Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận thực trạng tình hình lạm phát ở việt nam trong giai đoạn 2000 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.39 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang là một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
những thành tựu khá nổi bật như tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, giảm tỷ lệ
đói nghèo trong dân cư xuống mức thấp, đời sống của người dân đạt được nhiều
cải thiện so với cách đây hơn 20 năm. Tuy nhiên thực tế cho thấy nền kinh tế Việt
Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như tình trạng lạm phát cao, tình trạng
thâm hụt thương mại và nợ chính phủ cũng như nợ quốc gia tăng cao. Đặc biệt khó
khăn lớn hiện nay đối với nền kinh tế Việt Nam chính là tình trạng lạm phát cao đã
bắt đầu có xu hướng quay trở lại mức hai con số sau một thời gian dài ngừng ở
mức một con số. Một số dự báo thống kê gần đây của ngân hàng phát triển châu Á
(ADB), hay ngân hàng thế giới (WB) đều dự báo rằng con số lạm phát của Việt
Nam năm nay chắc chắn sẽ vượt mức 11%, cụ thể là sẽ vào khoảng từ 12% cho
đến 13%. Tuy nhiên con số lạm phát thực tế còn có thể cao hơn.
Tình trạng lạm phát đã có những tác động rất lớn không chỉ đến đời sống
của người dân mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Cụ
thể lạm phát cao làm cho suy giảm chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rõ
rệt, điều này có thể so sánh với nước láng giềng Trung Quốc, mặc dù tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc nhưng tỷ lệ lạm phát của Việt
Nam lại cao hơn so với Trung Quốc khiến cho thu nhập bình quân thực tế của
người Trung Quốc cao hơn nhiều so với Việt Nam, cụ thể ở đây là gấp 5 lần (nếu
tính theo sức mua tương đương PPP). Không những vậy tình trạng lạm phát cao
còn đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào tình hình sản xuất khó khăn do giá các
nguyên vật liệu đầu vào tăng cao và sự sụt giảm từ doanh thu thực tế do tình hình
lạm phát. Bên cạnh đó lạm phát cao còn làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo
trong xã hội và làm tiềm ẩn các nguy cơ bất ổn xã hội.

i


MỤC LỤC


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT ................................................1
1.3.1. Theo mô hình tổng cung – tổng cầu...................................................................................3
1.3.1.1. Lạm phát do cầu kéo......................................................................................................3
1.3.1.2. Lạm phát do chi phí đẩy.................................................................................................3
1.3.2. Các nguyên nhân của lạm phát từ phía tiền tệ...................................................................3
1.3.2.1. Lạm phát do tăng cung tiền tệ.......................................................................................3
1.3.2.2. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái........................................................................................4
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
2000- NAY.........................................................................................................................................5
2.1.2 Nguyên nhân của lạm phát..................................................................................................7
2.1.2.1. Các nguyên nhân tác động đến tổng cầu:......................................................................7
2.1.2.2. Các nguyên nhân tác động đến tổng cung:....................................................................8
2.2.1. Thực trạng ..........................................................................................................................8
2.2.2. Nguyên nhân.......................................................................................................................9
2.2.2.1. Các nhân tố tác động tổng cầu:.....................................................................................9
2.2.2.2. Các nhân tố tác động đến tổng cung:..........................................................................11

ii


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT
1. Khái niệm
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện
khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hóa không được tôn trọng. Mỗi
nhà kinh tế đều đưa ra khái niệm về lạm phát theo quan điểm, phương hướng
của mình, như:
Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng: lạm phát xảy ra khi mức chung của
giá cả và chi phí tăng- giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đắt,
tiền thuê tư liệu sản xuất tăng. Ông cho rằng lạm phát chính là biểu thị sự tăng
lên của giá cả.

Milton Friedman lại quan niệm: lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo
dài. Ông cho rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Một số nhà kinh tế thuộc
phát tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý kiến đó của Friedman.
Một số nhà kinh tế học hiện đại lại định nghĩa: lạm phát là sự tăng lên
của mức giá trung bình theo thời gian. Và định nghĩa này được sử dụng rộng rãi
trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường hiện nay.Trong một nền kinh tế, lạm phát
là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các
nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các
loại tiền tệ khác.
2. Thước đo lạm phát
Tỷ lệ lạm phát là tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế. Nó cho thấy
mức độ lạm phát của nền kinh tế. Thông thường, người ta tính tỷ lệ lạm phát
dựa vào chỉ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giảm phát GDP. Tỷ lệ lạm phát có thể
được tính cho một tháng, một quý, nửa năm hay một năm.
2.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Đây là thước đo lạm phát được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay, và ở Việt
Nam chúng ta cũng sử dụng chỉ số này. Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh sự biến
động giá của một “giỏ” hàng hoá và dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng xã
hội. “Giỏ” hàng hoá ở đây bao gồm một số hữu hạn các mặt hàng tiêu dùng
như: lương thực thực phẩm, quần áo, nhà cửa, xăng dầu, chi phí đi lại, dịch vụ y
tế, các dịch vụ khác phục vụ cuộc sống hàng ngày và được tính theo công thức:
1


k

CPI =

∑P Q
i =1

k

∑P
i =1

t

0
i

0

Qi0

i

i

Trong đó:
Pi0: giá cả ở kỳ gốc của mặt hàng i
Pit : giá cả ở kỳ nghiên cứu của mặt hàng i
Qi0 : lượng tiêu dùng ở kỳ gốc của mặt hàng i
Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối phản ánh xu thế và mức độ
biến động của giá cả bán lẻ hàng hoá và dịch vụ dùng trong sinh hoạt của dân
cư. Vì thế, nó được sử dụng để theo dõi sự thay đổi của chi phí sinh hoạt theo
thời gian và đo lường lạm phát, khi chỉ số giá tiêu dùng tăng nghĩa là mức giá
trung bình tăng. Kết quả là người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn để có thể
mua được một lượng hàng hoá và dịch vụ như cũ nhằm duy trì mức sống như
trước của họ, hoặc với một thu nhập nhất định họ mua được lượng hàng hoá tiêu
dùng ít hơn.

2.2. Số giảm phát GDP
Số giảm phát GDP là thước đo giá của tất cả các hàng hóa và dịch vụ bao
gồm trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Việc tính chỉ số điều chỉnh GDP sẽ
cho chúng ta biết sự thay đổi trong giá của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối
cùng trong nền kinh tế so với giá của thời kỳ được chọn làm gốc.
Tỷ lệ lạm phát năm t so với năm (t-1) được tính như sau:
Tỷ lệ lạm phát (t) = 100 Chỉ số giảm phát GDP t - Chỉ số giảm phát GDP
(t-1)
x
Chỉ số giảm phát GDP (t-1)
3. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung, nên các nguyên nhân gây ra
lạm phát chủ yếu bắt nguồn từ các yếu tố cung – cầu về hàng hoá và tiền tệ.

2


1.3.1. Theo mô hình tổng cung – tổng cầu.
1.3.1.1. Lạm phát do cầu kéo.
P
ASLR
ASSR
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu
AD tăng lên mạnh mẽ. Bình thường nền kinh
tế cân bằng tại điểm A với mức giá P0 và mức
sản lượng Y0. Như vậy khi một trong các yếu
P1
B
tố tác động làm tổng cầu tăng lên thì đường
P0

A
tổng cầu sẽ dịch chuyển từ AD0 đến AD1 và
sản lượng tăng lên, đồng thời giá cả tăng từ P 0
AD0
AD1
đến P1 gây ra lạm phát
Theo trường phái trọng tiền thì các yếu
Y0 Y1
Y
tố gây ra lạm phát cầu kéo là những yếu tố làm
tăng tổng cầu như cung tiền vượt mức kéo dài
của NHTW. Nhưng theo quan điểm của
phái Keynes thì ngoài yếu tố tăng cung
P
ASLR ASSR2 ASSR1
tiền, lạm phát cầu kéo còn do yếu tố chi
tiêu của Chính phủ tăng kéo dài.
P1
B
1.3.1.2. Lạm phát do chi phí đẩy.
Do cơn sốc của giá cả thị trường
A
P
0
đầu vào, đặc biệt là lương và giá cả các
vật tư cơ bản (dầu, sắt thép…) là nguyên
AD
nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường
AS dịch chuyển sang trái và nền kinh tế
Y1 Y0

Y
di chuyển từ điểm A đến điểm B. Tuy
tổng cầu không thay đổi nhưng sản lượng giảm xuống và giá cả thì tăng lên, do
đó có lạm phát. Như vậy nền kinh tế trong tình trạng suy thoái đi kèm lạm phát.
1.3.2. Các nguyên nhân của lạm phát từ phía tiền tệ.
1.3.2.1. Lạm phát do tăng cung tiền tệ.
Lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng không có cuộc lạm phát cao nào mà
không có sự tăng trưởng mạnh về tiền tệ. Theo nguyên lý thứ 9 về kinh tế,
Mankiw khẳng định: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền. Lượng tiền
3


tăng càng nhanh thì lạm phát càng cao và bất kỳ một chính sách vĩ mô nào giảm
được tốc độ tăng tiền thì cũng dẫn đến giảm tỷ lệ lạm phát.
Theo nhà kinh tế học Mankiw, trong thực tiễn các nền kinh tế, có phương
trình:
MxV=PxY
Phương trình này cho thấy lượng tiền (M) nhân với tốc độ lưu thông tiền
tệ (V) bằng giá hàng hoá (P) nhân với sản lượng của nền kinh tế (Y). Nó được
gọi là phương trình số lượng, bởi vì nó phản ánh mối quan hệ giữa số lượng tiền
(M) và giá trị sản lượng danh nghĩa (P x Y). Phương trình số này cho thấy sự
gia tăng lượng tiền trong nền kinh tế phải biểu hiện ở một trong ba biến số khác:
mức giá phải tăng, sản lượng phải tăng, hoặc tốc độ lưu thông tiền tệ phải giảm.
Với giả thiết là tốc độ lưu thông tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian.
Vì tốc độ lưu thông tiền tệ ổn định, nên khi NHTW thay đổi khối lượng tiền tệ
(M), nó gây ra sự thay đổi tương ứng trong giá trị sản lượng danh nghĩa.
Sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế (Y) được xác định bởi các
nhân tố sản xuất (lao động, tư bản hiện vật, vốn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên)
và trình độ công nghệ hiện tại. Nhưng vì tiền có tính trung lập, nên nó không ảnh
hưởng đến sản lượng.

Với sản lượng phụ thuộc vào các nhân tố sản xuất và công nghệ, thì khi
NHTW thay đổi khối lượng tiền tệ và gây ra những thay đổi tương ứng trong
giá trị sản lượng danh nghĩa, thì những thay đổi này được phản ánh trong sự
thay đổi của mức giá (P).
Như vậy, khi NHTW tăng cung tiền tệ một cách nhanh chóng thì kết quả
là lạm phát sẽ tăng.
1.3.2.2. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái.
Việc tăng lên của tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ
nước ngoài cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của
những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ
giá hối đoái.
4


Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng
cao, đẩy chi phí nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi phí đẩy như
đã phân tích ở trên.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 2000- NAY
Diễn biến lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000-2013 khá
phức tạp. Đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam bắt đầu hội nhập sâu rộng với
nền kinh tế quốc tế, nên lạm phát của Việt Nam không chỉ bị tác động bởi các
nhân tố trong nước mà còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố từ ngoài nước.
Hình 2.1. Diễn biến lạm phát từ năm 2000 đến nay

5



Qua dãy số liệu về chỉ số giá CPI tại biểu đồ trên, nhóm nghiên cứu nhận
thấy trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay có thể được chia làm 3 giai
đoạn: Giai đoạn 2000-2001 là giai đoạn thiểu phát; Giai đoạn 2002-2006 là giai
đoạn lạm phát vừa phải, biến động ít; giai đoạn 2007-2013 là giai đoạn biến
động thất thường, có lúc lạm phát cao, có lúc lạm phát giảm mạnh. Việc chia ra
làm 3 giai đoạn để phân tích xác định những nguyên nhân chủ của lạm phát
trong mỗi giai đoạn.
2.1. Giai đoạn 2000- 2001
2.1.1. Thực trạng
Trong khi tốc độ tăng GDP đã được cải thiện, tốc độ tăng bình quân hàng năm
là 6,77%, cao hơn so với mức 5,3% của bình quân 2 năm trước đó, nhưng nền
kinh tế trong thời gian này lại rơi vào trạng thái thiểu phát. Trong nhiều tháng
của 2 năm này chỉ số giá tiêu dùng CPI giảm so với tháng trước. Đây là hiện
tượng chưa từng xảy ra đối với nền kinh tế Việt Nam.
Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng năm 2000, 2001

6


2.1.2 Nguyên nhân của lạm phát.
2.1.2.1. Các nguyên nhân tác động đến tổng cầu:
- Nền kinh tế thế giới ở thời kỳ suy thoái do chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính tiền tệ liên tiếp xảy ra ở các
khu vực Châu Á, một số nước Châu Âu và
Châu Mỹ La tinh, đặc biệt sau sự kiện ngày
11/9/2001 ở Mỹ, làm thị trường hàng hoá xuất
khẩu của Việt Nam bị thu hẹp. Việc xuất khẩu
một số mặt hàng chủ lực tuy tăng lượng nhưng
giá thế giới lại giảm làm giảm giá trị xuất khẩu,
như cà phê tăng 24% về lượng nhưng giảm

23% về giá trị, gạo tăng 2,1% về lượng nhưng giảm 11,8% về giá trị. Việc giảm
giá trị xuất khẩu tác động đến xuất khẩu ròng, đường tổng cầu dịch trái và giá
cả giảm.
- Đồng thời, trong giai đoạn này, lãi
suất trên thế giới tăng, nhiều khi cao hơn lãi
suất trong nước, làm giảm đầu tư (năm 2000
thâm hụt 754 triệu USD), đường IS* dịch
chuyển sang trái, r* tăng làm giảm cầu tiền,
đường LM* dịch phải. Tỷ giá giảm xuống.
Tuy nhiên, để khuyến khích xuất khẩu,
NHNN vẫn cần thực hiện duy trì tỷ giá ổn
LM*
LM*
LM*
định nên phải can thiệp thị trường làm LM* dịch trái.
Thu nhập giảm và tỷ giá không đổi. Điều này tác
r
động làm giảm tổng cầu, giá cả giảm.
2

7

0

r

IS*1

IS*o


1


Y2

Yo

Y1

- Chi tiêu của Chính phủ chậm do nhiều dự án chậm được giải ngân,
trong khi đó chi ngân sách của Chính phủ vượt dự toán trong 4 năm liên tiếp
(1998-2001) cũng là những nhân tố làm đường tổng cầu dịch trái và giá cả
giảm.
2.1.2.2. Các nguyên nhân tác động đến tổng cung:
- Giá cả các nguyên liệu đầu vào trên thế giới
như giá dầu mỏ, giá lương thực thực phẩm giảm mạnh
do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Đặc biệt là chỉ số
giá lương thực thực phẩm trong 2 năm này liên tục âm
như Biểu đồ CPI ở trên, trong khi tỷ trọng của nhóm
hàng này chiếm đến 47,9% trong “giỏ” hàng hoá tiêu
dùng của Việt Nam. Giá dầu cũng liên tục giảm, từ mức khoảng 30 USD/thùng đầu
năm 2000 xuống còn 19,5 USD/thùng vào cuối năm 2001. Giá cả chi phí đầu vào
giảm là nhân tố tác động làm tăng tổng cung, đường AS dịch phải, nền kinh tế di
chuyển từ điểm A tới điểm B, kết quả là giá cả giảm.
- Việc áp dụng các chính sách thuế mới như VAT, thuế thu nhập doanh
nghiệp đã loại trừ được chồng chéo trong tính toán, điều tiết thu nhập khoa học,
từng bước khuyến khích các thành phần kinh tế điều tiết sản xuất kinh doanh,
làm tăng cung, đường AS dịch chuyển phải và giá cả giảm nhưng nền kinh tế
đạt mức tăng trưởng (đồ thị trên).
2.2. Giai đoạn từ năm 2002- 2006

2.2.1. Thực trạng
Trong giai đoạn 2002-2006, lạm phát Việt Nam duy trì mức tăng 1 con
số. Đây là mức lạm phát có thể nói là phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam, nhờ vậy đã góp phần tích cực làm kinh tế Việt Nam giai đoạn
này duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2002-2006 là 7,7%, cao hơn
nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 6,45% của 5 năm trước 19972001.
Bảng 2: Tốc độ tăng CPI và GDP 2000-2006

8

Y


(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
2.2.2. Nguyên nhân.
2.2.2.1. Các nhân tố tác động
tổng cầu:
- Trước hết, khi xem xét
các nhân tố tác động đến tổng
cầu của nền kinh tế thì các chỉ
tiêu tiền tệ, trong đó có cung
tiền và tốc độ tăng trưởng tín
dụng là những nhân tố quan
trọng. Trong giai đoạn 20022006, do nguồn vốn đầu tư tư
nhân trong giai đoạn này chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân hàng thì tốc độ tăng
trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đã đóng góp đáng kể để tăng đầu tư, góp
phần làm tăng cầu của nền kinh tế, ảnh hưởng nhất định đến lạm phát.
Mức tăng tổng phương tiện thanh toán (M2) bình quân đạt 27,25% và tín dụng
tăng ở mức bình quân 26% mỗi năm được coi là tương đối phù hợp để thúc đẩy
tăng trưởng, nhưng cũng có tác động nhất định đến mức lạm phát vừa phải

trong giai đoạn này. Qua biểu đồ trên cho thấy mặc dù trong giai đoạn 20002003, CPI và các chỉ tiêu tiền tệ hầu như không có mối quan hệ, nhưng trong
giai đoạn 2004-2006, CPI và các chỉ tiêu tiền tệ có quan hệ khá chặt chẽ. Và tốc
độ tăng trưởng cao của M2 và tín dụng trong giai đoạn 2004-2006 đã có tác
động nhất định đến tăng tổng cầu và tăng chỉ số giá tiêu dùng.
- Một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm tăng tổng cầu góp
phần làm tăng GDP và đưa Việt Nam từ giai đoạn
thiểu phát 2000-2001 sang lạm phát thấp vào giai
đoạn này là do diễn biến kinh tế quốc tế diễn ra
9


khá thuận lợi. Kinh tế thế giới trong giai đoạn phục hồi mạnh sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu
theo báo cáo của IMF tăng mạnh từ mức 1,2% của năm 2001 lên mức 1,9%
năm 2002; 2,5% năm 2003; 5,1% năm 2004; 4,3% năm 2005; 5,1% năm 2006.
Kinh tế thế giới tăng trưởng tạo điều kiện cho thúc đẩy xuất khẩu, cũng như
việc đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cải thiện cán cân thanh toán, nhất là
trong năm 2006. Luồng vốn nước ngoài vào nhiều, nhưng các biện pháp trung
hoà của Ngân hàng Nhà nước chưa được thực hiện kịp thời đã góp phần làm
tăng M2 gây ra lạm phát.
- Cùng với diễn biến kinh tế thế giới khá thuận lợi, việc thực hiện các
hiệp định thương mại Việt-Mỹ và lộ trình cắt giảm thuế để gia nhập AFTA,
cùng với việc ký kết hiệp định EU trong năm 2003 và các Hiệp định song
phương khác đã tác động tích cực làm tăng tổng cầu nền kinh tế.
- Thu nhập của dân cư đã tăng lên đáng kể, tác động không nhỏ đến tăng
tiêu dùng và tăng tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng mạnh, từ mức 440
USD/người năm 2002 lên mức 725 USD/người năm 2006. Thêm vào đó, việc
cải cách chế độ tiền lương của Chính phủ đã được thực hiện cùng với các biện
pháp kích cầu khác của Chính phủ, như giảm giờ làm từ 48 tiếng/tuần xuống

còn 40 tiếng/tuần, một mặt làm tăng tiêu dùng của nền kinh tế, nhưng mặt khác
cũng làm gia tăng chi phí sản xuất, đã có tác động làm gia tăng giá cả.
- Chi tiêu của Chính phủ là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng giá
cả. Chi ngân sách thường xuyên tăng vượt dự toán trên 6%, riêng năm 2004 lên
tới trên 20%. Nguồn chi của Chính phủ, đặc biệt là chi vào các công trình dự án
lớn như Thuỷ điện Yaly, đường Hồ Chí Minh đã góp phần tích cực trong việc
kích cầu và tăng trưởng kinh tế, đồng thời khắc phục tình trạng thiểu phát của
Việt Nam.
- Tuy nhiên, trong các nhân tố tác động đến
tổng cầu, trong giai đoạn này cũng có nhân tố làm
giảm tổng cung. Đó là cán cân thương mại của Việt
10


Nam bắt đầu chuyển từ trạng thái thặng dư sang thâm hụt lớn, tức là xuất khẩu ròng
của Việt Nam bị giảm sút.
Như vậy, xét về các yếu tố bên cầu trong giai đoạn 2002-2006, nền kinh
tế xuất hiện cả những yếu tố làm tăng cầu và những yếu tố làm giảm cầu, nhưng
nhìn chung những yếu tố tăng cầu là chủ yếu, làm cho đường AD dịch chuyển
phải, dẫn đến lạm phát tăng.
2.2.2.2. Các nhân tố tác động đến tổng cung:
- Giá nguyên liệu đầu vào như dầu thô, thép, nhựa, phân bón... trên thị
trường thế giới tăng cao, làm chi phí sản xuất tăng, ảnh hưởng đến tổng cung
của nền kinh tế và làm tăng giá. Giá dầu thế giới tăng từ mức 32 USD/thùng
vào đầu năm 2004 lên đến mức kỷ lục 56 USD/thùng vào tháng 10/2004 và tăng
dần trong những năm tiếp theo. Trong nước, Bộ Tài chính đã 2 lần điều chỉnh
tăng giá xăng dầu vào tháng 2 và tháng 6/2004.

- Giá lương thực thực phẩm cũng tăng mạnh, chủ yếu là do ảnh hưởng
của dịch cúm gia cầm và do tăng giá phân bó, dầu thô. Chỉ số giá lương thực

thực phẩm so với cùng kỳ năm trước đã có lúc lên đến 17% (vào tháng 9/2004)
và cũng là mức tăng cao nhất trong 5 năm trước đó. Trong rổ hàng hoá tính CPI
của Việt Nam, quyền số đối với nhóm hàng lương thực thực phẩm lên đến
47,9% theo điều tra năm 2000 (đến cuộc điều tra năm 2005, quyền số đối với
nhóm hàng lương thực thực phẩm giảm xuống còn 42,85%). Do vậy, việc tăng
11


giá nhóm hàng lương thực thực phẩm đã có ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng giá
trong năm này.
Do lương thực thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong rổ hàng hoá tiêu dùng của
Việt Nam, nên việc tăng giá hàng lương thực thực phẩm sẽ có những ảnh hưởng
“dây chuyền” đến nhu cầu tăng lương, tăng chi phí sản xuất. Cùng với việc tăng giá
các nguyên liệu đầu vào khác đã gây nên tác động “tâm lý” đối với kỳ vọng về lạm
phát, làm giá cả tiêu dùng tăng mạnh.
2.3. Giai đoạn từ năm 2007- nay
2.3.1. Thực trạng
Từ năm 2007 trở lại đây (thời điểm gia nhập WTO), chỉ số giá tiêu dùng
biến động rất mạnh – phản ứng theo sự thay đổi của chính sách; và cũng trong
giai đoạn này, hiện tượng “2 năm tăng, 1 năm giảm” đã được thể hiện khá rõ
nét.
Cuối năm 2007, đầu năm 2008, lạm phát có sự gia tăng nhanh chóng, lạm
phát trung bình năm 2008 là 20, 05%, đỉnh điểm là tháng 9/2008, lạm phát lên
tới 28,32%.
Sau đó, lạm pháp giảm nhanh chóng trong năm 2009, xuống tới còn
1,97%, đến năm 2010, lạm phát cả nước ở mức 11,75%. Trong đó, CPI giáo dục
tăng mạnh nhất (20%), hàng ăn (16,18%), nhà ở- vật liệu xây dựng (15,74%).
Chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ số giá USD tăng 7,63%.
Tuy nhiên, cuối năm 2010 đầu năm 2011, lạm phát có xu hướng gia tăng
trở lại. Đầu năm 2011, lạm phát tăng 15,68% so với cuối năm 2010. Đỉnh cao

của lạm phát 2011 lên tới mức 23,02%. Trước tình hình trên, Chính phủ đã đề
ra chủ trương với các biện pháp mạnh, CPI hằng tháng giảm nhanh, bắt đầu từ
8/2011. Lạm phát tháng 8/2011 (so cùng kỳ) là 23% đã giảm, đến 8/2012 chỉ
còn 5%.
Ngày 23/12/2013, Tổng cục Thống kê công bố Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tháng 12/2013 và cả năm 2013. Theo đó, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2013
tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với tháng 12/2012. Chỉ số giá
tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6% so với bình quân năm 2012. Tổng cục
12


Thống kê cho biết: “Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất trong 10
năm trở lại đây”.
2.3.2. Nguyên nhân lạm phát giai đoanh 2008- 2013
2.3.2.1. Các nhân tố tác động đến tổng cầu
- Cuối năm 2007 và năm 2008, khi nền kinh tế Việt Nam nổi lên với
nhiều sự kiện, nhất là khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, lượng
vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối vào trong nước tăng lên đột biến, đồng thời
đẩy giá chứng khoán và giá tài sản lên rất cao. Để giữ ổn định tỷ giá, NHNN đã
phải bơm một lượng tiền đồng lớn vào nền kinh tế góp phần làm trầm trọng hơn
tình trạng lạm phát. Trong thời kì này, đồng đô la cũng xuống giá nghiêm trọng
do sự ảm đạm của nền kinh tế Mỹ, khiến nhiều nước trong đó có Việt Nam
cũng chịu sự ảnh hưởng nghiêm trọng. Năm 2008 là năm mà lạm phát lên tới
mức cao nhất từ năm 2000 đến nay, con số lạm phát luôn có xu hướng tăng
nhanh, có lúc lên tới đỉnh điểm là 28.32% vào 9/2008.
Lạm phát cao của Việt Nam trong thời gian qua được cho là nguyên nhân
tiền tệ. Thực tế quan sát biểu đồ hình dưới giữa tăng trưởng cung tiền và lạm
phát không có một mối quan hệ chặt với nhau rõ ràng. Các kiểm định thống kê
cũng không thấy có tương quan đáng tin cậy giữa tăng trưởng M2 và lạm phát.


Nguồn: WB và Vietstock

13


- Năm 2009, các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp
kìm chế lạm phát của chính phủ đồng thời từ tháng 9/2008 khủng hoảng tài
chính từ Mỹ bắt đầu lan rộng ra toàn cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh,
nhờ đó lạm phát kể từ tháng 9 đã giảm mạnh so với những tháng trước đó. Liên
tiếp 3 tháng 10, 11 và 12/2008 CPI tăng trưởng âm. Những tháng đầu năm 2009
lạm phát không còn là một vấn đề đáng lo ngại. Trung bình 7 tháng đầu năm
lạm phát chỉ tăng 0.45%/tháng, so với tháng 12/2008 đến tháng 7/2009 lạm phát
chỉ tăng 3.22%, trong đó lương thực thực phẩm giảm 0.33%.
- Kinh tế vĩ mô bất ổn định, cuối năm 2010, đầu năm 2011 lạm phát lại
tăng lên, năm 2011 lên tới trên 20%. Trong năm 2010, NHNN Việt Nam đã từng
ba lần áp dụng biện pháp phá giá đồng tiền VND. Ngày 11/2/2011, VND bị phá
giá 9,3%. Mặc cho các cuộc phá giá liên tục, tình trạng thâm hụt mậu dịch vẫn
tiếp diễn, dù mức thâm hụt năm 2011 đã giảm xuống thấp nhất kể từ năm 2000.
Nếu như trước đây nền kinh tế nước ta còn chứa đựng các yếu tố trao đổi hiện vật
thể hiện ở vấn đề tiền tệ hoá ở mức thấp (M2/GDP chỉ ở mức 20-25%) thì trong
một số năm gần đây, tốc độ tăng tiền tệ hóa của nền kinh tế đã ở mức rất cao. Tốc
độ tăng tiền tệ hóa ở nước ta bình quân hàng năm trong 20 năm từ năm 1991 đến
năm 2011 ở mức trên 9,5% và nếu tính mức tăng bình quân trong 5 năm từ năm
2001 đến năm 2006 là 7,5%, 5 năm từ năm 2006 đến năm 2010 là 7,2%. Nếu lấy
năm gốc là năm 1991 thì hệ số tiền tệ hóa của nước ta năm 2011 tăng 360,8% và
năm gốc là năm 2001 thì hệ số tiền tệ hóa năm 2011 tăng 91,2%. Những con số
này thể hiện chính sách tiền tệ của chúng ta quá lỏng lẻo.
- Năm 2012, Nghị quyết số 11 được Chính phủ đưa rắt thắt chặt tiền tệ,
nhằm mục tiêu giảm lạm phát. Theo đó, lãi suất ngân hàng tăng rất cao, các
doanh nghiệp bị hạn chế cho vay. Trong năm 2011, nhiều phân tích kinh tế

trong nước cho rằng Nghị quyết 11 đã phát huy tác dụng, là liều thuốc chữa lạm
phát hữu hiệu. Tuy nhiên, sang năm 2012, do ảnh hưởng của nhiều nguyên
nhân, trong đó có một phần từ Nghị quyết 11 đã thắt chặt mức cung tiền, nền
kinh tế Việt Nam lâm vào tình thế rất khó khăn, trong đó nổi bật là nợ xấu ngân
hàng và hàng tồn kho tăng cao, thị trường Bất động sản và Chứng khoán suy
14


thoái, đặc biệt là thị trường bất động sản suy thoái nghiêm trọng, trong khi dư
nợ lĩnh vực này có thể tới 50 tỷ USD. Một số lượng lớn các doanh nghiệp phá
sản. Đa số các doanh nghiệp lâm vào khó khăn. Nhiều tập đoàn lớn, đa số là các
tập đoàn nhà nước đầu ngành lỗ hàng nghìn tỷ, nợ xấu hàng trăm tỷ như
Vinashin, Vinalines. Tính chung hai năm 2011 và 2012 thì tổng số DN rời khỏi
thị trường bằng 20 năm trước đó. Và trong số gần 500.000 DN đang hoạt động
thì tỷ lệ thua lỗ cũng rất cao. Nợ xấu của toàn nền kinh tế tăng cao và tăng với
tốc độ nhanh đe doạ sự ổn định của nền kinh tế. Tổng nợ công theo định nghĩa
quốc tế vào cuối năm 2011 đã là 128.9 tỷ USD bằng 106% GDP (121.7 tỷ
USD), trong đó nợ nước ngoài bằng 38,9% GDP.
Đầu tư công quá mức, tuy không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư
công nhưng nhà nước chỉ nền tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn
cho cả nền kinh tế nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có
hiệu quả. Thực tế nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và
nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu
vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa
qua luôn ở mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP
(một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao, gây nên tình trạng tham
nhũng gia tăng.
Ngoài ra, kinh tế thế giới bước vào giai đoạn suy giảm mạnh 4.9% năm
2007, dự báo xuống 4% năm 2008. Thương mại quốc tế giảm mạnh so với năm
2006. Nền Kinh tế Mỹ (chiếm ¼ GDP toàn Thế giới) đang suy giảm, chuyển

qua suy thoái, ảnh hưởng đến giá cả nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm
trên toàn Thế giới tăng đột biến dẫn đến lạm phát xảy ra ở nhiều nước. Thị
trường tài chính Thế giới thiệt hại khoảng 3500 tỷ USD, đặc biệt Việt Nam
đang được đánh giá là “ngôi sao đang lên”. Sau khi gia nhập WTO thì nguồn
vốn đầu tư vào Việt Nam từ các nhà đầu tư nước ngoài rất lớn đã góp phần làm
tăng chi tiêu, xây dựng, chứng khoán, lạm phát. Bởi vì Việt Nam đã hội nhập
sâu vào nền kinh tế toàn cầu vì vậy khi nền kinh tế gặp trục trặc thì ảnh hưởng
nhiều đến nền kinh tế của Việt Nam.
15


Hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế vẫn
chủ yếu do mở rộng đầu tư thay vì chú trọng đến hiệu quả đầu tư, vốn đầu tư
cũng chưa được phân bổ một cách hiệu quả. Theo số liệu từ trung tâm nghiên
cứu chính sách và phát triển bền vững (CSDP), giai đoạn 2006-2010 chỉ số
ICOR của khu vực nhà nước vào khoảng 10,2 trong khi của khu vực tư nhân chỉ
là 5. Việc phát triển nền kinh tế không bền vững, lệ thuộc nhiều vào dòng vốn từ
nước ngoài được coi là nguyên nhân sâu xa dẫn tới tình trạng lạm phát cao của
Việt Nam trong những năm vừa qua
2.2.3.2. Các nhân tố tác động đến tổng cung
- Giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng cao:
Mở đầu cho việc tăng giá mặt hàng thiết yếu là ngày 24/2 năm 2011, giá
xăng trên thị trường nội địa Việt Nam tăng lên mức 19.300vđồng/lít và đến
ngày 27/03/2014 là 24.690đồng/lít. Sau chuỗi tăng giá xăng thì thị trường Việt
Nam còn phải chịu thêm gánh nặng của việc ngành điện quyết định tăng giá
trong tháng 3 năm 2011. Trong tình trạng giá cả leo thang, các công trình thủy
điện đang xây dựng gian dở cần huy động thêm vốn thì việc tiếp tục bù lỗ trở
thành điều không thể đối với ngành điện. Với việc 2 nguồn nhiên liệu chủ yếu
của xã hội là xăng và điện cùng tăng giá thì việc các loại hàng hóa trong xã hội
cũng dần dần tăng giá theo là một điều khó tránh khỏi.

Lạm phát tăng cao và nhanh ở 3 nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm;
thuốc tân dược và vật liệu xây dựng. Cả 3 mặt hàng này đều liên quan trực tiếp
và thường xuyên đến đời sống của đông đảo quần chúng, đặc biệt là những
người hưởng lương, những người dân có hoàng cảnh khó khăn và không có
nguồn thu nhập
Ngoài ra nếu nhìn sâu hơn thì có một nguyên nhân đơn giản mà ai cũng
thấy rõ là làm giảm nguồn cung của một số mặt hàng thiết yếu, cụ thể là dịch
cúm gia cầm và dịch lợn tai xanh trong những năm gần đây tái phát 2008, đặc
biệt đầu năm 2008 là việc rét đậm rét hại làm chết 8328 con trâu bò, năm 2013
chết 9057 con ở Tây Bắc Bộ.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày
16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng
16


gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực
trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá
gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải
sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực, thực
phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008,
cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có
quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên
nhân chủ yếu tác động làm CPI
tăng mạnh.
- Giá dầu và giá nguyên
nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất
liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ
2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục
tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm
các nước mới nổi; ở khu vực Châu

á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu
cầu năng lượng toàn cầu tăng cao
đột biến, cùng với những bất ổn và
xung đột chính trị quân sự tại khu
vực Trung Đông là các nguyên
nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao
chưa từng có trong lịch sử 150 USD/thùng trong năm 2008, đồng thời giá các
nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia
tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%,
khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là
mức tăng cao nhất từ trước tới nay.
- Tình trạng vàng hóa, đô la hóa: Năm
2008, tỷ lệ tiền gửi bằng USD trên tổng tiền gửi
tại các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay khoảng
từ 20- 25%. Giá vàng tăng khiến các loại hàng
hóa và dịch vụ khác có xu hướng tăng. Khi giá
17


cả tăng lên thì đời sống của cán bộ công nhân viên, những người hưởng đồng
lương cơ bản sẽ bị thiệt hại (tuy chúng ta có điều chỉnh tiền lương nhưng tốc độ
tăng lương không kịp với tốc độ tăng giá). Ngoài ra, ở thị trường bất động sản,
những người vay nợ bằng vàng, USD để mua nhà sẽ gặp nhiều khó khăn trong
vấn đề trả nợ.

18




×