Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận thực trạng và nguyên nhân thâm hụt cán cân thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.2 KB, 14 trang )

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm:
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán
quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh
lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch lớn hơn 0 thì cán cân
thương mại thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0 thì cán cân thương mại
thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0 thì cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại.
1.2 Bản chất của cán cân thương mại:
Cán cân thương mại của một quốc gia phản ánh khối lượng xuất nhập khẩu về
hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đó với các quốc gia khác. Về mặt kinh tế, cán cân
thương mại thể hiện mối quan hệ tương quan giữa việc tăng hay giảm lượng giá trị của
một nền kinh tế nghĩa là nó phản ánh lượng tiền tăng lên hoặc giảm đi của một quốc gia
trong một thời gian nhất định. Trạng thái của cán cân thương mại dựa vào sự chênh lệch
của giá trị giao dịch xuất khẩu và nhập khẩu, và thường rơi vào một trong 3 trạng thái:
cán cân thương mại thặng dư, thâm hụt hoặc cân bằng.
1.3 Các nhân tố tác động đến cán cân thương mại:
Cán cân thương mại chịu sự tác động của nhiều nhân tố như: xuất khẩu, nhập
khẩu, tỷ giá, lạm phát, giá cả hàng hoá, thu nhập, chính sách thương mại quốc tế…
1.3.1 Tác động của xuất – nhập khẩu:
Một là, nhập khẩu có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh
hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc vào xu hướng nhập khẩu biên
(MPZ), đây chính là phần GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ngoài
ra, nhập khẩu phụ thuộc vào giá cả tương đối giữa hàng hoá sản xuất trong nước và hàng
hoá sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá cả thị
trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại.
Hai là, xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia
khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy, xuất khẩu
1



chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của quốc gia bạn hàng. Chính vì thế mà
trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
1.3.2 Tác động của tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến
giá tương đối giữa hàng hoá sản xuất trong nước với hàng hoá trên thị trường quốc tế.
Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hoá nhập khẩu sẽ
trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước
ngoài. Vì thế, việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi
cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ
giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và dẫn đến kết quả
xuất khẩu ròng tăng lên.
1.3.3 Tác động của dòng vốn:
Cán cân thương mại là môt trong những yếu tố của tài sản quốc gia. Cán cân
thương mại phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư công và tiết kiệm trong nền kinh tế. Mức
chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài
như FDI, ODA, FPI, kiều hối và các dòng vốn vay thương mại khác.
1.3.4 Tác động của thu nhập:
Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá cũng tăng theo. Trong
khi đó khi kinh tế nước ngoài tăng trưởng họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ
nước khác và làm cho xuất khẩu của đối tác thương mại tăng lên. Do vậy, cán cân
thương mại phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế.
1.3.5 Tác động của các chính sách thương mại và phát triển kinh tế:
Các chính sách thuế, bảo hộ hàng hoá cũng ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương
mại. Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng nhằm cải thiện cán cân thương mại.
1.3.6 Tác động của tỷ lệ trao đổi:
Tỷ lệ trao đổi biểu hiện giá của một nước có thể chấp nhận trả cho hàng hoá nhập
khẩu với giá xuất khẩu của nước đó. Nói cách khác là tỷ số giữa giá xuất khẩu và giá
nhập khẩu của nước đó. Do đó, tỷ lệ trao đổi có ảnh hưởng đến cán cân thương mại.
2



1.3.7 Tác động của phá giá tiền tệ:
Phá giá (hay nâng giá) là giảm bớt (hay tăng) tỷ giá hối đoái mà được chính phủ
ủng hộ. Phá giá đưa đến tăng giá hàng nhập khẩu và giảm giá hàng xuất khẩu. Do đó,
tạo ra một khoản thặng dư trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán.
1.4 Vai trò của cán cân thương mại đối với nền kinh tế:
- Cán cân thương mại cung cấp những thông tin cần thiết liên quan đến cung cầu
tiền tệ của một quốc gia, cụ thể là sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ.
- Cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của
một quốc gia.
- Tình trạng của cán cân thương mại phản ánh tình trạng của cán cân vãng lai, do
đó ảnh hưởng đến ổn định nền kinh tế vĩ mô. Đây là ảnh hưởng quan trọng nhất của cán
cân thương mại tới nền kinh tế và dựa vào đó nhà nước có thể đưa ra những chính sách
để điều chỉnh cán cân thương mại và đảm bảo ổn định nền kinh tế vĩ mô.
- Cán cân thương mại thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế. Nếu cán
cân thương mại bị thâm hụt thì nó thể hiện quốc gia đó chi nhiều hơn thu nhập của mình
cũng như tiết kiệm sẽ ít hơn đầu tư và ngược lại.
II. THỰC TRẠNG CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
Cùng với quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trong hơn một thập niên
qua, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có mức tăng trưởng rất cao (trung bình
trên 20% mỗi năm), trừ năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Theo đó, tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng từ 30% năm 1996 lên tới 68,5% năm 2010,
trong khi tỷ lệ nhập khẩu/GDP còn tăng mạnh hơn, từ 45,6% lên đến 80% trong cùng
thời kỳ, khiến tổng giá trị thương mại/GDP đã đạt 150% - thể hiện độ mở khá lớn của
nền kinh tế. Có thể nói, chiến lược hướng về xuất khẩu bắt đầu từ giữa thập kỷ 1990 đã
có những đóng góp đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong nhiều năm.
Tuy nhiên, do tốc độ tăng nhập khẩu nhanh hơn nhiều so với xuất khẩu, cán cân
thương mại ngày càng thâm hụt, và đặc biệt trở nên nghiêm trọng kể từ năm 2007 - khi
Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức của WTO. Trung bình giai đoạn

2001-2010, nhập siêu chiếm đến 12% GDP, và tăng lên gần 17% giai đoạn 2007-2010.
3


Nhập siêu tăng cao và dai dẳng trong thời gian dài mà không có bất kỳ dấu hiệu cải thiện
nào khiến thị trường ngoại hối luôn trong trạng thái căng thẳng, tiền đồng luôn đối diện
sức ép giảm giá, cán cân thanh toán không ổn định, tình trạng đô la hóa gia tăng,….
Điều này, cùng với một số diễn biến vĩ mô bất lợi khác, đã kích hoạt cho những bất ổn
kinh tế vĩ mô kéo dài trong một vài năm gần đây.

Tỷ trọng thương mại quốc tế trên GDP
Nguồn: GSO và tính toán của TVSC
Thêm vào đó, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, vì thế nhu cầu vốn rất
cao, tiết kiệm trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu về đầu tư. Vì vậy, huy động
nguồn vốn từ các nước phát triển, nhận đầu tư trực tiếp và vay vốn ODA để bổ sung
nguồn thiếu hụt vốn trong đầu tư là điều Việt Nam và hầu hết các nước đang phát triển
đều làm.

Cán cân thanh toán, cán cân vốn của Việt Nam: 2004-2007 (tỷ USD)
4


Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Tài khoản vãng lai
-1.6
0.2
0.2

Số dư HHDV
-3.2
-2.0
-2.8
Số dư thu nhập đầu tư
-0.9
-1.2
-1.4
Chuyển nhượng ròng
2.5
3.4
4.4
Tài khoản vốn
2.5
1.9
4.1
FDI thuần
1.9
2.0
2.4
Các dòng tài chính khác
0.7
-0.1
1.7
Trích Tổng cục thống kê gso.gov.vn
Năm

Số dự án

2007

-6.4
-9.0
-1.6
4.2
15.2
4.0
11.2

Vốn đăng ký*
(triệu USD)

Tổng vốn
Quy mô bình
thực hiện
quân 1 dự án
(triệu USD)
(triệu USD)
Tổng số
8867
142401.9
29394.9
16.06
2000
391
2838.9
2413.5
7.26
2001
555
3142.8

2450.5
5.66
2002
808
2998.8
2591.0
3.71
2003
791
3191.2
2650.0
4.03
2004
811
4547.6
2852.5
5.61
2005
970
6839.8
3308.8
7.05
2006
987
12004.0
4100.1
12.16
2007
1544
21347.8

8030.0
13.8
2008
1171
64011.0
11400.0
54.66
2009
839
21480.0
10000.0
25.60
(*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm
trước.
Qua số liệu ta thấy tổng số dự án cũng như tổng số vốn FDI vào Việt Nam trong
giai đoạn 2000-2009 nhìn chung tăng lên với tốc độ khá nhanh. Từ năm 2000 số vốn
đăng kí là 2838,9 triệu USD nhưng đến năm 2009 thì tổng số vốn đăng kí đã lên đến
21480 triệu USD. Mức tăng bình quân năm trong giai đoạn này là 39.22%. Với lượng
vốn FDI khổng lồ trên đã tạo ra đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế, xã hội, tổng sản phẩm
trong nước tăng cao.
Việt Nam là một trong những nước được nhận nhiều viện trợ ODA của các quốc
gia phát triển và các tổ chức như World Bank, ADB, IMF…Tính đến năm 2007, cộng
đồng quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn ODA với tổng giá trị gần 36,97

5


USD, đã ký kết 26,2 tỷ USD và giải ngân 17,9 tỷ USD. Đặc biệt trong những năm gần
đây, vốn ODA cung cấp cũng tăng khá mạnh.
Qua bảng trên ta nhận thấy tốc độ tăng trưởng khả năng thu hút vốn ODA của

nước ta tăng với tốc độ khá nhanh và ổn định trong suốt giai đoạn từ 2001- 2008. Tuy
khả năng thu hút ODA của chúng ta tăng trưởng ở mức khá nhưng việc thực hiện vốn
cam kết hay nói cách khác là tốc độ giải ngân của Việt Nam còn chậm và chưa đạt được
hiệu quả cao và đang có xu hướng sút giảm trong thời gian 3 năm trở lại đây. Tốc độ
giải ngân chậm gây ra việc lãng phí, thất thoát vốn gây ra gánh nặng nợ không cần thiết
cho thế hệ sau và gây ảnh hưởng xấu cho khả năng thu hút các nguồn đầu tư quốc tế khá.
Với nguồn vốn dồi dào, Việt Nam đã có những biểu hiện của việc sử dụng không
hiệu quả đã có biểu hiện lạm phát ngày càng lên cao, đồng nội tệ mất giá nghiêm trọng
cùng với tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trong thời gian dài gây nên những bất
ổn kinh tế vĩ mô. Việt Nam không chỉ đối mặt với nguy cơ thâm hụt cán cân thương mại
đơn thuần, mà chúng ta còn đối mặt với sự thâm hụt kép – vừa thâm hụt ngân sách, vừa
thâm hụt cán cân thương mại. Tình trạng sử dụng vốn kém hiệu quả, đầu tư công tràn
lan và tình trạng thua lỗ của những doanh nghiệp Nhà Nước đã gây ra tình trạng thâm
hụt ngân sách ngày càng lớn. Chính điều đó đã tạo ra sự thâm hụt kép trong nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, cán cân thương mại của Việt Nam năm 2011 và năm 2012 đã chuyển
biến khá đột biến theo hướng giảm mạnh mức độ nhập siêu và đã bắt đầu có suất siêu.
Qua xem xét cho thấy, đây chưa phải là sự chuyển biến thực sự về chất lượng trong hoạt
động xuất nhập khẩu, mà sâu xa hơn nữa là chất lượng trong đổi mới, nâng cao năng
lực, hiệu của nền sản xuất trong nước (mặc dù không thể phủ nhận tác dụng của các biện
pháp thúc đẩy xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu mà Chính phủ và các Bộ, ngành đang
nỗ lực triển khai áp dụng). Đặc biệt, năm 2012 – lần đầu tiên sau gần 20 năm kể từ năm
1993, cán cân thương mại của Việt Nam thặng dư.

6


Kim ngạch xuất khẩu trong năm 2012 vẫn giữ được đà tăng ấn tượng 18.3%, bất
chấp những khó khăn chung của kinh tế thế giới. So với Trung Quốc, Ấn Độ và một số
nước trong khu vực ASEAN như Philippines, Malaysia, Thái Lan, thì động lực tăng
trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong năm nay vẫn mạnh mẽ và có phần vượt bậc. Tuy

nhiên, góp phần không nhỏ vào đà tăng này chủ yếu nhờ vào các doanh nghiệp FDI với
mức tăng 31.2%. Điều này được giải thích là do họ vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh
và thị trường, trong khi hàng loạt doanh nghiệp trong nước vẫn đang suy yếu.
Trong cơ cấu phần kim ngạch xuất khẩu đáng chú ý là 2 nhóm hàng Điện thoại
các loại và linh kiện – Điện tử, máy tính và linh kiện có mức tăng trưởng lần lượt là
97.7% và 69.1% so với năm 2011. Ngoài ra, nhóm hàng nông nghiệp như Thủy sản, Gạo
cũng góp mặt trong 10 nhóm hàng xuất khẩu mạnh nhất trong năm 2012 (bảng bên
dưới).

KIM NGẠCH XUẤT KHẨU 10 NHÓM HÀNG LỚN NHẤT NĂM 2012
STT

Tên hàng

Trị giá
7

Tăng trưởng so


Tổng kim ngạch
Trong đó: Doanh nghiệp FDI
1 Hàng dệt, may
2 Điện thoại các loại và linh kiện
3 Dầu thô
4 Điện tử, máy tính và linh kiện
5 Giày dép
6 Thuỷ sản
7 Máy móc, thiết bị, DC, PT khác
8 Gỗ và các sản phẩm gỗ

9 Phương tiện vận tải và phụ tùng
10 Gạo

(Tỷ USD) với năm 2011 (%)
114.63
18.3
72.30
31.2
15.40
7.1
12.64
97.7
8.40
15.9
7.88
69.1
7.25
10.6
6.16
0.7
5.54
26.9
4.64
17.3
4.50
29.8
3.69
0.9

Nguồn: Tổng cục Thống Kê

Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu trong năm 2012 đạt 114.35 tỷ USD và
tăng 7.1% so với năm 2011. Khối doanh nghiệp FDI có mức tăng trưởng nhập khẩu ấn
tượng với 23.5%, có thể để hỗ trợ cho nhu cầu xuất khẩu.
Với nền công nghiệp chủ yếu phụ thuộc nhiều vào nguyên, vật liệu nhập khẩu, thì
mức độ tăng trưởng yếu ớt của kim ngạch nhập khẩu đã làm lộ thêm về tình trạng trì trệ
của nền kinh tế. Dưới đây là kim ngạch nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất trong năm
2012.

KIM NGẠCH NHẬP KHẨU 10 NHÓM HÀNG LỚN NHẤT NĂM 2012
STT

Tên hàng

Tổng kim ngạch
Trong đó: Doanh nghiệp FDI
1 Máy móc, thiết bị, DC, PT khác
8

Trị giá
Tăng trưởng so
(Tỷ USD) với năm 2011 (%)
114.35
7.1
60.34
23.5
16.03
3.2


2

3
4
5
6
7
8
9
10

Điện tử, máy tính và linh kiện
Xăng dầu
Vải
Sắt thép
Điện thoại các loại và linh kiện
Chất dẻo
Nguyên PL dệt, may, giày dép
Hoá chất
Kim loại thường khác

13.10
8.90
7.05
5.98
4.98
4.76
3.18
2.78
2.67

66.8

-10.0
4.7
-7.0
82.9
0.0
7.9
2.3
-1.1

Nguồn: Tổng cục Thống Kê

III. NGUYÊN NHÂN THÂM HỤT CÁN CÂN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Thứ nhất, thâm hụt ngân sách chính là một trong những nguyên nhân gây ra
sự thâm hụt cán cân thương mại, và Việt Nam đang phải chịu sự thâm hụt kép. Chính
sách tài khóa không nhất quán, chính phủ không nắm rõ được mức chi và những mục
tiêu đề ra nhằm giảm thâm hụt ngân sách không đạt hiểu quả đã làm cho tình trạng nhập
siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai trong thời gian dài. Đầu tư Nhà Nước chiếm trên
50% tổng đầu tư xã hội nhưng lại kém hiệu quả hơn so với đầu tư khu vực tư nhân.
9


Những doanh nghiệp NN đầu tư tràn lan vào những lĩnh vực chứng khoán, bất động sản,
lập các công ty mới…với nhiều rủi ro và kinh doanh kém hiệu quả ngày một nhiều. Mà
các khoản đầu tư này đều ảnh hưởng tới cán cân thương mại vì nếu chúng ta xét đó là
chi tiêu công thì nó sẽ làm tăng G, còn nếu chúng ta xét là đầu tư thì nó cũng làm tăng I.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân, để hạn chế các khoản đầu tư này thì sẽ có biện pháp
là tăng lãi suất, nhưng đối với các DN NN, thì chính phủ thường dùng lãi suất ưu đãi,
thế nên, tình trạn này ngày càng làm cho cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng.
Thứ hai, Tăng trưởng nhập khẩu nhanh hơn xuất khẩu: Ta thấy tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu khá cao nhưng nhìn chung vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu.

Trong giai đoạn 2000-2011 tốc độ tăng trưởng bình quân của kim ngạch xuất khẩu là
20,02 % trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu đạt mức tăng trưởng 21,27%/năm. Xuất
khẩu của Việt nam tuy tăng trưởng kinh tương đối cao nhưng không vững chắc, thành
phần xuất khẩu của Việt Nam chưa đa dạng và phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu
đầu vào nhập từ nước ngoài và một số mặt hàng chủ lực với giá trị gia tăng thấp. Tình
trạng đó dẫn đến kết quả tất yếu là cán cân thương mại rơi vào trạng thái thâm hụt.

CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2012
Năm
Kim
ngạch
xuất
khẩu
Kim
ngạch
nhập
khẩu

2000

2001

2002

2003

2004

2005


2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Giá trị (Tỷ USD)

14,45

15,03

16,71

20,2

26,49

32,45

39,8


48,6

62,7

57,1

72,2

96,9

115

Tăng trưởng (%)

25,2

4

11,2

20,6

31,4

22,5

22,7

21,9


29,1

-8,9

26,4

34,2

18,2

14,07

14,4

17,76

25,2

31,95

36,98

44,89

62,68

80,71

69,95


84.84

106.8

114

34,5

3,4

22,1

28

26,6

21,2

22,1

38,3

28,1

-13

18,3

25,9


6,6

Giá trị(tỷ USD)
Tăng trưởng (%)

10


Cán cân thương mại (Tỷ
giá USD)

0,38

0,63

-1,05

-5

-5,45

-4,54

-5,06

-14,12

-18,03

12,85


-12,6

-9,84

0,75

Nguồn: Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam năm
2012
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu: Nước ta vẫn là một nước xuất thô, nhập tinh chủ yếu
xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm sản công nghiệp nặng và khoáng sản, công nghiệp
nhẹ và tiểu thủ công nghiệp. Trung bình giai đoạn 1999-2010, hàng nông lâm sản chiếm
khoảng 15% trong đó chủ yếu là hàng nông sản với các sản phẩm chính như gạo, hồ
tiêu, cao su, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm khoảng 34% mà chủ yếu là
khoáng sản với mặt hàng chính là than đá và dầu thô, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ
công nghiệp chiếm khoảng 40% với sản phẩm chủ yếu là hàng dệt may và giày da. Cơ
cấu hàng hóa xuất khẩu cho thấy hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam không có gì nổi trội
so với các quốc gia trong khu vực, cơ cấu hàng trong nhóm hàng công nghiệp nhẹ tiểu
thủ công nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu, nhập khẩu dây chuyền sản xuất. Đây cũng
là tình trạng chung của nhiều ngành nghề sản xuất trong nước. Ngoài ra, nhiều mặt hàng
xuất khẩu khả năng gia tăng sản lượng khi giá cả có lợi, chẳng hạn như tỷ giá hối đoái
tăng thì nhiều mặt hàng xuất khẩu không thể tăng sản lượng vì hầu hết các mặt hàng
xuất khẩu đã phát huy hết công suất sản xuất và không thể khai thác tiếp nhằm đảm bảo
tính bền vững dài hạn (như dầu thô, than đá…)
Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu: Trong suốt giai đoạn 1999-2010, tổng giá trị nhập
khẩu ngày càng gia tăng và nhập khẩu thuộc nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng
rất lớn, trung bình khoảng 92% tổng giá trị nhập khẩu, 8% còn lại chủ yếu là hàng tiêu
dùng. Trong nhóm hàng tư liệu sản xuất thì nhóm hàng máy móc thiết bị chiếm khoảng
29% tổng giá trị nhập khẩu, nhóm hàng nguyên nhiên, vật liệu chiếm khoảng 63,5%
tổng giá trị nhập khẩu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất

cao: nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị , dây chuyền sản xuất phục vụ đầu tư, thu nhập
tăng lên tạo nhu cầu đối với hàng tiêu dùng và xa xỉ phẩm, sự biến động trong giá hàng
hóa thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hóa nên nhiều hàng hóa được nhập khẩu để
tích trữ trước khi giá tăng…
11


Thứ ba, nhu cầu nhập khẩu và chi phí nhập khẩu tăng cao: Nền kinh tế Việt
nam đang trong giai đoạn tuyệt đối. Việc đẩy mạnh công nghiêp hóa hiện đại hóa đất
nước đã khiến cho nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị phụ tùng để mở rộng sản xuất
của các doanh nghiệp, các ngành đều tăng mạnh. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2011, nhóm hàng tư liệu sản xuất luôn chiếm tỷ trọng rất cao trên
90%. Bên cạnh đó, sau khi Việt Nam gia nhập WTO việc dỡ bỏ rào cản thương mại đã
khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng lên, các loại hàng tiêu dùng của
nước ngoài đồng loạt đổ bộ vào chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Lượng hàng hóa và
dịch vụ nhập khẩu cũng tăng mạnh so với trước đó.
CƠ CẤU NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM PHÂN THEO NHÓM HÀNG 2000-2011
Nhóm hàng
Tư liệu sản xuất
Máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng
Nguyên, nhiên, vật liệu
Hàng tiêu dùng
Lương thực
Thực phẩm
Hàng y tế
Hàng khác
Vàng phi tiền tệ

2000
93,8

30,6
63,2
6,2
0
1,9
2,2
2,1

2001
92,1
30,5
61,6
7,9
3
2
3

2002
92,1
29,8
62,3
7,9
0
2,5
1,8
3,6

2003
92,2
31,6

60,6
7,8
0
2,4
1,6
3,8

2004
93,3
28,8
64,5
6,7
0
2,4
1,4
2,9

2005 2006 2007 2008
89,6
88
90,5
88,8
25,3
24,6
28,6
28
64,4
63,4
61,9
60,9

8,2
7,8
7,4
7,8
0
0
0
0
3
2,8
2,5
2,7
1,4
1,3
1,2
1,1
3,7
3,7
3,7
4
2,2
4,2
2,1
3,4
Nguồn: Tổng cục thống kê

ĐV: %
2009
90,2
29,3

60,9
9,3

2010
90
29,2
60,8
8,8

2011
90,6

7,6

1,5
0,5

1,2

1,8

Thứ tư, đầu tư tăng cao và tiết kiệm khu vực tư nhân không đủ bù đắp dẫn tới
sự huy động vốn từ bên ngoài và làm thâm hụt cán cân thương mại. Nếu thâm hụt là
do nhu cầu đầu tư tăng cao thì thâm hụt không phải là một vấn đề nghiêm trọng, vì khi
đầu tư nhiều vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất, thì trong tương lai
năng suất sẽ cao hơn và sẽ sản xuất nhiều hơn, và hàng hóa sản xuất ra có thể để tăng
xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thương mại và tài khoản vãng lai (trả nợ). Tuy nhiên,
nếu nhu cầu đầu tư tăng cao là vào khu vực bất động sản, thì lại đáng lo ngại, vì khu vực
này thường không làm tăng năng suất (như đầu tư vào máy móc, thiết bị), cũng như tạo
ra các sản phẩm có thể được dùng để trả nợ (thông qua xuất khẩu). Những lý do dẫn tới

đầu tư tăng cao:
- Chính sách tiền tệ: Một trong những nguyên nhân có liên quan đến đầu tư tăng
cao là chính sách tiền tệ nơi lỏng của Việt Nam trong thời gian qua. Khi thực hiện chính
sách tiền tệ nơi lỏng sẽ dẫn tới tăng đầu tư trong nước, do trong ngắn hạn điều này làm
giảm lãi suất. Ngoài tác động trên, chính sách tiền tệ còn có tác động thông qua tỷ giá.
12


Khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì sẽ tạo nên áp lực giảm giá đồng tiền nội tệ
so với đồng tiền của nước khác. Nếu tỷ giá hối đoái được tự do thay đổi, thì khi đó, nhập
khẩu sẽ trở nên đắt hơn và xuất khẩu sẽ trở nên rẻ hơn. Tuy nhiên, khi tỷ giá không được
tự do thay đổi (tỷ giá cố định), thì đồng tiền nội tệ về bản chất là đã lên giá. Việc duy trì
một đồng tiền nội tệ đã lên giá như vậy sẽ làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Trong
suốt một thời gian dài Việt Nam đã duy trì tỉ giá cố định gắn vào đồng USD. Khi lạm
phát thấp đây làm một chính sách hợp lý để làm tăng khả năng xuất khẩu của hàng hóa
Việt Nam. Tuy nhiên, từ cuối năm 2006, và đặc biệt là năm 2007, lượng vốn đầu tư (cả
gián tiếp và trực tiếp) chảy vào Việt nam tăng đột biến, làm cho đồng Việt Nam tăng giá
so với các đồng tiền khác. Để duy trì tính cạnh tranh về giá của hàng XK, Ngân hàng
Nhà nước đã tung một lượng tiền lớn ra để mua USD (làm tăng dự trữ ngoại hối), dẫn
tới một lượng cung tiền rất lớn trong hệ thống thanh toán của Việt Nam. Tác động của
lạm phát có tác dụng làm đồng tiền mất giá, nhưng việc duy trì tỷ giá cố định về cơ bản
là việc duy trì một đồng tiền định giá quá cao đã làm cho hàng VN mất tính cạnh tranh
(trở nên đắt hơn) và hàng NK trở nên rẻ hơn. Đây cũng chính là một nguyên nhân của
tình trạng nhập siêu và thâm hụt các cân thương mại. Phải thấy rằng tỷ giá cứng là một
nguyên nhân dẫn đến thâm hụt thương mại.
- Tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán: Trong năm 2006 và 2007 đã
chứng kiến hàng loạt các công ty thực hiện cổ phần hóa, lên sàn, phát hành thêm cổ
phiếu. Năm 2007 còn được nhìn nhận là năm của IPO. Bản chất của các hoạt động này,
kể cả việc thực hiện cổ phẩn hóa (không chỉ của các công ty nhà nước) là các hoạt động
huy động vốn của doanh nghiệp để đầu tư. Với lượng vốn đầu tư được huy động qua

kênh của thị trường chứng khoán, rõ ràng là mức đầu tư của VN đã tăng lên rất nhiều.
Hệ quả tất yếu của việc tăng đầu tư là nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Để đáp
ứng được nhu cầu đầu tư tăng vọt của các doanh nghiệp Việt Nam, một lượng lớn vốn
đầu tư gián tiếp đã chảy vào Việt Nam. Vốn nước ngoài vào làm thu nhập dân cư trong
nước tăng lên trong khi các khoản đầu tư khác của Nhà nước vào khu vực sản xuất, hay
đầu tư công của Chính phủ tuy lớn nhưng chưa cho ra sản phẩm và thu nhập ngay.
Chính vì vậy, cầu tiêu dùng được đẩy lên rất lớn.
13


Thứ năm, điều hành tỷ giá đã làm cho cán cân thương mại không được cải
thiện mà còn trầm trọng hơn do chính sách tỷ giá “cố định linh hoạt” của Việt Nam
gắn liền với đồng đôla Mỹ. Diễn biến tỷ giá tại một số thời điểm chưa theo kịp với thực
tế của thị trường trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng, tỷ giá hầu như cố định đã
góp phần làm giảm kim ngạch xuất khẩu, tăng kim ngạch nhập khẩu. Mặc dù tỷ giá danh
nghĩa USD/VNĐ có xu hướng tăng lên theo thời gian và biên độ giao động được điều
chỉnh linh hoạt tuỳ từng hoàn cảnh kinh tế cụ thể nhưng diễn biến tỷ giá thực có xu
hướng giảm dần trong những năm gần đây do chênh lệch tốc độ lạm phát của Việt Nam
so với Mỹ và các nước đối tác thương mại chính đã góp phần làm giảm sức cạnh tranh
về giá hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Thực tế này một phần lý giải tình
trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam trong thời gian qua trở nên lớn hơn.

14



×