành có hàm lượng vốn và công nghệ
cao.

Cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập phải có tính linh hoạt cao, có khả
năng thích ứng và đổi mới nhanh chóng. Một cơ cấu đông cứng, tĩnh tại là không
thích hợp. Vì vậy, cùng với những biện pháp hướng mạnh về xuất khẩu, cần
đồng thời thực hiện một số biện pháp thay thế nhập khẩu cần thiết để nuôi dưỡng
và vực dạy các ngành công nghiệp non trẻ của đất nước, tranh thủ những cơ hội
và khả năng có lợi của thị trường trong nước.
- Xây dựng thể chế kinh tế thị trường và hệ thống pháp luật phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Những tổ chức kinh tế quốc tế mà các nước đang phát triển tham gia đều
là những tổ chức đã được thành lập từ trước gắn với những thể chế đã được thoả
thuận. Do vậy, các nước đang phát triển khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá bền vững theo hướng hội nhập phải đổi mới thể chế của mình cho phù hợp
với thông lệ quốc tế.
- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá trong
điều kiện hội nhập quốc tế.
Nguồn lực con người (Manpower) hay nguồn nhân lực (Human resouses)
là cái quyết định biến các tiềm năng của tự nhiên thành của cải phục vụ cho xã
hội. Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định sự thành bại của mô hình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá vì muốn làm chủ được quá trình này các nước đang phát
triển phải có một nguồn lực được đào tạo có chất lượng cao. Đội ngũ nhân lực
này bao gồm những người hiểu biết tốt hơn về công nghệ và kỹ năng quản lý, và
những người có tay nghề cao. Thực tế cho thấy, không thể nói đế công nghiệp
hoá, hiện đại hoá một đất nước trong thời đại khoa học kỹ thuật mà lại thiếu
nguồn lực con người tương xứng. Do vậy, về chính sách của nhà nước cần:
 Coi giáo dục đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng
của nguồn nhân lực. Chính sách giáo dục phải định hướng vào các mục
tiêu kinh tế - xã hội, kỹ thuật, nhân văn, chính trị và phát triển năng lực
bản thân con người.

13



 Có những biện pháp đồng bộ trong bố trí và sử dụng hợp lý lao động,
đặc biệt tạo cho con người có môi trường tự do, bình đẳng để phát huy khả
năng cá nhân trong khuôn khổ pháp luật.
 Kế hoạch phát triển dân số nhằm không để sự bùng nổ dân số làm triệt
tiêu những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
- Chủ động và tăng cường tham gia liên kết kinh tế khu vực và thế giới
Hoạt động liên kết kinh tế khu vực và tham gia các tổ chức thương mại
quốc té ngày càng có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các nước đang phát
triển cả trên phương diện thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ. Về hoạt
động này, sẽ có hàng loạt vấn đề mà các nước đang phát triển phải tập trung giải
quyết. Trước hết là việc lựa chọn các đối tác trong quan hệ hợp tác kinh tế. Vấn
đề này phải được khai thác dựa vào những điểm tương đồng về lợi ích kinh tế,
đồng thời hạn chế những khác biệt từ quan hệ lợi ích. Việc lựa chọn các đối tác
cần phải xem xét trong các mói quan hệ lợi ích. Việc lựa chọn các đối tác cần
phải xem xét trong các mối quan hệ kinh tế khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó là
việc tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực như IMF,
WB, WTO, ADB, AFTA, APEC… Trong quá trình ấy, các nước đang phát triển
sẽ phải thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư theo lộ trình với mức độ, hình
thức và thời gian phù hợp với khả năng của từng nước. Đồng thời trong hội nhập
quốc tế, các nước đang phát triển cũng cần quan tâm đến việc hợp tác với các
công ty xuyên quốc gia. Thực tế các công ty này đã tận dụng được lợi thế so sánh
của nhiều quốc gia và do vậy có hiệu quả kinh tế cao, đang và sẽ là chủ thể kinh
doanh của nền kinh tế toàn cầu. Như vậy, muốn có vốn, công nghệ mới cùng với
thị trường, các nước đang phát triển không thể không hợp tác với các công ty
xuyên quốc gia. Đó là cơ hội để các nước đang phát triển kết hợp sức mạnh của
nguồn lực trong và ngoài nước sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh
tranh cao trên thị trường quốc tế.
● Thành công và hạn chế

Thực tế cho thấy, chiến lược công nghiệp háo bền vững theo hướng hội
nhập phần nào khắc phục những lệch lạc và thái quá trong phát triển, tạo lập một
cơ chế phát triển cân đối hơn, năng động hơn với việc mở rộng liên kết quốc tế
và khu vực mạnh hơn, bảo vệ môi trường tốt hơn. Trên cơ sở đó, nền kinh tế của
các quốc gia sẽ khắc phục được những tác động tiêu cực trong công nghiệp hoá
mà các mô hình trước phải trả giá.Tuy nhiên, khi thực hiện mô hình công nghiệp
hoá bền vững theo hướng hội nhập, các nước sẽ gặp phải những khó khăn mới và
cũng là thách thức trong phát triển.

14


Thứ nhất, để đảm bảo phát triển bền vững, các nước nhiều khi phải chấp
nhận giảm nhịp độ tăng trương kinh tế, trong khi phải không ngừng tăng phúc lợi
xã hội và đầu tư bảo vệ môi trường. Như vậy, vấn đề việc làm, đời sống, đầu tư
cho phát triển sẽ bị hạn chế.
Thứ hai, nền kinh tế các nước đang phát triển còn ở điểm xuất phát thấp,
việc hội nhập quốc tế bên cạnh những thuận lợi, thì chiến lược hỗn hợp sẽ gặp
phải những khó khăn mới. Trong quá trình tự do hoá thương mại và tự do hóa
đầu tư, nền công nghiệp non trẻ của các nước sẽ vấp phải sự cạnh tranh gay gắt
hơn, cạnh tranh không không cân sắc với các doanh nghiệp đã lớn mạnh từ bên
ngoài. Bên cạnh đó, còn kéo theo sự lệ thuộc nhiều hơn về vốn, công nghệ và thị
trường vào các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, sự lệ thuộc về kinh tế
nhiều khi sẽ dẫn đến lệ thuộc về chính trị, làm ảnh hưởng đến chủ quyền an ninh
quốc gia.
Việc lựa chọn mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập
đang là vấn đề mới trong giai đoạn thử nghiệm và định hình. Điều chắc chắn
trong quá trình triển khai sẽ phát sinh những hạn chế mới. Đây là những vấn đề
mà các nước cần nắm bắt để điều chỉnh, khắc phục để đạt được mục tiêu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước mình.


15


Chương 2
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA HÀN QUỐC

2.1. Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu trong giai đoạn (1953-1962)
Sau chiến tranh 1953, Hàn Quốc vẫn phải dựa vào Mỹ cả về kinh tế lẫn
quân sự để tồn tại. Từ 1953 đến 1962, tổng số viện trợ kinh tế lên tới 2 tỷ USD,
viện trợ quân sự gần 1 tỷ USD. Trong thời gian này, gần 70% kim ngạch nhập
khẩu của hiện đại hoá là được tài trợ bằng khoản viện trợ này và 77% số tư bản
cố định mới cũng được hình thành từ đây. Viện trợ Mỹ cho Hàn Quốc là rất lớn,
tuy vậy nó vẫn không thể đáp ứng được những nhu cầu phát triển của Hàn Quốc.
Do vậy, Hàn Quốc vẫn phải tìm cách thoát ra khỏi những khó khăn về kinh tế và
tăng thêm khả năng tự lực để phát triển
Công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập khẩu được triển khai rộng rãi
ở Hàn Quốc. Bước vào công nghiệp hoá, là nước đi sau, Hàn Quốc phải đứng
trước một thực tế là thị trường thế giới đã phân chia xong giữa các cường quốc,
các công ty lớn. Do khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn yếu và giải
quyết nhu cầu hàng hoá tiêu dùng rất cấp bách trong đời sống nhân dân và để
giảm bớt sự lệ thuộc kinh tế vào các nước tư bản khi lực lượng tư sản dân tộc còn
non yếu, do đó, Hàn Quốc, công nghiệp hoá phải đi vào thị trường nội địa của
nước mình, đến độ trưởng thành sẽ chờ thời cơ đi vào thị trường thế giới. Điều
đó có nghĩa là công nghiệp hoá hướng vào phục vụ nhu cầu trong nước và thay
thế nhập khẩu.Trong giai đoạn (1953-1962), Hàn Quốc đi vào phục hồi, phát
triển các ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng và một số cơ sở công
nghiệp nặng để sản xuất các mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân
bón, hoá chất với qui nhỏ. Do vậy, vào những năm 1960-1961, các hàng nhu yếu
phẩm như lương thực, thực phẩm, vải bóc, quần áo chiếm gần 70% tổng số sản

phẩm hàng chế biến, chế tạo. 75% số hàng nhập khẩu của Hàn Quốc vẫn là hàng
tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được hay còn thiếu.
Khi theo đuôi chiến lược công nghiệp hoá hướng nội, nhà nước đã thi
hành hàng loạt biện pháp bảo hộ thị trường nội địa để hỗ trợ cho nền công nghiệp
non trẻ. Trong lĩnh vực tiền tệ, từ 1953-1962, đồng ngoại tệ luôn giữ tỷ giá cao
so với đồng Won của Hàn Quốc. Chính phủ còn sử dụng cả biểu thuế cao và hạn
chế số lượng nhập khẩu để bảo vệ thị trường trong nước và khuyến khích thay
thế nhập khẩu, hệ thống giấy phép nhập khẩu đã được áp dụng. Tuy đã có một số
biện pháp giúp một số ngành công nghiệp trong nước tiến hành xuất khẩu, nhưng
về cơ bản những biện pháp hướng nội vẫn là chủ yếu.

16


Mặc dù nền kinh tế đất nước đang đứng trước nhiều khó khăn, nhà nước
sớm ý thức được vai trò của giáo dục đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực.
Nhà nước đã thi hành phổ cập giáo dục trong toàn dân. Từ 1952-1956 tiền chi
cho giáo dục tạo gần 100 triệu USD rút ra từ tiền viện trợ. Số tiền chính phủ chi
cho giáo dục cũng tăng rất nhanh qua các năm, năm 1954 và 375 triệu Won, năm
1957 là 3217 triệu Won, năm 1960 là 6237 triệu Won(giá cuối thập kỷ 80), so
với chi ngân sách nhà nước thì chi phí này lần lượt đạt mức 4%, 9,2% và 14,9%.
Việc huy động sự đóng góp của các gia đình cho giáo dục đào tạo chiếm tới 2/3
tổng chi phí trực tiếp cho giáo dục. Thành tựu đạt được trong giáo dục đào tạo
mang ý nghĩa chính trị nhiều hơn, còn tác động trực tiếp đến sản xuất vẫn còn
hạn chế.
Nhìn chung trong giai đoạn (1953-1962), kết quả đạt được khi công
nghiệp hoá hướng nội còn ở mức độ thấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
hàng năm 3,7%. Xuất khẩu khong đáng kể chỉ đạt 1% tổng thu nhập quốc dân.
Vốn dùng cho phục hồi kinh tế và phát triển các ngành công nghiệp mới tạo sản
phẩm thay thế nhập khẩu chủ yếu dựa vào viện trợ từ nước ngoài trong đó mỹ

đóng vai trò chính. Kinh tế Hàn Quốc vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thu nhập
quốc dân bình quân đầu người thấp, năm 1953 là 67 USD, năm 1962 là 87 USD.
Do vậy, vốn cho phát triển kinh tế huy động dựa vào tiết kiệm trong nước rất hạn
chế. Mục tiêu giai đoạn (1953-1962) là đáp ứng những nhu cầu tối thểu và ổn
định kinh tế xã hội không đạt được.
Nguyên nhân dẫn tới thực trạng kinh tế trên là do chiến lược công nghiệp
hoá chưa rõ ràng, trước hết là định hướng thị trường quá cứng nhắc do tập trung
hướng nội nên phần lớn các chính sách nhằm vào hỗ trợ cho các ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu và ít khuyến khích các ngành xuất khẩu hoặc các hoạt
động xuất khẩu. Do vậy, những ngành công nghệp dân tộc non trẻ đã vấp phải
giới hạn của thị trường trong nước với đặc điểm thị trường nhỏ hẹp, sức mua dân
cư thấp vì thu nhập thấp và lẽ tất yếu nhịp độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm
xuống. Trong khi ấy, nhu cầu nhập khẩu máy móc công nghệ, nguyên liệu cho
công nghiệp trong nước vẫn tăng nhưng lại không có ngoại tệ. Từ đó cho thấy,
công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã bộc lộ những mâu thuẫn trong phát triển.
Việc lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu như vậy không chỉ
không phù hợp với điều kiện trong nước mà còn không phù hợp với tình hình
kinh tế quốc tế khi trật tự phân công lao động quốc tế đang hình thành, xu hướng
liên kết kinh tế đang diễn ra. Việc hướng công nghiệp hoá vào thị trường nội địa
để cung cấp nhu cầu thiết yếu cho người dân, giảm bớt mất cân đối về cung cầu,
thay thế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ và góp phần ổn định xã hội trong thời kỳ

17


nhất định, đặt trong hoàn cảnh cụ thể là cần thiết. Tuy nhiên, do những hạn chế
đã nêu trên nên càng về sau tốc độ tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc càng giảm.
Đến năm 1960, tăng trưởng GDP của Hàn Quốc chỉ đạt 1,9%. Thực tế
công nghiệp hoá hướng nội không hiệu quả lao động do những "bóp méo" mà sự
can thiệp quá mức của nhà nước vào các thị trường khác nhau gây ra… Chính

sách thay thế nhập khẩu và bảo hộ cho tất cả các đối tượng đã cho phép các công
ty kém hiệu quả tồn tại và như vậy xuất khẩu bị kìm hãm. Điều này, đã làm cho
ngoại tệ thiếu lại càng thiếu hơn và tạo áp lực ngày càng tăng cho việc hạn chế
nhập khẩu. Tình hình ấy kéo theo những bất ổn định về kinh tế - xã hội, thất
nghiệp và lạm phát gia tăng, tình hình chính trị cũng rối loạn. Kết thúc giai đoạn
phát triển (1953-1962) mang tính chất thử nghiệm theo mô hình công nghiệp hoá
theo hướng thay thế nhập khẩu là sự sụp đổ của chính phủ Lý Thừa Vãn.
2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1962-1971: quá độ chuyển từ
hướng nội sang hướng ngoại
2.2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội
Từ 1962, khi đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm (1962-1966), Hàn
Quốc đứng trước hai hướng lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế. Hướng thứ
nhất là chiến lược phát triển hướng nội với cốt lõi là thay thế nhập khẩu và
hướng thứ hai là hướng ngoại, coi trọng sự phát triển ngoại thương làm động lực
thúc đẩy kinh tế phát triển. Thực tế, những năm đầu của kế hoạch 5 năm, Hàn
Quốc chú trọng chiến lược công nghiệp hoá hướng nội… Chiến lược công
nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có một số tác động tích cực với tình hình kinh tế xã hội khi đó. Việc mở mang sản xuất đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động. Quá trình đô thị hoá cũng bắt đầu diễn ra làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt
kinh tế của đất nước. Những công ty sản xuất thay thế hàng nhập khẩu khi cọ sát
với thương trường, ngoài việc tìm kiếm bạn hàng trong nước, họ đã mời tư bản
nước ngoài vào liên doanh, hợp doanh trong những lĩnh vực có công nghệ phức
tạp và khó khăn về tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp trong nước đã tổ chức
sản xuất theo kiểu quan hệ trung tâm với ngoại vi, nghĩa là duy trì một số ít cơ sở
sản xuất những bộ phận chủ yếu và một số mạng lưới nhỏ cơ sở chân rét (dưới
hình thức tư nhân, gia công tại nhà) để tạo ra những cấu kiện phụ. Khi sản phẩm
cuối cùng được lắp ráp có thể tiêu thụ ở trong nước hoặc ở nước ngoài thông qua
vai trò trung gian của những công ty ngoại quốc có quan hệ làm ăn với họ. Bằng
cung cách kinh doanh như vậy, một số công ty đã chủ động tạo ra những lợi thế
cạnh tranh tương đối cho đến khi họ tự đứng vững với tư cách là doanh nghiệp
độc lập. Chính từ những loại hình doanh nghiệp này, đã tạo dựng lên đội ngũ

những nhà doanh nghiệp giỏi sau này bước vào thương trường và có đủ khả năng

18


ứng phó với những biến động khi hưng thịnh cũng như khi suy thoái ở thị trường
trong và ngoài nước.
Tuy vậy, do thiếu nguồn tài nguyên thiên nhiên cộng với thị trường trong
nước nhỏ bé, những năm cuối kế hoạch 5 năm này Hàn Quốc đã chuyển dần sang
con đường phát triển thứ hai. Điều cốt lõi là thúc đẩy các ngành sản xuất, chế
biến xuất khẩu, sử dụng nhiều nhân công mà Hàn Quốc có lợi thế tương đối. Để
thực heịen chiến lược này, Hàn Quốc chú trọng khơi dậy động lực của kinh tế thị
trường.Tình hình chính trị trong nước giai đoạn 1962-1971 có những thay đổi,
chính phủ Hàn Quốc cũng lấy quan điểm hiện đại hoá nhanh thay cho quan điểm
phát triển tự lực và ổn định. Hiện đại hoá nhanh nhằm rút ngắn khoảng cách với
các nước tiên tiến và sẽ tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, tăng khả năng giải
quyết đói nghèo và sẽ tạo ra sự ổn định xã hội. Đồng thời, định hướng mới về
chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã mở đường cho chính sách hướng
ngoại nhằm khai thác các nguồn lực phát triển từ bên ngoài. Như vậy về cơ bản
từ 1962-1971, quan điểm hướng nội, tự lực, tự cường, kém hiệu quả đã được thay
thế một cách dứt khoát cho phép Hàn Quốc có thể nhanh chóng khai thác những
lợi thế so sánh và tận dụng những cơ hội thuận lợi để phát triển trong môii trường
kinh tế quốc tế mới. Có thể nói vào thập niên 60, Hàn Quốc tiến hành công
nghiệp hoá trong bối cảnh tình hình kinh tế quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Đây là
giai đoạn nền kinh tế thế giới được mở rộng, mức tăng trưởng GDP toàn thế giới
những năm 50 là 4,2%, những năm 60 là 5,2%. Cũng trong thời gian ấy, tăng
trưởng thương mại tăng từ 6,3% lên 8,4%
2.2.2. Chính sách và giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Về huy động vốn
Bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để giải quyết khó khăn về nguồn

vốn cho đầu tư phát triển, Hàn Quốc đã có chính sách huy động tối đa các nguồn
vốn trong nước, đồng thời chú trọng thu hút nguồn vốn nước ngoài. Sự tăng
trưởng nền kinh tế thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho Hàn Quốc tìm kiếm vay
vốn nước ngoài. Ngay trong giai đoạn 1962-1971, trong công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Hàn Quốc có vai trò rất quan trọng của đầu tư trực tiếp và vốn vay từ
nước ngoài. Hàn Quốc đã tiến hành cải cách hệ thống tỷ giá hối đoái vào năm
1964, thay thế chế độ tỷ giá cố định bằng chế độ tỷ giá linh hoạt. Hệ thống tỷ giá
linh hoạt này đã làm cho đồng Won của Hàn Quốc thực sự gắn bó với đồng đô la
Mỹ và bị chi phối bởi những qui định của IMF, đó là thuận lợi để thu hút đầu tư
từ bên ngoài. Để khuyến khích thu hút nguồn vốn nước ngoài bổ sung cho phần
tích luỹ trong nước còn thiếu, chính phủ Hàn Quốc đã ban hành Đạo luật tổng
hợp về thúc đẩy vốn đầu tư nước ngoài, trong đó cam kết bảo hiểm rủi ro. Năm

19


1960, Hàn Quốc ban hành bộ luật đầu tư và sau hai năm thì luật này được triển
khai, dòng đầu tư nước ngoài bắt đầu chảy vào Hàn Quốc ngày càng tăng lên.
Trong giai đoạn 1962-1971 nguồn vốn nước ngoài vào Hàn Quốc đã lên
tới 2,5 tỷ USD chủ yếu bằng nguồn vốn vay. Thông qua hoạt động đầu tư nước
ngoài, tuy ít nhưng đã tạo cơ hội cho Hàn Quốc tiếp thu và sư dụng kỹ thuật mới,
kinh nghiệm quản lý sản xuất tiên tiến.
Bảng 2.1: Đầu tư của tư bản nước ngoài vào Hàn Quốc 1962-1971
(Theo giá của thời điểm đầu tư)
Năm

Triệu USD

Năm


Triệu USD

1962

8,0

1967

62,8

1963

3,5

1968

52,3

1964

2,9

1969

91,0

1965

161,5


1970

73

1966

8,0

1971

127,0

(Nguồn: IMF, International Financial Statistics Yearbook 1984, tr.176;
EPB, Major Statistics of Korean Economy 1986, bảng 9-11, tr.205.)
Về huy động vốn trong nước, sau khi thử nghiệm chính sách "Đồng tiền
rẻ" (giữ lãi suất tiền vay và cho vay thấp) không thành công vì lạm phát cao làm
giảm lãi suất thực tế, nhiều khi âm nên không thu hút được nguồn tiết kiệm trong
dân cư. Do vậy, chính sách huy động vốn trong nước đã có sự thay đổi: năm
1965, ngân hàng Hàn Quốc đã nâng lãi suất tiền gửi từ 12% lên 12,5%. Kết quả
nguồn tiền tiết kiệm gửi vào ngân hàng thương mại tăng gấp đôi mỗi năm. Tiền
gửi tiết kiệm so với tổng thu nhập quốc dân đã tăng từ 3,8% năm 1965 lên 21,7%
năm 1969. Thực tế cho thấy, khoảng 1/5 quỹ thu nhập của dân cư đã không
chuyển sang quỹ tiêu dùng mà được tái đầu tư để công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Việc này tuy có giảm sức mua của thị trường nội địa, nhưng nó có tác động tích
cực tới khu vực công nghiệp xuất khẩu đồng thời tạo được niềm tin cho thị
trường nội địa sau này.
Để có thị trường vốn lớn hơn, chính phủ Hàn Quốc đa dạng hoá hệ thống
tài chính. Ngoài các ngân hàng, nhà nước còn cho phép thành lập các tổ chức tài
chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, tổ chức uỷ thác, các công ty tài chính
ngắn hạn và các thị trường chứng khoán. Tổng giá trị các quỹ tăng 82 lần, từ 209

triệu USD năm 1965 lên 17.079 triệu USD năm 1980. Trong khi đó cũng giai

20


đoạn này, thu nhập quốc dân (GNP) chỉ tăng 24 lần. Điều đáng lưu ý là tỷ lệ của
các nguồn mới gửi vào ngân hàng đã giảm, trong khi ấy tỷ trọng gửi vào các
nguồn phi ngân hàng lại tăng lên. Nó chứng tỏ tầm quan trọng của các tổ chức
phi ngân hàng ngày càng tăng trong thị trường tài chính và càng chứng tỏ chủ
trương đúng của nhà nước với việc mở rộng kênh thu nhận tiền vốn tiết kiệm.
Hoạt động tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình
tạo vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hàn Quốc. Thực tế cho thấy, vai trò
của tổ chức tài chính là huy động tiết kiệm được thấy rất rõ khi chấp nhận lãi suất
cao vào tháng 9-1965. Hiệu quả của cải cách lãi suất năm 1965 với việc động
viên các nguồn vốn trong nước là rất lớn. Tiền gửi ngân hàng tăng rất nhanh, tỷ
lệ tiền gửi/GDP tăng từ 18,5% trong giai đoạn 1965-1970 lên 30,2% trong giai
đoạn1971-1973. Tuy nhiên, cải cách lãi suất năm 1965 quá ngắn để duy trì động
lực ban đầu nó đã tạo ra. Sau 1968, lãi suất ngân hàng bắt đầu hạ xuống theo
nhiều giai đoạn và xuống mức thấp nhất vào trước cải cách năm 1972.
Một vai trò khác của hệ thống ngân hàng của Hàn Quốc là tạo điều kiện
cho các nguồn vốn của nước ngoài chảy vào bằng cách ngân hàng đã đứng ra bảo
lãnh. Từ năm 1966, các ngân hàng thương mại đã gia nhập ngân hàng phát triển
Hàn Quốc (KDB) và trở thành các thành viên tích cực trong các hoạt động bảo
lãnh vay vốn nước ngoài trên quy mô lớn. Theo sự chỉ đạo của chính phủ, trước
đó năm 1960 đã thành lập các tổ chức tài chính mới tham gia vào các hoạt động
tín dụng. Ngân hàng công nghiệp (MIB) và ngân hàng quốc gia Citizens đã được
thành lập năm 1961, thêm vào đó là ngân hàng ngoại hối Hàn Quốc (KEB) và
ngân hàng nhà ở Hàn Quốc cũng được thành lập năm 1967. Vào đầu năm 1970,
để giảm bớt thị trường tiền tệ không chính thức (UMM) bằng cách thiết lập các
thể chế tài chính phi ngân hàng và khuyến khích sự phát triển của thị trường vốn

đã góp phần quan trọng đa dạng hoá thị trường tài chính của Hàn Quốc. Với sắc
lệnh của tổng thống (8-1972) đã làm tê liệt tài chính không chính thức (UMM),
các công ty tài chính ngắn hạn, các công ty tài chính và tiết kiệm tương hỗ đã
được thành lập và các tổ chức tín dụng đã được hiện đại hoá. Sự phát triển của
các tổ chức này tuy bị ảnh hưởng bởi các hạn chế tác nghiệp khác nhau, trong đó
có cả vấn đề lãi suất nhưng chúng tỏ ra thành công trong thu hút nguồn vốn.
Song song với chính sách khuyến khích tiết kiệm, thuế cũng là nguồn thu
cho ngân sách nhà nước. Thuế đánh vào thu nhập cá nhân của khu vực phi công
nghiệp năm 1965 là 1,28% trong tổng thu nhập quốc dân, năm 1970 là 3,51%
trong tổng thu nhập quốc dân. Nhằm thu nhập từ thuế nhiều hơn cho phát triển
công nghiệp, Nhà nước trong một giai đoạn nhất định đã cố gắng giảm bớt chi
phí cả trong lĩnh vực quân sự và dân sự để tập trung đầu tư cho phát triển kinh tế.
Với chủ trương huy động vốn bằng việc đẩy nhanh tích luỹ trong nước, bằng

21


những biện pháp trên, vốn tích lũy từ các nguồn trong nước trong tổng số đầu tư
tăng từ 25% năm 1962 lên 60,9% năm 1971 và tỷ lệ đầu tư trong tổng thu nhập
quốc dân cũng trong thời gian ấy tăng từ 15% lên 25%. Phần đầu tư từ viện trợ
nước ngoài trong tổng đầu tư giảm mạnh, từ 50% vào đầu những năm 1960
xuống 20% vào cuối thập kỷ này
- Chính sách đầu tư và hỗ trợ công nghiệp, xuất khẩu
 Chính sách đầu tư phát triển
Để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhà nước đã khuyến khích
giới công thương trong nước kinh doanh phát triển công nghiệp. Các nhà doanh
nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, được phép chuyển đổi ngoại hối với tỷ giá
ưu đãi, được miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên liệu
cần thiết cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới, cho phép khấu hao thiết
bị nhanh. Nhà nước còn tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp mua đất công

với giá rẻ và được hưởng một phần cơ sở hạ tầng đặc biệt. Nhà nước đã áp dụng
chính sách bảo hộ mậu dịch nghiêm ngặt đối với một số sản phẩm nếu nhập từ
nước ngoài mà có thể cạnh tranh với hàng công nghiệp nội địa như hàng công
nghiệp nhẹ. Tư bản trong nước được ưu tiên những ngành, những lĩnh vực cần ít
vốn, quay vòng nhanh và có tỷ suất lợi nhuận cao như hàng lương thực, thực
phẩm, may mặc. Trong khi đó, nhà nước khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư,
nhưng ở một số ngành, lĩnh vực nhất định như điện tử, sắt thép.
Bảng 2.2. Đầu tư và tiết kiệm của Hàn Quốc 1962-1972
Kế hoạch 5 năm

1962 – 1966

1967 – 1971

582

2.869

- Số tuyệt đối ( tỷ Won )

300

1.744

- Tỷ lệ trong tổng đầu tư ( %)

51,6

60,8


- Số tuyệt đối ( tỷ Won)

279

1.134

- Tỷ lệ trong tổng đầu tư (%)

47,9

39,5

Các chỉ tiêu
Tổng đầu tư trong nước ( tỷ Won)
Tổng tiết kiệm trong nước:

Tổng vốn nước ngoài:

(Nguồn: Korea in the World economy, 1993)
Thực hiện mục tiêu kinh tế là xây dựng những ngành công nghiệp cơ bản
và hạ tầng cơ sở quốc gia, phần đầu tư từ ngân sách vào khu vực kinh tế Nhà

22


nước đã tăng lên từ 4% GDP vào thời gian (1963-1965) lên gần 6% GDP những
năm sau đó. Đến cuối thập kỷ 60, Hàn Quốc đã có trên 100 doanh nghiệp quốc
doanh, trong đó có những doanh nghiệp có quy mô lớn như KEPCO, POSCO.
Cũng vào thời gian này, các doanh nghiệp nhà nước của Hàn Quốc chiếm tỷ
trọng 30-35% vốn đầu tư.

 Chính sách hỗ trợ công nghiệp và xuất khẩu
Dựa vào các mục tiêu của các kế hoạch 5 năm, nhà nước quyết định việc
phân bổ vốn đã và đang tích luỹ được để hỗ trợ cho công nghiệp và hoạt động
xuất khẩu. Ngân hàng Hàn Quốc với tư cách là ngân hàng trung tâm chịu trách
nhiệm chi phối hoạt động này, Hội đồng quản lý tiền tệ và tài chính do Bộ trưởng
Tài chính đứng đầu sẽ quyết định các khoản cho vay, định lãi suất, định cung tiền
và tín dụng theo kênh nhà nước. Ngân hàng đồng thời cũng có nhiệm vụ chi phối
hoạt động của các tổ chức phi ngân hàng bằng cách qui định lãi suất của mình.
Ngoài ngân hàng trung ương, nhà nước còn cho thành lập hàng loạt ngân hàng
chuyên doanh như ngân hàng phục vụ công nghiệp (1961), Ngân hàng nhân dân
(1963), Ngân hàng xây dựng nhà ở (1967) v.v.. Các khoản cho vay từ chính phủ
và Ngân hàng Hàn Quốc là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của các ngân hàng
chuyên doanh. Nhìn chung các khoản tín dụng này đều nằm dưới sự gím sát trực
tiếp của Bộ Tài chính.
Theo đuổi chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, hệ thống
chính sách kích thích xuất khẩu phần nào đã được đưa ra vào năm 1964. Ngay từ
đầu năm 1964, đồng Won đã được phá giá 100% và tỷ giá hối đoái thả nổi thống
nhất có hiệu lực từ tháng 3-1965. Lãi suất với các nhà xuất khẩu giảm xuống còn
6,5% vào tháng 9-1965, trong khi ấy lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại
tăng từ 16% lên 26%. Năm 1965, nhà nước ch phép khấu trừ hao hụt đối với
nguyên liệu nhập khẩu để làm hàng xuất khẩu và cho phép cả mức điện năng ưu
đãi. Thuế hải quan đối với nhập khẩu thiết bị được miễn vào năm 1966. Năm
1966, hệ thống kết hợp xuất khẩu cho phép các nhà xuất khẩu nhập các hàng hoá
mà trước đây không đợc bán trong nước. Khấu hao gia tăng với tài sản cố định
được ban hành vào năm 1968 và các nhà sản xuất xuất khẩu được phép vay ngoại
tệ để nhập khẩu thiết bị, máy móc đặc biệt là phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
Kích thích quan trọng nhất với hoạt động xuất khẩu là tín dụng xuất khẩu
ưu đãi mà lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại.
Việc cung cấp tín dụng cho xuất khẩu không hạn chế với lãi suất ưu đãi. Nhà
nước đã tạo ra những ưu đãi rất lớn cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu trong

một nền kinh tế mà ở đó chính phủ kiểm soát tín dụng một cách chặt chẽ và việc
vay của các tổ chức ngân hàng không phải là dễ dàng.Bên cạnh những biện pháp

23


×