Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp huyện lập thạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.73 KB, 73 trang )

MỤC LỤC

1 . PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Đất đai là cơ sở vật chất, là điều kiện để con người sinh sống và xã hội
tồn tại. Để khẳng định tầm quan trọng của đất, Mác viết: “ Lao động là cha Đất là mẹ sản sinh ra của cải vật chất”, từ xa xưa ông cha ta có câu: “Tấc đất,
tấc vàng” để nói lên rằng đất đai vô cùng quý báu. Quá trình phát triển lịch sử
xã hội nước ta cũng đã chứng minh điều đó.
Luật Đất đai năm 1993 đã khẳng định: “Đất đai là tài nguyên vô cùng
quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của
môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh
tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng”.
Mặc dù giữ vai trò quan trọng, nhưng đất đai lại là nguồn tài nguyên có
hạn và không thể tái tạo được. Trong khi đó sự tác động của thiên nhiên và
quá trình sử dụng đất của con người có thể làm cho đất đai bị biến động cả về
mặt bằng lẫn độ phì nhiêu theo hai chiều hướng: “tốt” hoặc “xấu”
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng
tăng về lương thực thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã
hội. Con người đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn những

1


nhu cầu ngày càng tăng đó. Hiện tại cũng như trong tương lai, nông nghiệp
vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người, không
ngành nào có thể thay thế được. Nếu biết sử dụng hợp lý thì sức sản xuất của
đất đai sẽ ngày càng tăng lên.
Nhằm ngăn chặn những suy thoái về tài nguyên đất đai đồng thời cung cấp
căn cứ khoa học cho việc sử dụng đất, quản lý đất hợp lý, bền vững cần thiết
phải có hướng nghiên cứu đánh giá sử dụng đất thích hợp đối với điều kiện tự
nhiên đất đai và điều kiện kinh tế - xã hội của từng khu vực cũng như từng


vùng cụ thể.
Lập Thạch là một huyện thuần nông, nông nghiệp là một nguồn thu nhập
chính của nhân dân trên địa bàn huyện. Hiện nay đời sống nông dân trên địa
bàn huyện còn nhiều khó khăn. Vì vậy việc định hướng cho người dân
trong huyện khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả đất nông nghiệp là
một trong những vấn đề hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng
đất.
Xuất phát từ cơ sở thực tiễn trên, tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá hiện
trạng và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp huyện Lập Thạch”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
-Điều tra đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp và các loại hình
sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện.
- Đề xuất hướng sử dụng đất thích hợp, có hiệu quả và bảo vệ nguồn tài
nguyên đất đai cho vùng nghiên cứu.
1.3. Yêu cầu .
- Các chỉ tiêu nghiên cứu, tổng hợp phải đảm bảo tính trung thực và
2


chính xác
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn huyện, làm cơ sở cho việc xác định các loại hình sử dụng đất thích hợp và
bền vững. Đề xuất được giải pháp cho sử dụng và quản lý tài nguyên đất đai
cho địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất được các giải pháp hợp lý mang tính thực tiễn và có tính khả
thi nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất và bảo vệ được nguồn tài nguyên đất
đai của huyện.

3



CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đất đai và vai trò của đất đai.
1.1.1. Khái niệm về đất đai.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến những khái niệm, định
nghĩa về đất. Khái niệm đầu tiên của học giả người Nga Docutraiep năm 1886
cho rằng: “Đất là một vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập lâu đời do kết quả
quá trình hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình thành đất đó là: sinh vật, đá
mẹ, khí hậu, địa hình và thời gian”. Tuy vậy, khái niệm này chưa đề cập đến
khả năng sử dụng và sự tác động của các yếu tố khác tồn tại trong môi trường
xung quanh. Do đó, sau này một số học giả khác đã bổ sung các yếu tố: nước
của đất, nước ngầm và đặc biệt là vai trò của con người để hoàn chỉnh khái
niệm về đất nêu trên. Ngoài ra, còn có một số học giả khác cũng có những
khái niệm về đất như sau:
- Học giả người Anh V.RWiliam đã đưa ra khái niệm “Đất là lớp mặt
tơi xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm cho cây trồng”.
- Học giả E.Mitscherlich (1923) cho rằng “Đất chỉ là cái giá đỡ, cái kho
cung cấp chất dinh dưỡng” và “Đất là cái khối hỗn hợp gồm các phân tử nhỏ,
cứng rắn, nước, không khí cần thiết cho thực vật”.
- Các Mác cho rằng: “Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý

4


báu nhất của sản xuất nông nghiệp, điều kiện không thể thiếu được của sự tồn
tại và tái sinh của hàng loạt thế hệ người kế tiếp nhau” .
Theo quan điểm của các nhà kinh tế, thổ nhưỡng và quy hoạch Việt
Nam cho rằng “Đất là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể
mọc được” và đất được hiểu theo nghĩa rộng như sau: “Đất đai là một diện

tích cụ thể của bề mặt trái đất bao gồm các cấu thành của môi trường sinh thái
ngay bên trên và dưới bề mặt đó như: khí hậu thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình,
mặt nước (hồ, sông suối…), các dạng trầm tích sát bề mặt cùng với nước
ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật, trạng thái định cư của
con người, những kết quả nghiên cứu trong quá khứ và hiện tại để lại”.
Như vậy, đất đai là một khoảng không gian có giới hạn gồm: khí hậu,
lớp đất bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, nước ngầm và
khoáng sản trong lòng đất. Trên bề mặt đất đai là sự kết hợp giữa các yếu tố thổ
nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm thực vật cùng với các thành phần khác có vai
trò quan trọng và ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất và cuộc sống của xã
hội loài người.
1.1.2. Vai trò của đất đai.
- Đất đai là tư liệu sản xuất vĩnh cửu không thể thay thế trong sản xuất
nông nghiệp nếu biết sử dụng hợp lý thì sức sản xuất của đất đai sẽ ngày càng
tăng lên.
- Đất đai, ngoài là tư liệu sản xuất quan trọng cơ bản trong sản xuất
nông nghiệp nó còn được coi là tư liệu sản xuất đặc biệt so với các tư liệu
sản xuất khác bởi vì đất đai là sản phẩm của tự nhiên, đất đai có trước lao
động và là điều kiện tự nhiên của lao động nó chỉ là tư liệu sản xuất khi
tham gia vào sản xuất khi có sự tác động của lao động . Đất đai vận động

5


theo quy luật tự nhiên của nó - nghĩa là độ màu mỡ của đất đai phụ thuộc
vào người sử dụng đất . Do vậy, trong quá trình sử dụng đất phải đứng trên
quan điểm bồi dưỡng, bảo vệ, làm giàu cho đất thông qua những hoạt động
có ý nghĩa của con người.
- Đất đai là tài nguyên bị hạn chế bởi ranh giới đất liền và bề mặt lục
địa. Đặc biệt là đất đai nông nghiệp, sự giới hạn về diện tích đất còn thể hiện

ở khả năng có hạn về khai hoang tăng vụ trong từng điều kiện cụ thể. Do
vậy,trong quá trình sử dụng đất cần hết sức quý trọng và tiết kiệm thì mới có
thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất đai ngày càng tăng của xã hội.
- Đất đai là yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp, sử dụng nó có ảnh
hưởng đến kết quả đầu ra và khả năng sinh lợi. Đặc biệt trong hệ thống sản
xuất hàng hoá đất được coi như chi phí đầu vào trong sản xuất nông nghiệp,
chất lượng đất và các lợi thế của đất sẽ quyết định khối lượng sản phẩm sản
xuất ra và khả năng sinh lợi của đất.
- Đất đai được coi là một loại tài sản, chủ tài sản đất có quyền nhất định
do luật pháp của mỗi nước quy định. Đây là điều kiện để chủ tài sản có thể
chuyển nhượng và phát huy được hiệu quả sử dụng đất.
Như vậy, đất đai là yếu tố quan trọng và tích cực của quá trình sản xuất
nông lâm nghiệp. Đất là nền tảng của mọi nền văn minh, giá đỡ cho xã hội
loài người. Sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả là một trong những điều kiện
quan trọng nhất cho nền kinh tế phát triển nhanh về bền vững.
1.2. Đất nông nghiệp và tầm quan trọng của đất nông nghiệp.
1.2.1. Khái niệm đất nông nghiệp.
Theo Luật Đất đai 2003 “Đất nông nghiệp bao gồm đất sản xuất nông
nghiệp (đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng
6


năm khác), đất lâm nghiệp (đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng
đặc dụng), đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác
theo quy định của Chính phủ"
-Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản
hoặc sử dụng vào mục đích nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Khi nói đất
nông nghiệp người ta nói đất sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông
nghiệp, bởi vì thực tế có trường hợp đất đai được sử dụng vào mục đích khác

nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu cho
hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp, nếu không sẽ
là các loại đất khác (tùy theo việc sử dụng vào mục đích nào là chính).
1.2.2. Tầm quan trọng của đất nông nghiệp.
- Nói về tầm quan trọng của đất, Các Mác viết: “Đất là một phòng thí
nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất là vị trí để
định cư, là nền tảng của tập thể”. Nói về vai trò của đất với sản xuất, Mác
khẳng định “Lao động không phải là nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất
và giá trị tiêu thụ. Lao động chỉ là cha của của cải vật chất, còn đất là mẹ”.
Đất là sản phẩm của tự nhiên, xuất hiện trước con người và tồn tại ngoài ý
muốn của con người.
- Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng có vai tṛò quan trọng
đối với việc phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp có nhiệm vụ
bảo đảm lương thực, thực phẩm cho toàn dân, cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng cơ sở vật chất, tạo thêm việc làm,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, mở rộng thị trường, ổn
định xă hội và bảo vệ an ninh quốc gia, tạo cơ sở vững chắc cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
7


- Với nông nghiệp, đất không chỉ là cơ sở không gian, không chỉ là điều
kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại của ngành sản xuất này, mà đất còn là
yếu tố tích cực của sản xuất. Quá trình sản xuất nông nghiệp có liên quan chặt
chẽ với đất, phụ thuộc nhiều vào độ phì nhiêu của đất, phụ thuộc vào các quá
trình sinh học tự nhiên. Trong nông nghiệp, ngoài vai trò cơ sở không gian,
đất còn có hai chức năng đặc biệt quan trọng:
+ Một là : Đất là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người
trong quá trình sản xuất.
+ Hai là : Đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp nước,

không khí và các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng để cây trồng sinh
trưởng và phát triển. Như vậy đất gần như trở thành một công cụ sản xuất.
Năng suất và chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào độ phì nhiêu của
đất. Trong số tất cả các loại tư liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp, chỉ có
đất mới có được chức năng này.
Chính vì vậy, có thể nói rằng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
trong nông nghiệp
1.3. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp.
1.3.1. Sự cần thiết sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững.
Ngày nay, sử dụng đất bền vững, tiết kiệm và có hiệu quả đã trở thành
chiến lược quan trọng có tính toàn cầu, bởi 5 lý do:
+ Một là: Tài nguyên đất vô cùng quý giá. Bất kỳ nước nào, đất đều là tư
liệu sản xuất nông - lâm nghiệp chủ yếu, cơ sở lãnh thổ để phân bố các ngành
kinh tế quốc dân. UNEP khẳng định “Mặc cho những tiến bộ khoa học - kỹ
thuật vĩ đại, con người hiện đại vẫn phải sống dựa vào đất”.
+ Hai là: Tài nguyên đất có hạn, đất có khả năng canh tác càng ít ỏi.
8


Toàn lục địa trừ diện tích đóng băng vĩnh cửu (1.360 triệu héc-ta) chỉ có
13.340 triệu héc-ta. Diện tích đất có khả năng canh tác của lục địa chỉ có
3.030 triệu héc-ta. Hiện nhân loại mới khai thác được 1.500 triệu héc-ta đất
canh tác.
+ Ba là: Diện tích tự nhiên và đất canh tác trên đầu người ngày càng
giảm do áp lực tăng dân số, sự phát triển đô thị hóa, công nghiệp hóa và các
hạ tầng kỹ thuât. Bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người của thế giới
hiện nay chỉ còn 0,23 ha, ở Việt Nam chỉ còn 0,11 ha. Theo tính toán của Tổ
chức Lương thực thế giới (FAO), với trình độ sản xuất trung bình hiện nay
trên thế giới, để có đủ lương thực, thực phẩm, mỗi người cần có 0,4 ha đất
canh tác.

+ Bốn là: Do điều kiện tự nhiên, hoạt động tiêu cực của con người nên
diện tích đáng kể của lục địa đã, đang và sẽ còn bị thoái hóa, hoặc ô nhiễm
dẫn tới tình trạng giảm, mất khả năng sản xuất và nhiều hậu quả nghiêm trọng
khác. Tình trạng ô nhiễm do phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật, chất thải,
nước thải đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, sản xuất, dịch vụ và chất độc
hóa học để lại sau chiến tranh cũng đáng báo động. Hoạt động canh tác và
đời sống còn bị đe dọa bởi tình trạng ngập úng, ngập lũ, lũ quét, đất trượt,
sạt lở đất, thoái hóa lý, hóa học đất...
+ Năm là: Lịch sử đã chứng minh sản xuất nông nghiệp phải được tiến
hành trên đất tốt mới có hiệu quả. Tuy nhiên, để hình thành đất với độ phì
nhiêu cần thiết cho canh tác nông nghiệp phải trải qua hàng nghìn năm, thậm
chí hàng vạn năm.

9


1.3.2.Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp.
-Nông nghiệp bền vững không có nghĩa là khước từ những kinh nghiệm
truyền thống mà là phối hợp, lồng ghép những sáng kiến mới từ các nhà khoa
học, từ nông dân hoặc cả hai. Không có ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp
ở một vùng bằng chính những người sinh ra và lớn lên ở đó. Vì vậy, xây dựng
nông nghiệp bền vững cần thiết phải có sự tham gia của người dân trong vùng
nghiên cứu. Phát triển bền vững là việc quản lý và bảo tồn cơ sở tài nguyên
thiên nhiên, định hướng những thay đổi công nghệ thể chế theo một phương
thức sao cho đạt đến sự thoả mãn một cách liên tục những nhu cầu của con
người, của những thế hệ hôm nay và mai sau (FAO, 1976).
-Sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp chính là sự bảo tồn
đất, nước, các nguồn động thực vật, không bị suy thoái môi trường, kỹ thuật
thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội. FAO đã đưa ra
những chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là:

+ Thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của thế hệ hiện tại và tương
lai về số lượng và chất lượng các sản phẩm nông nghiệp khác.
+ Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống, làm
việc tốt cho mọi người trực tiếp làm nông nghiệp.
+ Duy trì và chỗ nào có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ
sở tài nguyên thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài
nguyên tái tạo được mà không phá vỡ chức năng của các chu kỳ sinh thái
cơ sở và cân bằng tự nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hóa xã hội của các
cộng đồng sống ở nông thôn hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
+ “Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố
lòng tin trong nhân dân” .

10


-Mục tiêu của nông nghiệp bền vững là xây dựng một hệ thống ổn định về
mặt sinh thái, có tiềm lực kinh tế, có khả năng thỏa mãn những nhu cầu
của con người mà không bóc lột đất, không gây ô nhiễm môi trường.
Từ những nguyên tắc chung trên ở Việt Nam một LUT được xem là
bền vững phải đạt được 3 yêu cầu sau:
+Bền vững về mặt kinh tế cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao được thị
trường chấp nhận.
+Bền vững về mặt xã hội thu hút được lao động đảm bảo được đời sống
xã hội phát triển.
+ Bền vững về mặt môi trường: loại hình sử dụng đất phải được bảo vệ
độ màu mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hoá và bảo vệ môi trường sinh thái
Như vậy: Khái niệm sử dụng đất đai bền vững do con người đưa ra
được thể hiện trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo nhiều
mục đích mà con người đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản
xuất nông nghiệp việc sử dụng đất bền vững phải đạt được trên cơ sở đảm bảo

khả năng sản xuất ổn định của cây trồng, chất lượng tài nguyên đất không suy
giảm theo thời gian và việc sử dụng đất không ảnh hưởng xấu đến môi trường
sống của con người, của các sinh vật.
1.4. Những vấn đề về hiệu quả sử dụng đất.
1.4.1. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất.
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Trước đây, người ta thường
quan niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau này, người ta nhận thấy rõ sự khác
nhau giữa hiệu quả và kết quả. Nói một cách chung nhất thì hiệu quả chính là
kết quả như yêu cầu của công việc mang lại.

11


Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi
hướng tới; nó có những nội dung khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa
là hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận.
Trong lao động nói chung, hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá bằng
số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số
lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Kết quả, mà là kết quả hữu ích là một đại lượng vật chất tạo ra do mục
đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do
tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của
con người mà ta phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ
ra bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì vậy khi đánh giá
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết
quả mà phải đánh giá chất lượng hoạt động tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá chất
lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là nội dung của đánh giá hiệu quả.
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử
dụng đất thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong
hoạt động kinh tế, thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng

tiền. Đồng thời về mặt hiệu quả xã hội là thể hiện mức thu hút lao động trong
quá trình hoạt động kinh tế để khai thác sử dụng đất. Riêng đối với ngành
nông nghiệp, cùng với hiệu quả kinh tế về giá trị và hiệu quả về mặt sử dụng
lao động trong nhiều trường hợp phải coi trọng hiệu quả về mặt hiện vật là
sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là các loại nông sản cơ bản có ý
nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất khẩu …) để đảm bảo sự ổn định
về kinh tế - xã hội đất nước.
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện
pháp tổ chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi
12


thế, khắc phục các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những
hoàn cảnh cụ thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền
kinh tế quốc dân, gắn sản xuất trong nước với thị trường quốc tế.
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ
cấu cây trồng vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu
hết các nước trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà
khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp
mà còn là mong muốn của nông dân - những người trực tiếp tham gia sản
xuất nông nghiệp.
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng, vấn đề đánh giá hiệu quả sử
dụng đất không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó
mà phải xem xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã
hội và hiệu quả môi trường.
1.4.1.1. Hiệu quả kinh tế.
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động theo
các ngành sản xuất khác nhau. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết
kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích

của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi
ích cho xã hội.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền
sản xuất hàng hoá với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác nhau.
Vì thế, hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề:
+ Một là : Mọi hoạt động của con người đều phải quan tâm và tuân theo
quy luật “tiết kiệm thời gian”;
13


+ Hai là : Hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý
thuyết hệ thống.
+ Ba là : Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ
các lợi ích của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả
đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả
đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là
phần giá trị của nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xem xét cả về
phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của phạm trù kinh tế
sử dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng
của cải vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội".
1.4.1.2 Hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt
xã hội và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối
quan hệ mật thiết với nhau và là một phạm trù thống nhất.Hiệu quả về mặt
xã hội của sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng

tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
- Hiệu quả xã hội được thể hiện thông qua mức thu hút lao động, thu
nhập của nhân dân... Hiệu quả xã hội cao góp phần thúc đẩy xã hội phát
triển, phát huy được nguồn lực của địa phương, nâng cao mức sống của
nhân dân. Sử dụng đất phải phù hợp với tập quán, nền văn hoá của địa
14


phương thì việc sử dụng đất bền vững hơn.
1.4.1.3. Hiệu quả môi trường
- Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải
bảo vệ được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ
môi trường sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái
(>35%) đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài.
- Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên gồm:
hiệu quả hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh giá
thông qua mức độ sử dụng các chất hoá học trong nông nghiệp. Đó là việc sử
dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất đảm bảo cho
cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao và không gây ô
nhiễm môi trường.
-Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại
giữa cây trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại nhằm giảm thiểu
việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra.
- Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt
nhất tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử
dụng đất để đạt được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
Nhận xét:
Sử dụng đất hợp lý, hiệu quả cao và bền vững phải quan tâm tới cả 3
hiệu quả trên, trong đó không có hiệu quả kinh tế thì không có điều kiện

nguồn lực để thực thi hiệu quả xã hội và môi trường. Ngược lại, không có
hiệu quả xã hội và môi trường thì hiệu quả kinh tế sẽ không bền vững.

15


1.4.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất.
1.4.2.1.Các yếu tố về điều kiện tự nhiên.
Các yếu tố tự nhiên là tiền đề cơ bản nhất, là nền móng để phát triển và
phân bố nông nghiệp. Mỗi một loại cây trồng, vật nuôi chỉ có thể sinh trưởng
và phát triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định nào đó, ngoài điều kiện
đó cây trồng và vật nuôi sẽ không thể tồn tại hoặc kém phát triển. Các điều
kiện tự nhiên quan trọng nhất là đất, nước và khí hậu. Chúng quyết định khả
năng nuôi trồng các loại cây, con cụ thể trên từng điều kiện đất, nước và khí
hậu khác nhau, cũng như việc áp dụng các quy trình sản xuất nông nghiệp
trong các điều kiện tự nhiên khác nhau, đồng thời có ảnh hưởng lớn đền năng
suất cây trồng, vật nuôi.
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết....) là các yếu tố đầu
vào có ý nghĩa quyết định, tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất nông
nghiệp và ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng, khả năng
đầu tư trong quá trình sản xuất nông nghiệp cũng phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện tự nhiên.
a, Điều kiện khí hậu.
-Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông
nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn nhiều hay ít, nhiệt
độ bình quân cao hay thấp, thời gian có sương dài hoặc ngắn... trực tiếp ảnh
hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, cây rừng và
thực vật thủy sinh... Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu sáng
dài hay ngắn cũng có tác dụng ức chế đối với sinh trưởng, phát dục và quá
trình quang hợp của cây trồng.


16


- Chế độ nước vừa là điều kiện quan trọng để cây trồng vận chuyển chất
dinh dưỡng vừa là vật chất giúp cho sinh vật sinh trưởng và phát triển. Lượng
mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ
nhiệt độ và độ ẩm của đất cùng khả năng đảm bảo cung cấp nước cho sự sinh
trưởng của động thực vật.
b, Yếu tố địa hình.
- Địa hình là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng đất của các
ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp. Đối với sản xuất nông nghiệp, sự sai
khác giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng
dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xói mòn ... thường dẫn đến sự khác nhau
về đất đai và khí hậu, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố các ngành
nông - lâm nghiệp, hình thành sự phân biệt địa giới theo chiều thẳng đứng đối
với nông nghiệp.
- Bên cạnh đó, địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng
đất nông nghiệp từ đó đặt ra yêu cầu phải đảm bảo thủy lợi hóa và cơ giới hóa
cho đồng ruộng nhằm thu lại hiệu quả sử dụng đất là cao nhất. Mỗi loại đất
đều có những đặc tính sinh, lý, hóa học riêng biệt trong khi đó mỗi mục đích
sử dụng đất cũng có những yêu cầu sử dụng đất cụ thể.
Do vậy, yếu tố thổ nhưỡng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất
nông nghiệp. Độ phì của đất là tiêu chí quan trọng về sản lượng cao hay thấp.
Độ dày tầng đất và tính chất đất có ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng của cây
trồng.
c, Yếu tố thủy văn.
-Yếu tố thủy văn được đặc trưng bởi sự phân bố của hệ thống sông
ngòi, ao hồ... với các chế độ thủy văn cụ thể như lưu lượng nước, tốc độ dòng
17



chảy,chế độ thủy triều... sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cung cấp nước
cho các yêu cầu sử dụng đất. Đặc thù của nhân tố điều kiện tự nhiên mang
tính khu vực. Vị trí của vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ,
nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công
dụng và hiệu quả của việc sử dụng đất đai.
Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận
dụng các lợi thế nhằm đạt được hiệu ích cao nhất về xã hội, môi trường và
kinh tế.
1.4.2.2.Các yếu tố về xã hội (con người).
-Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây
trồng, vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản
xuất để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những vấn
đề thể hiện sự hiểu biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi
trường và thể hiện những dự báo thông minh của người sản xuất.
-Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng
các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt được các
mục tiêu đề ra là cơ sở để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Cho đến
giữa thế kỷ 21, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có thể góp phần
đến 30% của năng suất kinh tế. Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc
biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và
nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
1.4.3. Nguyên tắc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
-Việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất cần phải dựa
trên 4 nguyên tắc cụ thể:
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải có tính thống nhất, toàn diện và tính hệ
thống. Các chỉ tiêu phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính
18



so sánh có thang bậc.
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu cơ bản
biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và đúng đắn theo quan
điểm và tiêu chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu cơ bản
làm cho nội dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, nhất là những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
+ Hệ thống các chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn, tính khoa học và
phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
1.4.4. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế:
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 ha đất nông nghiệp
- Giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch
vụ được tạo ra trong 1 kỳ nhất định (thường là một năm).
- Chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất
thường xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào
và dịch vụ sử dụng trong quá trình sản xuất.
- Giá trị gia tăng (GTGT) hay TNHH: là hiệu số giữa giá trị sản xuất và
chi phí trung gian, là giá trị sản phẩm xã hội tạo ra thêm trong thời kỳ sản
xuất đó.
GTGT = GTSX – CPTG Hay : TNHH = GTSX – CPTG
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG,
19


GTGT/CPTG): Đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử
dụng các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
+ Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có (GTSX/LĐ,

GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng kiểu
sử dụng đất và từng cây trồng làm cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội của
người lao động.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội:
Hiệu quả xã hội được phân tích bởi các chỉ tiêu sau:
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân;
+ Đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của vùng;
+ Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân;
+ Góp phần định canh định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả môi trường:
+ Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
+ Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
+ Đánh giá quản lý đất đai;
+ Đánh giá hệ thống cây trồng;
+ Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và
bảo vệ cây trồng;
+ Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;
+ Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.
20


Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất
nông nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, nó đòi hỏi phải được nghiên
cứu, phân tích trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của tôi chỉ dừng
lại ở việc đánh giá hiệu quả môi trường thông qua kết quả điều tra về việc đầu
tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đối với các loại hình sử dụng đất hiện tại.

21



CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu.
-Quỹ đất nông nghiệp và các loại hình sử dụng đất nông nghiệp.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu.
-Đề tài tiến hành trên địa bàn huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2. Nội dung nghiên cứu.
2.2.1.Đánh giá ĐKTN, KT-XH liên quan đến sử dụng đất nông nghiệp.
- Đánh giá điều kiện tự nhiên về: vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, địa hình, thuỷ
văn.
- Đánh giá điều kiện kinh tế xã hội: Cơ cấu kinh tế, tình hình dân số, lao
động, trình độ dân trí, vấn đề quản lý đất đai, thị trường tiêu thụ nông sản
phẩm, dịch vụ và cơ sở hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, công trình phúc lợi, ...).
2.2.2. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp.
- Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của huyện Lập Thạch.
- Xác định các loại hình sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế các kiểu sử dụng đất.
- Đánh giá hiệu quả về mặt xã hội của các kiểu sử dụng đất.

22


- Đánh giá hiệu quả về mặt về môi trường của các kiểu sử dụng đất.
2.2.3. Đề xuất một số giải pháp sử dụng đất NN hợp lý trên địa bàn.
-Lựa chọn các loại hình sử dụng đất thích hợp và có triển vọng.
- Đề xuất các loại hình sử dụng đất có triển vọng cho sản xuất nông nghiệp ở
huyện .
2.3.Phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Phương pháp điều tra số liệu thứ cấp.

-Các nguồn số liệu có liên quan đến tài nguyên nước, khả năng tưới
tiêu thu thập tại Phòng Nông nghiệp huyện , trung tâm khai thác công trình
thuỷ lợi huyện...
- Các số liệu liên quan đến đất đai như: hiện trạng đất đai và biến động
diện tích đất nông nghiệp thu thập tại Phòng Tài nguyên và Môi trường,
Phòng Thống kê huyện.
-Các nguồn số liệu có liên quan đến cơ sở hạ tầng thu thập tại Phòng
công thương.
2.3.2. Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp.
-Điều tra xác định các loại hình sử dụng đất hiện tại, đánh giá hiện
trạng sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất
2.3.3. Phương pháp tính hiệu quả của các loại hình sử dụng đất.
Hiệu quả kinh tế :
+ Tổng thu nhập (GTSX) = giá nông sản × năng suất
+ Chi phí trung gian (CPTG) là tổng các chi phí vật chất (giống, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật, khấu hao dụng cụ... và các chi phí khác ngoài
23


công lao động
+ Thu nhập hỗn hợp (TNHH) = GTSX – Chi phí trung gian (CPTG)
+ Hiệu quả đồng vốn (HQĐV) = TNHH / CPTG.
+ Giá trị ngày công (GTNC) = TNHH / số công lao động
Hiệu quả xã hội:
+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân.
+ Đáp ứng được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của vùng và
mức độ chấp nhận của người dân.
+ Thu hút nhiều lao động giải quyết công ăn việc làm cho nông dân.
+ Khả năng tiêu thụ sản phẩm hướng thị trường của các LUT.
+ Vấn đề đảm bảo an ninh lương thực đồng thời phát triển sản xuất hàng hoá.

Hiệu quả môi trường:
+ Mức độ sử dụng phân bón và các loại thuốc bảo vệ thực vật.
2.3.4. Phương pháp chuyên gia.
-Tham khảo ý kiến của thị trường về hiệu quả sử dụng đất và khả năng
phát triển thị trường nông sản, tham khảo thêm ý kiến của các chuyên gia, cán
bộ phòng Nông nghiệp, phòng Tài nguyên và Môi trường cũng như các điển
hình sản xuất nông dân giỏi của huyện để đề xuất hướng một số biện pháp sử
dụng đất và đưa ra các giải pháp thực hiện.
2.3.5. Phương pháp dự báo.
-Các đề xuất chỉ tiêu dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài và những dự
báo về nhu cầu của xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nông nghiệp.
24


CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên , kinh tế - xã hội.
3.1.1. Điều kiện tự nhiên.
3.1.1.1. Vị trí địa lý.
Lập Thạch là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Vĩnh Phúc,
cách tỉnh lỵ Vĩnh Yên 20km, nằm ở vị trí từ 105°30′ đến 105°45′ kinh độ
Đông và 21°10′ đến 21°30′ vĩ Bắc. Có vị trí địa lý như sau:
-Phía Bắc giáp huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang và dãy núi Tam
Đảo.
-Phía Đông giáp huyện Tam Đảo và huyện Tam Dương.
-Phía Tây giáp huyện Sông Lô và thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ.
-Phía Nam giáp huyện Vĩnh Tường và một phần tỉnh Phú Thọ

25



×