Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

đề cương môn nguyên lí 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.2 KB, 15 trang )

1. Bằng những lý luận đã học và những hiểu biết thực tiễn anh, chị hãy cho biết
trong xã hội nước ta hiện nay có những giai cấp, tầng lớp nào và hiện tượng
người bóc lột người có tồn tại hay không? Vì sao?
Nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ này có nhiều
hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, có nhiều loại hình kinh tế (hay thành
phần kinh tế) khác nhau cùng tồn tại. Do đó trong xã hội cũng tồn tại nhiều giai cấp
và tầng lớp khác nhau.
Trong xã hội nước ta hiện nay có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức, tầng lớp doanh nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Ở nước ta chế độ người bóc lột người đã bị xóa bỏ, về cơ bản giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác đã trở thành
những người làm chủ đất nước (trên tất cả các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội…). Nhưng hiện tượng có một bộ phận người này bóc lột một bộ phận người khác
vẫn còn tồn tại (chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ). Trong đó một bộ phận người lao
động hiện nay đang làm việc trong các cơ sở kinh tế tư nhân (của người Việt và người
nước ngoài) còn bị bóc lột sức lao động ở các mức độ khác nhau. Vì những cơ sở
kinh tế đó, tư liệu sản xuất chủ yếu và quyền điều hành sản xuất còn nằm trong tay
các chủ sử dụng lao động là các nhà tư bản.
2. Liên hệ đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu.
Bởi lẽ, vẫn còn những lực lượng đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động, của dân
tộc và nhà nước ta. Hơn nữa chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH cho nên
cuộc đấu tranh giai cấp vẫn là tất yếu. Tuy nhiên việc xác định cơ cấu giai cấp và đặc
điểm của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đang là vấn đề
phải tiếp tục giải quyết trên cơ sở giữ vững định hướng và có tư duy mới. Chúng ta
đang thực hiện sự quá độ lên CHNX bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình
đó, nhất thiết phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có
thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn khách quan giữa 2
khuynh hướng phát triển kinh tế, một là sự phát triển theo khuynh hướng XHCN, hai
là khuynh hướng phát triển tự phát TBCN. Vì vậy thực chất của đấu tranh giai cấp ở
đây vẫn là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và các thế lực thù


địch đi ngược lại Độc lập dân tộc và CNXH. Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện
nay là phức tạp. Bởi lẽ đối tượng của cuộc đấu tranh không trực tiếp, rõ ràng như
1

1


trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Kẻ thù của cách mạng ẩn dấu đằng sau các
vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội.. Đã vậy hiện thực hệ thống XHCN ở Liên Xô cũ và
Đông Âu tạm thời suy thoái. Một bộ phận cán bộ Đảng viên thái hóa biến chất. Kẻ
thù dùng mọi thủ đoạn đặc biệt là diễn biến hòa bình chống phá cách mạng.
-Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, khắc
phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp
bức, bất công, đấu tranh, ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu
cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế
lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, dân tộc, xây
dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời Đảng ta
cũng khẳng định: Động lực chủ yếu đề phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đản lãnh đạo, kết
hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
3. Biện chứng của cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc thượng tầng (KTTT)
A.Khái niệm CSHT và KTTT
a, Khái niệm CSHT
Khái niệm CSHT dùng để chỉ toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội, CSHT của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó, được tạo nên bởi các
Quan hệ sản xuất thống trị, Quan hệ sản xuất tàn dư, và Quan hệ sản xuất mới tồn tại
dưới hình thái mầm mống, đại biểu cho sự phát triển của xã hội tương lai, trong đó

QHSX Thống trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các QHSX khác, định hướng sự phát
triển của đời sống kinh tế- xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của 1
xã hội nhất định.
b, Khái niệm KTTT
Khái niệm KTTT dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội
cùng với các thiết chế chính trị -xã hội tương ứng được hình thành trên 1 CSHT nhất
định. Từ giác độ chung nhất có thể thấy KTTT của một xã hội bao gồm: hệ thống các
hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo…) và các
thiết chế chính trị-xã hội tương ứng của chúng như (nhà nước chính đảng, giáo hội…)
Trong xã hội có giai cấp, hình thái ý thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết
2

2


chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là 2 thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong
KTTT của xã hội. Nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã
hội để quản lý, điều khiển mọi hoạt của xã hội, thực hiện chức năng đối nội và đối
ngoại. Về thực chất bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ quyền lực thực hiện chuyên
chính giai cấp của giai cấp thống trị, tức giai cấp nắm giữ những tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội.
B. Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
CSHT và KTTT là 2 phương diện cơ bản của đời sống xã hội-đó là phương diện kinh
tế và phương diện chính trị xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện
chứng với nhau, tác động lẫn nhau trong đó CSHT đóng vai trò quyết định đối với
KTTT, đồng thời KTTT thường xuyên có sự tác động trở lại CSHT.
a, Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT
Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT được thể hiện trên nhiều phương diện:
- Tương ứng với một CSHT nhất định sẽ sản sinh ra một KTTT phù hợp, có tác dụng
bảo vệ CSHT đó.

- Những biến đổi trong CSHT tạo ra sự biến đổi tương ứng trong KTTT.
- Mâu thuẫn trong CSHT được phản ánh thành mâu thuẫn trong hệ thống KTTT.
- Sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức xã hội và những xung đột chính trị-xã hội có
nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế
của xã hội.
- Giai cấp nắm giữ quyền sở hữu TLSX của xã hội, đồng thời cũng là giai cấp nắm
được quyền lực nhà nước trong KTTT.
- Các đường lối chính sách và pháp luật của nhà nước suy đến cùng chỉ là phản ánh
sự thồng trị về kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu nhưng TLSX chủ yếu của
xã hội… Như vậy, CSHT quyết định KTTT, còn KTTT là sự phản ánh đối với CSHT,
phụ thuộc vào CSHT.
b, Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
Các yếu tố thuộc KTTT có vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên có vai trò
tác động trở lại CSHT của xã hội. Sự tác động của KTTT đối với CSHT có thể thông
qua nhiều phương thức và hiệu lực khác nhau. Tuy nhiên trong điều kiện KTTT có
yếu tố nhà nước thì nhà nước là yếu tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới
CSHT của xã hội.
Sự tác động của KTTT đối với CSHT có thể diễn rag theo xu hướng tích cực hoặc
tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp hay không phù hợp của các yếu tố thuộc
KTTT đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, nếu phù hợp nó sẽ có tác
3

3


dụng tích cực, ngược lại sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển
kinh tế trong 1 phạm vi và mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động của KTTT đối
với CSHT dù diễn ra với những xu hướng khác nhau, mức độ khác nhau, nhưng rốt
cuộc nó không thể giữ vai trò quyết định đối với CSHT của xã hội; CSHT của xã hội
vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu kinh tế của nó.

4. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của
xã hội có đối kháng giai cấp.
a,Khái niệm giai cấp
Định nghĩa của V.I.Leenin về giai cấp: Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lê-nin đã
định nghĩa giai cấp như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn, to lớn, gồm
những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng
thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”.
Từ khái niệm trên cho thấy:
- Giai cấp là kết quả của sự phân hóa xã hội do có sự đối lập giữa họ về địa vị trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định. (thực chất của sự phân hóa những con người
trong một cộng đồng xã hội thành các giai cấp khác nhau, đối lập nhau là do có sự
khác nhau, đối lập nhau về địa vị của họ trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định)
- Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh: Giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội thì cũng đồng thời có được khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền
lực chính trị và quyền lực nhà nước và có khả năng trở thành giai cấp thống trị xã
hội.
b, Nguồn gốc giai cấp.
Sự tồn tại giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp khồn phải là bản tính của nhân
loại, là tiền định mà chỉ là hiện tượng có tính lịch sử, gắn với những giai đoạn lịch sử
nhất định của sản xuất, của lịch sử nhân loại.
- Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do sự ra đời và
tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là đối với những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, bởi vì chỉ có trong điều kiện đó mới có khả năng
khách quan để làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn người
trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó dẫn đến khả năng tập đoàn này có thể chiếm
đoạt lao động thặng dư của tập đoàn người khác. Tuy nhiên, nếu chỉ có chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn chưa đủ làm phát sinh giai cấp trong xã hội nếu
4


4


chưa có sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một mức độ làm cho năng suất lao
động tăng lên, dẫn đến xuất hiện của cải dư thừa tương đối.
- Vì vậy, nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do tình
trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất đã đạt đến trình độ xã hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên
nhân khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do
đó sẽ dẫn đến sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã hội.
Con đường hình thành giai cấp có thê diễn ra với những hình thức, mức độ khác nhau
trong lịch sử. Tuy nhiên có thể khái quát quá trình hình thành, phát triển giai cấp diễn
ra chủ yếu dưới sự tác động của nhân tố bạo lực và dưới tác động của quy luật kinh tế
phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội. Ngoài ra
trong thực tế lịch sử còn diễn ra quá trình tác động đồng thời của cả 2 nhân tố trên.
c, Đấu tranh giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển
của xã hội.
-Khái niệm đấu tranh giai cấp và các hình thức đấu tranh giai cấp: Theo V.I.Lê-nin,
khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản
chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”
Tùy theo điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp có thể biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: Đấu
tranh kinh tế. đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị….Trong thực tế lịch sử đấu tranh
giai cấp còn có thể mang hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa…
Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động
làm thuê, những người nô lệ, nhằm duy trì và thực hiện sự bóc lột của nó, các giai cấp
thống trị tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức- đó là nhà nước với

những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì sự thống trị của giai
cấp thống trị. Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của
cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội .
Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả tất yếu của đấu tranh giai cấp trong xã
hội có đối kháng giai cấp. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không phải là để giải
quyết mâu thuẫn giai cấp mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu thuẫn
không giải quyết được.
Nhà nước là công cụ bạo lực để trấn áp giai cấp, duy trì địa vị của giai cấp thống trị,
nó là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị, bị bóc lột.
5

5


Trong lịch sử đã tồn tại nhiều kiểu nhà nước khác nhau: nhà nước chủ nô, nhà nước
phong kiến, nhà nước tư sản nhưng bản chất của nó là công cụ chuyên chính của giai
cấp bóc lột. Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới, là nhà nước không
còn nguyên nghĩa đen của nó, tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là
công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế- xã hội của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động.
-Vai trò của đấu tranh giai cấp:
Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực cơ bản của sự tiến bộ, phát
triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.
Lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa đến nay về thực chất chỉ là lịch sử của những
cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng với những mức
độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh của những người nô
lệ chống lại ách áp bức, bóc lột của giai cấp chủ nô, cuộc đấu tranh của những người
nông dân làm thuê chống lại ách áp bức, bóc lột của địa chủ, chúa đất, cuộc đấu tranh
của những người công nhân làm thuê chống lại sự thống trị của giai cấp tư sản. Kết
quả của cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông

qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, trong điều kiện xã hội có giai cấp đối kháng thì sự phát triển của xã hội chỉ
có thể được thực hiện thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết
những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Trong trường
hợp này đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực cơ bản của sự phát triển lịch sử mà
còn là phương thức cơ bản của sự tiến bộ và phát triển xã hội.
Phương thức và động lực cơ bản của sự tiến bộ, phát triển xã hội là do sự vận động
của mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân
hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó được bộc lộ ra thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai
cấp trong đời sống chính trị - xã hội, do vậy mà mâu thuẫn đối kháng trong đời sống
kinh tế chỉ có thể được giải quyết thông qua mâu thuẫn đối kháng trên lĩnh vực chính
trị- xã hội.
5.Quy luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất (LLSX)
A. Khái niệm LLSX, QHSX
-Bất kỳ 1 quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về người
lao động (năng lực, kỹ năng, tri thức…của người lao động) cùng các tư liệu sản xuất
6

6


nhất định (như đối tượng lao động (ĐTLĐ), công cụ lao động (CCLĐ), các tư liệu
phụ trợ của quá trình sản xuất (TLPT)…) Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành LLSX của
các quá trình sản xuất.
-LLSX là tổng hợp các yếu tố vật chất, tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải
biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người.
-Trình đọ phát triển của LLSX phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con
người. Trong các nhân tố tạo thành LLSX, người lao động là nhân tố giữ vai trò quyết
định, công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của LLSX.

-LLSX là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất.
Thế nhưng chỉ có LLSX vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất mà còn cần phải có
những QHSX đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy.
+QHSX là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, QHSX bao
gồm: Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, Quan hệ trong tổ chức-quản lý quá
trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Trong 3
mặt của QHSX quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
B. Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX
*Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó
LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX.
LLSX và QHSX là 2 mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó LLSX là nội
dung vật chất của quá trình sản xuất, còn QHSX là “hình thức xã hội” của quá trình
đó.
-LLSX quyết định QHSX thể hiện:
Tương ứng với trình độ phát triển nhất định của LLSX cũng tất yếu đòi hỏi phải có
QHSX phù hợp với trình độ đó trên cả 3 phương diện: sở hữu TLSX, tổ chức-quản lý
quá trình sản xuất, và phân phối kết quả của quá trình sản xuất. Chỉ có như vậy,
LLSX mới có thể duy trì, khai thác-sử dụng và không ngừng phát triển.
-Sự tác động trở lại của QHSX với LLSX:
QHSX, với tư cách là hình thức kinh tế- xã hội của quá trình sản xuất, luôn luôn có
khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của LLSX. Sự tác động này có thể
diễn ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp
hay không phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX. Nếu phù hợp sẽ có
tác động tích cực và ngược lại, không phù hợp sẽ có tác dụng tiêu cực.
*Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng có bao
hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
-LLSX và QHSX thống nhất với nhau trong một phương thức sản xuất, tạo nên sự ổn
7

7



định tương đối, đảm bảo sự tương thích (sự phù hợp) giữa LLSX và QHSX, tạo điều
kiện cho sản xuất phát triển.
-Nhưng xu hướng của LLSX là không ngừng biến đổi và phát triển, tạo ra khả năng
phá vỡ sự thống nhất giữa LLSX và QHSX. Những QHSX từ chỗ là những hình thức
phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của LLSX đã trở thành những hình thức kìm
hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, từ đó xuất hiện
nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên
tắc QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
-Sự vận động của mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là một quá trình đi từ sự thống
nhất đến những khác biệt và đối lập, xung đột gay gắt, mâu thuẫn đòi hỏi phải được
giải quyết theo nguyên tắc QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Sự
vận động của mâu thuẫn này cũng theo quy luật “từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại”, “quy luật phủ định của phủ định” khiến cho
quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội vừa diễn ra có tính chất tiệm tiến, tuần tự
lại vừa có tính nhảy vọt, đột biến, kế thừa, vượt quá ở trình độ ngày càng cao hơn.
Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa LLSX và QHSX là nguồn gốc và động
lực cơ bản của sự vận động phát triển của các phương thức sản xuất. Nó là cơ sở để
giải thích toàn bộ hiện tượng xã hội và sự biến động trong đời sống chính trị, văn hóa
của xã hội.
Tóm lại: Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ
biến tác động trong toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại qua các chế độ
xã hội khác nhau từ thấp đến cao (từ phương thức sản xuất nguyên thủy đến phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa) mà nguồn gốc sâu xa của sự thay thế đó là do sự vẫn
động của mâu thuẫn biện chứng giữa LLSX và QHSX.
6. Vận dụng quy luật lượng – chất
*Nội dung quy luật: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi
dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của

lượng mới. Qúa trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát
triển, biến đổi.
*Từ việc nghiên cứu quy luật chuyến hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay đồi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp
luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong trường Đại học như sau:
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần
8

8


dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và
việc học tập của sinh viên chúng ta cũng sẽ không thể nằm ngoài điều đó. Để có một
tấm bằng Đại học chúng ta phải tích lũy đủ kiến thức, tri thức trong suốt quá trình
học tập từ khi nhập học. Chúng ta cần tích lũy đủ số lượng các đơn vị học trình của
các môn học. Ta coi thời gian thi tốt nghiệp là điểm nút, đến thời điểm này đồng thời
diễn ra bước nhảy sinh viên nhận được tấm bằng tốt nghiệp trở thành cử nhân. Bước
nhảy là sự kết thúc một giai đoạn tích lũy tri thức trong quá trình học tập rèn luyện
của chúng ta. Do đó, trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập sinh viên phải biết
từng bước tích lũy về lượng (tri thức) để làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo
quy luật. Và quá trình tích lũy về lượng kiến thức trong học tập và trong cuộc sống
cũng giúp cho nhận thức, suy nghĩ của mỗi chúng ta ngày càng sâu sắc và đầy đủ
hơn. Quy luật này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập và trong
hoạt động thực tiễn hàng ngày.
Từ nội dung quy luật lượng-chất (Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất). Hãy rút ra bài học sâu sắc và vận dụng bài hộc đó
với mỗi sinh viên.
*Bài học sâu sắc:
- Sự phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi dần dần của
lượng, và chỉ khi nào lượng vượt qua giới hạn của độ mới tạo ra sự biến đổi về chất.

- Muốn có sự phát triển thì phải có sự tích lũy dần dần về lượng (không coi thường,
xem nhẹ) quá trình tích lũy về lượng phải là 1 quá trình, một việc làm thường xuyên
liên tục. Tránh hành động nóng vội, đốt cháy giai đoạn hành động nửa vời, không
triệt để thì không đem lại kết quả.
- Nếu không có sự tích lũy về lượng 1 cách thường xuyên, liên tục thì không thể có
đủ lượng cần thiết để tạo nên sự biến đổi về chất của bản thân mỗi sinh viên.
*Vận dụng bài học đối với mỗi sinh viên:
- Tích cực tích lũy kiến thức khoa học (nắm vững, hiểu sâu chuyên môn về lịch vực
mà mình theo học), tranh hành động nóng vội, đốt cháy giai đoạn hành động nửa vời,
không triệt để thì không đem lại kết quả…
- Rèn luyện kỹ năng thực hành, học hỏi kinh nghiệm (của bạn bè, thầy cô…)
- Rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống để sau này trở thành những sinh viên xuất
sắc, có tài năng, cống hiến cho xã hội….

9

9


7. Vận dụng quy luật mâu thuẫn
Trước yêu cầu phát triển của xã hội, của đất nước. Anh (chị) hãy cho biết mâu thuẫn
của bản thân mình khi còn là sinh viên và hướng giải quyết mâu thuẫn đó.
*Khẳng định: Mâu thuẫn của bản thân mỗi sinh viên (khi đang còn là sinh viên) là
mâu thuẫn chung tồn tại bên trong mỗi người.
- Đó là mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu về trình độ nhận thức và hiểu biết ngày
càng cao của nhà trường và xã hội để đáp ứng yêu cầu ngày càng tốt hơn yêu cầu
phát triển của xã hội, của đất nước –( mặt đối lập thứ nhất).
- Với một bên là khả năng và năng lực nhận thức, điều kiện vật chất có hạn của cá
nhân – (mặt đối lập thứ hai)
*Phương hướng giải quyết:

- Tự thân vận động là chính, với những nỗ lực phấn đấu cao trong học tập, rèn
luyện….
- Biết tận dụng mọi điều kiện thuận lợi, mọi cơ hội của xã hội, của nhà trường để
vươn lên…..
- Qúa trình phấn đấu của bản thân mỗi người là một quá trình liên tục và lâu dài vì
yêu cầu phát triển của xã hội, của đất nước cũng liên tục và không có điểm dừng….
8.Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Bằng những lý luận đã học về CSHT và KTTT, hãy cho biết CSHT ở nước ta hiện
nay và các biểu hiện cụ thể của nó.
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội. Cơ sở hạ tầng của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó được tạo nên
ởi các QHSX thống trị, QHSX tàn dư, và QHSX mới tồn tại dưới hình thức mầm
mống, đại biểu cho sự phát triển của xã hội tương lai; trong đó QHSX thống trị chiếm
địa vị chủ đạo, chi phối các QHSX khác, định hướng cho sự phát triển của đời sống
kinh tế- xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội nhất định.
- Kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã
hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo..) và các thiết chế chính trị- xã
hội tương ứng (nhà nước, chính đảng, giáo hội…) được hình thành trên một CSHT
nhất định.
Nước ta đang thực hiện 2 QHSX là QHSX XHCN và QHSX CNTB. Hai QHSX này
hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó
10

10


QHSX XHCN giữ vai trò chủ đạo.
Biểu hiện cụ thể của CSHT của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH thể hiện trên
mặt sở hữu của 2 QHSX: Đó là các hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất bao
gồm:

+ Sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước)
+ Sở hữu tập thể
+ Sở hữu tư nhân
Tương ứng với các hình thức sở hữu đó ta xây dựng các thành phần kinh tế. Theo văn
kiện đại hội XI ta có 4 thành phần kinh tế (Thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).
Trong các hình thức sở hữu thì sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể giữ vai trò nền tảng.
Trong các thành phần kinh tế thì thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
Vận dụng những kiến thức đã học về quy luật mâu thuẫn hãy chỉ ra mâu thuẫn cơ bản
của xã hội ta hiện nay và phương hướng giải quyết mâu thuẫn đó.
• Mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta trong thời kỳ quá độ
- Mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu tiến lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh (Mặt đối lập thứ nhất)
- Với một bên là thực tế từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ với nhiều lực
cản: kỹ thuật thủ công, lạc hậu; năng suất lao động thấp; sử dụng lãng phí tài nguyên;
thói quen tùy tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ…(Mặt đối lập thứ 2)
* Phương hướng giải quyết mâu thuẫn cơ bản này là:
Tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất, lực
lượng sản xuất hiện đại cho CNXH, kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện công
bằng tiến bộ xã hội….
9. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
A, Việc lựa chon con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế- xã hội, CMác đã vận dụng học thuyết
đó và phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó
và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội cao hơn, hình thái cộng
sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
11


11


Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng
đinh: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của
Đảng. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nên phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan
xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”
B, Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là quá trình phức tạp chưa có tiền lệ. do đó
phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan, nhất là quy luật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX. Vì vậy “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” Theo
quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thế ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc”
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù
hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển

của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế.
C, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Để phát triển LLSX chúng ta phải tiến hành CNH-HĐH vì nước ta tiến lên chủ nghĩa
xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái
thiếu thống nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa
phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng là yếu tố có ý nghĩa
12

12


quyết định chống lại “nguy cơ tụt hậu xã hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới”. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự
thành công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
D, Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần
chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cùa
nhân dân; phát triển giáo duch và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm

thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tóm lại học thuyết hình thái kinh tế xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều
kiện hiện nay, học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đưa lại một phương pháp thực
sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra
phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Học thuyết đó đã được
Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra
đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
10. Hình thái kinh tế - xã hội và quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển các
hình thái kinh tế xã hội
A. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
Phạm trù hình thái kinh tế xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với mộ kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được
xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp, trong đó
có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, và kiến trúc thượng tầng.
Mỗi mặt của hình thái kinh tế xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau,
thống nhất với nhau.
13

13


+ Lực lượng sản xuất là nhân tố vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Suy đến cùng sự phát triển của LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ xã hội khác. Mỗi hình
thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Các QHSX tạo
thành CSHT của xã hội (QHSX là tiêu chuẩn phân biệt các chế độ xã hội khác nhau)
+ Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng

các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng được hình thành trên một CSHT nhất đinh,
KTTT do CSHT sinh ra có nhiệm vụ bảo vệ duy trì CSHT đã sinh ra nó.
B, Qúa trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được
phân tích ở các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là: Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con
người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là quy luật của chính bản thân cấu
trúc hình thái kinh tế - xã hội mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và quy luật KTTT phù hợp vói CSHT.
Hai là: Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã hội, của mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay
gián tiếp từ sự phát triển của LLSX của xã hội đó.
Ba là: Qúa trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội (quá trình thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại) có thể do tác động của
nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động
của các quy luật khách quan. Chính do sự tác động của các quy luật khách quan đó
mà các hình thái kinh tế - xã hội thay thế lẫn nhau một cách tuần tự từ hình thái kinh
tế - xã hội nguyên thủy đến hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính khách quan của sự vận động, phát triển của xã hội, chủ
nghĩa Mác-Lenin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố khác đối với tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử của mỗi dân tộc (cộng đồng
người) nói riêng. Đó là các nhân tố: điều kiện địa lý, về chính trị, tương quan lực
lượng giai cấp, truyền thống văn hóa, điều kiện quốc tế… Chính do sự tác động của
các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với
những con đường, hình thức phức tạp, đa dạng phong phú… Tính chất phong phú đa
dạng của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội có thể bao hàm những
bước phát triển “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định, tuy nhiên sự
“bỏ qua” đó phải gắn với những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Như vậy: Lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa
14


14


tuân theo tính tất yếu của quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân
tố khác nhau, trong đó có cả hoạt động chủ quan của con người, từ đó lịch sử phát
triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng, đa dạng
trong tính thống nhất của nó.

15

15



×