Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận quản lý nhà nước về kinh tế Công cụ kế hoạch hoá trong quản lý nhà nước về kinh tế Những vấn đề đặt ra đối với công cụ kế hoạch hoá ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.39 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội. Công tác kế
hoạch hóa được Đảng và Nhà Nước ta coi là một công cụ thiết yếu để quản lý xã
hội điều tiết nền kinh tế. Một thời gian khá dài trước đây, từ góc độ lý luận người ta
khẳng định kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân là đặc trưng là tính ưu việt riêng của
chủ nghĩa xã hội.
Nước ta trong quá trình chuyển đổi cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có thể khẳng định rằng sau khi đất nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nước ta đã khắc phục được những cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, đưa nền kinh tế dần vào thế ổn định tạo ra
những thành tựu vượt bậc, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước. Đây là một thành công lớn trong bối cảnh quốc tế và trong nước còn nhiều
khó khăn và thách thức, sự thành công này là sự đóng góp đáng kể của công tác
hoạch định chiến lược phát triển, đặc biệt là vai trò của kế hoạch hóa vĩ mô trong
cơ chế thị trường. Như vậy đối với Việt Nam, kế hoạch hoá là một công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô rất quan trọng và đổi mới công tác từ tư duy, quan điểm, định hướng,
nội dung phương pháp cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch là nội
dung cơ bản của quá trình đổi mới, cải cách nói trên.
Xuất phát từ đó, nhóm em chọn đề tài: “Công cụ kế hoạch hoá trong quản lý
nhà nước về kinh tế? Những vấn đề đặt ra đối với công cụ kế hoạch hoá ở nước
ta hiện nay” làm nội dung nghiên cứu, thảo luận của nhóm.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song kiến thức chuyên môn còn hạn chế nên
không tránh khỏi những sai sót trong quá trình làm việc, rất mong những ý kiến
đóng góp quý báu của thầy để vấn đề được sáng tỏ hơn.
Nhóm 5 – Quản lý kinh tế

1


CHƯƠNG I: CÔNG CỤ KẾ HOẠCH HÓA TRONG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ


1.1 Khái niệm:
Kế hoạch hóa là phương thức quản lý nền kinh tế của Nhà Nước theo mục
tiêu, nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội phải đạt
được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia và những giải pháp
chính sách những cân đối vĩ mô cần thiết đạt được các mục tiêu đặt ra một cách
hiệu quả cao nhất.
Kế hoạch hoá kinh tế quốc dân là tổng hợp những mục tiêu phương hướng
chính sách biện pháp phát triển nền kinh tế quốc dân, được biểu hiện bằng một hệ
thống chỉ tiêu kế hoạch số lượng và chất lượng, các bảng cân đối phù hợp với các
quy luật kinh tế trên cơ sở khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên và nhân lực của
đất nước.
1.2 Bản chất của kế hoạch hóa
1.2.1 Bản chất kế hoạch hóa tập trung
1.2.1.1 Khái niệm kế hoạch hóa tập trung:
Kế hoạch hóa tập trung là một phương thức kế hoạch hóa trong đó mọi hoạt
động sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế đều được thực hiện trên cơ sở các quy
định mang tính pháp lệnh phát ra từ trung ương. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, Chính phủ thực hiện khống chế trực tiếp nhiều hoạt động kinh tế thông qua
quá trình đưa ra nhiều quyết định từ Trung ương, các mục tiêu cụ thể được định
trước bởi các kế hoạch ở Trung ương đã tạo nên cơ sở cho một kế hoạch kinh tế
quốc dân toàn diện và đầy đủ. Nguồn nhân lực, vật tư chủ yếu và tài chính được
phân phối không phải theo giá thị trường và các điều kiện cung cầu, mà phân phối
theo các nhu cầu vật tư, lao động, vốn của kế hoạch tổng thể. Các nội dung trên
khẳng định bản chất kế hoạch hóa trong nền kinh tế mệnh lệnh là kế hoạch hóa trực
tiếp.
1.2.1.2 Đặc trưng của kế hoạch hóa tập trung:
Thứ nhất: kế hoạch hóa phân bổ các nguồn lực phát triển cho các mục tiêu
đối với hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể, kế hoạch chỉ bó hẹp
trong phạm vi kinh tế Nhà Nước và ngân sách Nhà Nước, chỉ chú trọng phát triển
2



kinh tế quốc doanh. Còn các thành phần kinh tế khác không được coi trọng và do
đó không bao quát được nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai: cơ chế kế hoạch hóa tập trung theo phương thức “giao – nhận” với
hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà Nước, giao đến tận các cơ sở
sản xuất kinh doanh theo cách bao cấp cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” trong quá trình
sản xuất kinh doanh.
Thứ ba: cơ chế kế hoạch mang nặng tính chất hiện vật và tính khép kín trong
từng ngành và từng lãnh thổ.
Thứ tư: giá cả phần lớn được hình thành theo kế hoạch do Nhà Nước quy
định. Cơ chế thị trường không được thừa nhận, sự điều tiết thị trường thông qua hệ
thống giá cả rất yếu và ít.
Thứ năm: phương pháp kế hoạch được tiến hành theo trình tự “hai xuống,
một lên” nhằm kết hợp hài hòa giữa tính tập trung và tính dân chủ trong kế hoạch.
Song trên thực tế, quyền dân chủ, quyền chủ động của các đơn vị, cơ sở rất hạn
chế. Vai trò kế hoạch của các đơn vị, cơ sở rất thụ động hình thành nét “tập quán”
trông chờ, ỷ lại Nhà Nước.
1.2.2 Bản chất của kế hoạch hóa định hướng
1.2.2.1 Khái niệm kế hoạch hóa định hướng:
Kế hoạch hóa phát triển là sự tác động có ý thức của Chính phủ vào nền kinh
tế vĩ mô thông qua việc thiết lập một cách chủ động mối quan hệ khả năng với các
mục đích nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra bằng việc sử dụng hiệu quả nguồn
tiềm năng hiện có. Kế hoạch hóa phát triển được xem là công nghệ của sự lựa chọn
các hoạt động hợp lý và tối ưu trong đó chủ yếu là:
- Lựa chọn sắp xếp sử dụng các nguồn lực khan hiếm.
- Đưa ra các định hướng phát triển.
- Xác định các cơ chế chính sách điều tiết vĩ mô
Một kế hoạch như trên là kế hoạch ở tầm vĩ mô, kế hoạch hướng dẫn và kế
hoạch dưới dạng các chính sách, kế hoạch như vậy phải được tiếp cận theo hình

thức từ trên xuống.
1.2.2.2 Nguyên tắc của kế hoạch hóa định hướng

3


Kế hoạch hóa phát triển là yếu tố tập trung của hệ thống quản lý kinh tế xã
hội, nó cần phải quán triệt 4 nguyên tắc chung nhất sau đây:
* Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nguyên tắc này xem như là yêu cầu của nền sản xuất dựa trên cơ sở lao động
tập thể, hơn nữa đối tượng của kế hoạch hóa lại là ở quy mô toàn xã hội với các bộ
phận, mắt xích cấu thành phức tạp. Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường yêu cầu
nguyên tắc có những nét khác biệt so với kế hoạch hóa tập trung. Nội dung của
nguyên tắc đặt ra các vấn đề cần phải giải quyết mang tính tập trung, các nội dung
thực hiện mang tính dân chủ trong công tác kế hoạch hóa và cơ chế kết hợp cả hai
yếu tố này tính tập trung trong kế hoạch hóa phát triển thể hiện ở các mặt sau đây:
- Chính phủ thông qua cơ quan kế hoạch hóa quốc gia thực hiện các chức
năng định hướng, chủ động hình thành khung vĩ mô, các chỉ tiêu định hướng và cân
đối cơ bản của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ kế hoạch đưa ra các chương trình
phát triển kinh tế xã hội lớn, ban hành hệ thống chính sách thể chế điều tiết và
khuyến khích sự phát triển của mọi thành phần kinh tế.
- Các kế hoạch chương trình dự báo phát triển phải được soạn thảo trên cơ sở
các quan điểm chính trị, các mục tiêu kinh tế xã hội do Đảng và Nhà Nước yêu cầu.
Thực hiện nhất trí cao độ giữa kinh tế và chính trị trong từng thời kỳ.
- Hướng các đơn vị, các thành phần kinh tế hoạt động theo quỹ đạo mục tiêu
chung của quốc gia.
Tính dân chủ trong kế hoạch hóa phát triển đặt ra các nội dung sâu và rộng
hơn so với kế hoạch hóa tập trung cụ thể bao gồm:
Thứ nhất, sử dụng sự tham gia của cộng đồng vào xây dựng và thực thi kế
hoạch.

Thứ hai, sử dụng sự tham gia của khu vực tư nhân trong công tác kế hoạch
hóa trao đổi ý kiến với khu vực tư nhân sẽ đưa đến những lợi ích như: có được các
thông tin tốt hơn về quy mô đặc điểm, loại hình đầu tư và xu thế phát triển khu vực
tư nhân, tăng cường hiệu quả và xác thực trong việc hoạch định và áp dụng các
chính sách cho khu vực tư nhân và sẽ có sự cộng tác tốt trong khu vực tư nhân với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

4


Thứ ba, Chính phủ phải đưa ra các cam kết cụ thể của mình với các địa
phương, ngành và doanh nghiệp.
Thứ tư, thể hiện trong việc tăng cường hình thức kế hoạch hóa phi tập trung.
Thứ năm, mở rộng tính chất dân chủ trong quan hệ tác động giữa Nhà Nước
với cấp trên trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch.
* Nguyên tắc thị trường:
Đây là nguyên tắc thể hiện rõ nhất bản chất của kế hoạch hóa trong nền kinh
tế thị trường. Mối quan hệ giữa kế hoạch hóa và thị trường được đúc kết thành
những nội dung mang tính chất quy luật tất yếu. Tuy vậy trong giai đoạn hiện nay,
cần đặt vấn đề ngày một toàn diện hơn có thể nghiên cứu trên hai góc độ:
- Nếu đặt kế hoạch là một chức năng quản lý còn thị trường là một lĩnh vực
hoạt động của đời sống kinh tế xã hội thì có thể nói thị trường vừa là căn cứ vừa là
đối tượng của kế hoạch hóa. Cơ chế kết hợp một cách tổng hợp nhất giữa hai yếu tố
này thể hiện trong kinh tế hỗn hợp là thị trường điều tiết về sản xuất, còn kế hoạch
điều tiết các quan hệ thị trường.
- Nếu còn thị trường là hai công cụ điều tiết nền kinh tế thì mối quan hệ giữa
kế hoạch với thị trường thực chất là việc kết hợp giữa hai công cụ điều tiết trực tiếp
(bằng kế hoạch) và điều tiết gián tiếp (thông qua thị trường). Nguyên tắc thị trường
đặt ra yêu cầu kế hoạch không tìm cách thay thế thị trường mà ngược lại nó bổ
xung cho thị trường bù đắp các khiếm khuyết của thị trường, hướng dẫn thị trường

và đảm bảo thị trường luôn luôn vận hành tương xứng với sự liên kết xã hội của đất
nước. Mặt khác kế hoạch phải căn cứ vào thị trường để đưa ra các mục tiêu hợp lý,
cân nhắc một cách có hệ thống tất cả các công cụ chính sách để lựa chọn tối ưu.
* Nguyên tắc linh hoạt mềm dẻo:
Nguyên tắc này được đưa ra xuất phát từ nguyên tắc thị trường, nó tạo điều
kiện thực hiện được nguyên tắc thị trường. Đối với nhiều nhà quản lý, nguyên tắc
linh hoạt mềm dẻo được xem là quan trọng nhất khi xây dựng kế hoạch, kế hoạch
càng linh hoạt thì sự đe dọa gây ra do các sự kiện chưa lường trước được ngày càng
ít. Nguyên tắc linh hoạt mềm dẻo thể hiện trước hết trong quá trình lập kế hoạch,
phải xây dựng được nhiều phương án kế hoạch gắn với mỗi biến số khác nhau về
các điều kiện hiện tại cũng như tương lai. Nguyên tắc này còn thể hiện trong việc tổ
5


chức cơ quan kế hoạch và cơ chế hoạt động của nó. Cần phải đặt ra vấn đề phân
công, phối hợp giữa các cơ quan kế hoạch theo tuyến dọc và tuyến ngang trong
điều hành và xây dựng kế hoạch cơ bản của cơ quan kế hoạch cần đạt vấn đề về
thay đổi vị trí làm việc thường xuyên để tránh việc “sơ cứng” và tạo điều kiện cho
các ý tưởng mới xuất hiện.
* Nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của các hoạt động kinh doanh:
Chủ thể chủ yếu trong nền kinh tế thị trường là các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau. Những quyết định của họ đều
xuất phát từ lợi ích riêng của từng doanh nghiệp mà chỉ tiêu quan tâm hàng đầu là
chỉ tiêu hiệu quả tài chính, lợi nhuận thu được từ phương án sản xuất kinh doanh
nguyên tắc đặt ra các vấn đề chủ yếu sau đây trong hoạt động kế hoạch:
- Cơ quan kế hoạch quốc gia phải đóng vai trò quyết định trong việc xác định
khung vĩ mô cho sự phát triển kinh tế dài hạn của đất nước. Đưa ra các dự báo, các
chiến lược phát triển, các mục tiêu phát triển phù hợp với xu thế phát triển của đất
nước.
- Đảm bảo tính hệ thống kế hoạch hóa.

- Yêu cầu của nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội thể hiện rõ nét
nhất trong nội dung thẩm định và quản lý các chương trình dự án phát triển để
quyết định hướng phân bổ nguồn lực.
1.3 - Vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường:
Kế hoạch đã và đang dần dần thể hiện được vai trò quan trọng của mình
trong nền kinh tế thị trường. Vậy vai trò của nó như thế nào? Có thể nói rằng vai
trò đó được thể hiện đối với nền kinh tế thị trường bao gồm như:
Thứ nhất, Điều tiết phối hợp ổn định kinh tế vĩ mô bằng các chính sách: Với
chức năng này thì mục tiêu chính của kế hoạch đó là ổn định giá cả, bảo đảm công
ăn việc làm, tăng trưởng và cân đối cán cân thanh toán quốc tế. Các mục tiêu này
đan xen lẫn nhau không thể quá chú trọng vào một yếu tố nào đó sẽ làm ảnh hưởng
tới các yếu tố khác. Trong chức năng điều tiết ổn định kinh tế vĩ mô thì kế hoạch
thể hiện ở chỗ là hoạch định chính sách chung tổng thể của nền kinh tế, đưa ra các
biện pháp phân bổ nguồn lực cho phát triển kinh tế, đảm bảo sử dụng hiệu quả

6


những gì đã có. Bên cạnh đó kế hoạch bảo đảm môi trường kinh tế ổn định và cân
đối, bảo đảm sự công bằng xã hội giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, Định hướng phát triển kinh tế xã hội: Đây là chức năng thể hiện
bản chất của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường và chính nó làm cho kế hoạch
không bị lu mờ trong cơ chế thị trường vì vậy kế hoạch cần phải: Xây dựng được
chiến lược và quy hoạch phát triển toàn bộ nền kinh tế cũng như quy hoạch phát
triển vùng, ngành, đưa ra hệ thống mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nhằm thực
hiện chức năng dẫn dắt định hướng phát triển xử lý kịp thời các mất cân đối xuất
hiện trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, Kiểm tra giám sát hoạt động kinh tế xã hội: Chính phủ thông qua
các cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện các tiến
độ kế hoạch thực hiện và tuân thủ các cơ chế, chính sách áp dụng trong thời kỳ kế

hoạch. Đánh giá kết quả của việc thực hiện các chính sách và các mục tiêu đề ra.
Phân tích hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế bảo đảm các luận cứ quan trọng cho
việc xây dựng các kế hoạch tiếp theo.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KẾ HOẠCH HOÁ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
2.1 Nền kinh tế KHH ở Việt Nam trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung:
2.1.1 Nền kinh tế KHH tập trung giai đoạn từ 1955 – 1975:
7


Đây là thời kỳ Việt Nam bị chia cắt làm 2 miền, miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra,
dưới sự lãnh đạo của chế độ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã áp dụng mô hình kinh
tế kế hoạch trực tiếp theo kiểu Liên Xô với các đặc điểm cơ bản:
- Kế hoạch hoá phân bổ các nguồn lực phát triển cho các mục tiêu đối với hai
thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể.
- Cơ chế kế hoạch hoá tập trung theo phương thức “giao – nhận” với hệ thống
chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, giao đến tận cơ sở sản xuất
kinh doanh theo cách bao cấp cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
- Cơ chế kế hoạch hoá mang nặng tính chất hiện vật và nặng tính khép kín
trong từng ngành, từng vùng lãnh thổ.
Với cơ chế này, chúng ta đã thực hiện thành công các mục tiêu khôi phục, cải
tạo và phát triển kinh tế xã hội sau hoà bình năm 1954, thực hiện có kết quả mục
tiêu phát triển kinh tế và kháng chiến chống Mỹ giành thắng lợi rực rỡ mùa xuân
năm 1975…
2.1.2 Nền kinh tế KHH tập trung giai đoạn từ 1976 – 1985:
Với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30/04/1975 nước ta đã hoàn toàn
thống nhất, non sông quy về một mối. Như vậy, sự nghiệp của nước ta giờ đây là
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập

trung quan liêu bao cấp như ở miền Bắc 20 năm trước.
- Giai đoạn 1976 – 1980, đây là giai đoạn kế hoạch 5 năm lần thứ nhất được
triển khai, về kinh tế nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng:
khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh xâm lược do đế quốc
Mỹ gây ra và của cuộc chiến tranh biên giới; khôi phục phần lớn những cơ sở công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở
miền Nam bị chiến tranh tàn phá; củng cố kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ở
miền Bắc, bước đầu cải tạo và sắp xếp công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam,
đưa một bộ phận nông dân Nam Bộ, nông dân Nam Trung Bộ vào con đường làm
ăn tập thể; bước đầu phân bố lại lực lượng lao động xã hội; tăng cường một bước
cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Trên mặt trận văn hoá, giáo dục,
khoa học, kỹ thuật, y tế cũng có nhiều thành tựu.
8


Tuy đã có những nhân tố tích cực nhưng mới chỉ là bước đầu, chưa rộng
khắp. Trong 5 năm từ 1976-1980, kết quả sản xuất chưa tương xứng với sức lao
động và vốn đầu tư bỏ ra; những mất cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân còn trầm
trọng; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội; thị trường, vật
giá, tài chính, tiền tệ không ổn định; đời sống của nhân dân lao động còn nhiều khó
khăn. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của
Nhà nước giảm sút.
- Giai đoạn 1981 – 1985 thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2, đây có thể được
coi là thời kỳ tiền cải cách kế hoạch hoá ở Việt Nam bắt đầ từ
NQ25CP(13/01/1981) về “kế hoạch ba phần”, chỉ thị 100BTT(21/01/1981) về
khoán sản phẩm trong nông nghiệp...
Kế họach 5 năm 1981 – 1985 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu nhưng
chủ yếu là trong nông nghiệp. Khoa học kĩ thuật được triển khai, bắt đầu khai thác
dầu mỏ và xây dựng nhiều công trình thủy điện... Tuy nhiên, kế hoạch này vấp
phải một số sai lầm, khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều

sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lí kinh tế khi đưa ồ ạt nông dân miền
Nam, Tây Nguyên vào làm ăn tập thể, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong quản
lí của Đảng và Nhà nước. Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và
tập thể luôn thua lỗ nặng, không phát huy tác dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể vẫn bị
ngăm cấm triệt để. Sản xuất chậm phát triển, thu nhập quốc dân, năng suất thấp, đời
sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.
Nhận xét: Kinh tế kế hoạch hoá ở Việt Nam trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung có
những ưu nhược điểm sau:
Về ưu điểm: Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm
của các nước XHCN cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá
tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng
rãi ở nông thôn và thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp
đỡ tận tình của các nước XHCN cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy
được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng
công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vật chất quan
trọng về đất đai, tài sản, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế. Vào những năm
9


đầu của thập kỷ, ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời
kỳ đầu, nền kinh tế tập trung đã phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp vốn có của
ta lúc đó, đồng thời nó cũng thích hợp với kinh tế thời chiến lúc đó.
Về nhược điểm: Sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh về hiện trạng
kinh tế xã hội đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại
hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ
trương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả
nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý
kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng
tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý

kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất
của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các
nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm,
sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây
ra rất nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó
khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền
kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ
yếu dựa vào vay viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang,
khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm
sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự
suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã rập khuôn một mô hình kinh tế chưa
thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên quy mô lớn
trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và
đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân
số ngày càng gia tăng.
- Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép, khi
tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân
phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.

10


- Việc quản lý kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người
lao động.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển nhanh từ nền kinh tế kém
phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ
chế thị trường. Đặc điểm này phản ánh thực trạng thấp kém của nền kinh tế nước ta
khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Biểu hiện:

+ Sản xuất phân tán, kỹ thuật lao động thủ công là chủ yếu.
+ Công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp không có khả năng cạnh tranh.
+ Các mối quan hệ kinh tế ít, do đó thị trường eo hẹp.
+ Kết cấu hạ tầng thấp kém...
Trong một thời gian dài chúng ta lại thực hiện cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp nó đã làm triệt tiêu những điều kiện tiền đề của nền kinh tế hàng hoá,
tạo ra một bộ máy quản lý quan liêu cồng kềnh không cần năng lực kinh doanh,
như vậy, nó đã kìm hãm phát triển của sản xuất làm nền kinh tế trì trệ đời sống khó
khăn. Vì vậy, năm 1986 Việt Nam bắt đầu công cuộc ‘đổi mới” chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
2.2 Nền kinh tế KHH ở Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay:
Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng là mốc lịch sử quan trọng trên con
đường đổi mới toàn diện ở nước ta. Sau khi phân tích phê phán nghiêm túc sai lầm,
thiếu sót trong thời gian qua, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế toàn diện
cho đất nước trong thời kỳ mới. So với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế
kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam
có những nét đặc thù riêng. Đổi mới ở Việt Nam diễn ra từ hai chiều: “từ dưới lên”
tức là ở các hợp tác xã, doanh nghiệp và “từ trên xuống” tức là các quyết định của
Đảng và Nhà nước. Mối liên hệ hai chiều ấy đã làm cho công cuộc đổi mới ở Việt
Nam diễn ra không có sự xung đột giữa “phía trên” và “phía dưới”, cũng như
không có các “cú sốc” quá mạnh được tạo ra bởi các chính sách và biện pháp điều
chỉnh vĩ mô cứng rắn và duy ý chí của bộ máy lãnh đạo “phía trên”. Đó là đặc điểm
nổi bật của quá trình đổi mới ở Việt Nam, vừa có sự chỉ đạo từ trên xuống, vừa có
11


sự sáng tạo của nhân dân từ bên dưới. Do đó, đổi mới đã dẫn đến thành công. Khác
với các nước Đông Âu và Liên Xô, ở Việt Nam nhu cầu đổi mới các chính sách
xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải là hệ quả của những biến động

chính trị.
Thành tựu đổi mới về kinh tế ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số
vấn đề sau đây:
- Chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có hai thành phần
kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mô hình mới - kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
(nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn đầu tư
nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện
chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc đẩy phát
triển sản xuất. Đây là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy
luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Điều đó đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng
sức sản xuất. Nhân tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là con người:
Người lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó lợi ích cá
nhân của người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện phát triển lợi
ích của tập thể và của toàn xã hội.
- Từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển
sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật trong đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành
tương đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới có tính chất đột phá là từ chỗ về cơ bản không
sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, chuyển sang coi thị trường vừa là căn cứ,
vừa là đối tượng của kế hoạch. Còn kế hoạch mang tính định hướng, điều tiết ở
tầm vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn
lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng
đồng thời dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế
thị trường.
12



Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị
trường đẩy sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt Nam đã giải
quyết vấn đề này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được thực hiện tương đối
hiệu quả.
- Chuyển từ nền kinh tế được xây dựng theo hướng có cơ cấu kinh tế hoàn
chỉnh, quan hệ kinh tế đối ngoại - bao gồm ngoại thương và các quan hệ tài chính,
tín dụng được tiến hành chủ yếu với các nước XHCN, sang một nền kinh tế mở
ngày càng thông thoáng hơn, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối
ngoại, từng bước hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
- Công tác quy hoạch đã có nhiều chuyển biến tích cực so với trước, đã gắn
kết được mục tiêu của chiến lược với nội dung quy hoạch, xác định được tiềm
năng, định hướng phát triển cho từng địa phương và một số ngành quan trọng.
- Chuyển dần trọng tâm sang kế hoạch hoá định hướng phát triển 5 năm,
chuyển dần việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang chú trọng các vấn đề
vĩ mô, các cân đối lớn, các chỉ tiêu giá trị.
- Triển khai phương pháp kế hoạch hoá theo chương trình nhằm giải quyết
những bức xúc của xã hội, việc lồng ghép các chương trình mục tiêu là một hướng
tích cực và đang được đẩy mạnh.
- Chi tiêu kế hoạch được thay đổi một cách cơ bản, chỉ còn giữ lại hai pháp
lệnh cơ bản (thu chi ngân sách và vốn đầu tư xây dựng cơ bản), thu hẹp dần các chỉ
tiêu hiện vật đồng thời mở rộng thêm các chỉ tiêu giá trị.
- Đổi mới quy trình lập kế hoạch, công tác dự báo, thông tin được tăng
cường, phương pháp tính toán được cải tiến phù hợp hơn với kinh tế thị trường và
thông lệ quốc tế…
Những thành tựu trong gần 30 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh nền kinh tế thị trường ở nước ta từng
bước được xây dựng, phát triển và về cơ bản đang được vận hành có hiệu quả, đóng
góp ngày càng nhiều vào quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, từng bước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh, do nhân dân làm chủ”. Trong quá trình này, nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn về kinh tế thị trường, phát triển và quản lý kinh tế thị trường đã được làm rõ,
13


cung cấp cơ sở khoa học cho những quyết định về chủ trương, đường lối, cơ chế và
chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, công tác kế hoạch hoá vẫn
đang còn nhiều vấn đề cần giải quyết trong đó tập trung vào:
Một là, chưa xây dựng được cơ sở lý luận và phương pháp luận về kế hoạch
hoá phù hợp với thực tế đổi mới của đất nước, một số vấn đề cơ bản làm nền cho
đổi mới kế hoạch hoá chưa được lý giải rõ ràng.
Hai là, chiến lược quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm còn chưa thật ăn
khớp với nhau, số lượng mục tiêu và chương trình trọng điểm quá nhiều làm phân
tán nguồn lực.
Ba là, sự phối hợp kế hoạch theo ngành và theo lãnh thổ vẫn chưa đạt hiệu
quả cao.
Bốn là, cơ chế điều hành kế hoạch hoá chưa thật phù hợp, còn sử dụng nhiều
biện pháp hành chính, chính sách vĩ mô còn thay đổi nhiều.
Năm là, công tác thông tin, dự báo, phân tích kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu
bộ máy tổ chức và trình độ cán bộ nói chung còn dưới tầm đòi hỏi của yêu cầu đổi
mới…

CHƯƠNG III: NHỮNG HƯỚNG CẦN ĐỔI MỚI CÔNG CỤ KẾ
HOẠCH HOÁ TRONG QLNN VỀ KINH TẾ Ở NƯỚC TA
3.1 Sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công cụ KHH trong QLNN
về kinh tế ở Việt Nam hiện nay:
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội và những biến động thực tế của tình hình
luôn đặt ra những yêu cầu mới cho công tác kế hoạch, để phù hợp với hoàn cảnh và
điều kiện cụ thể, đáp ứng tốt nhất cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời gian qua, công tác kế hoạch đã chuyển dần từ kế hoạch pháp lệnh

sang kế hoạch định hướng. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu để hướng dẫn, làm
định hướng cho các bộ, ngành, địa phương, giảm nhiều chỉ tiêu hiện vật, bổ sung
thêm nhiều chỉ tiêu giá trị và xã hội; Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng quy hoạch phát triển, tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác
14


xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm; phân cấp mạnh hơn cho các cấp cơ sở để
phát huy quyền chủ động, sáng tạo; Đổi mới quy trình và phương pháp xây dựng kế
hoạch…
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại trong công tác kế hoạch, như: Chất
lượng một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa; Quy hoạch chưa phù
hợp với cơ chế thị trường; Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng lãnh
thổ chưa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển ngành; Nội dung kế hoạch tuy
rất chi tiết, ôm đồm nhưng lại chưa toàn diện; Phương pháp xây dựng kế hoạch
chưa gắn với nguồn lực, chưa dựa vào kết quả đầu ra…
Việc đổi mới công tác kế hoạch trong thời gian tới ở cấp Trung ương, cũng
như cấp ngành và địa phương cần quan tâm đến các nội dung sau:
Một là, nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc những bài học kinh nghiệm thành công
và không thành công trong công tác kế hoạch. Lưu ý đến kinh nghiệm của các nước
kinh tế thị trường trên thế giới và trong khu vực, các nước trong quá trình chuyển
đổi, các nước kinh tế phát triển; kinh nghiệm thực tế của các ngành và địa phương.
Hai là, nghiên cứu toàn diện bối cảnh trong nước và quốc tế, của từng ngành
và địa phương; tiến trình hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế, mối quan hệ và
ràng buộc giữa nền kinh tế nước ta và kinh tế thế giới, kinh tế khu vực; giữa các
ngành, vùng kinh tế và giữa các địa phương.
Ba là, nâng cao tính ứng dụng của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu giúp nâng cao rõ rệt năng suất
lao động, rút ngắn chu trình sản phẩm, giảm mạnh tiêu hao nguyên – nhiên – vật
liệu...; Cần thay đổi tư duy, nhận thức về mục tiêu phát triển...

Bốn là, khả năng vận dụng các phương pháp kế hoạch hoá hiện đại, các mô
hình kinh tế và sử dụng công cụ tiên tiến, xử lý được khối lượng thông tin lớn và
nhiều mối quan hệ tương tác phức tạp;
Năm là, hướng tới xây dựng kế hoạch trung và dài hạn. Xây dựng các mục
tiêu, chỉ tiêu theo hướng phát triển bền vững, bổ sung nhiều hơn các mục tiêu và
chỉ tiêu về xã hội, phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trưòng, biến đổi khí hậu...
bên cạnh các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế.

15


Sáu là, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng cường tính chủ động, sáng tạo của
các ngành, các cấp chính quyền trong việc xây dựng kế hoạch và lựa chọn các mục
tiêu ưu tiên. Đồng thời, tăng cường việc giám sát, đánh giá theo kết quả.
3.2 Một số phương hướng cần đổi mới công tác kế hoạch hoá trong QLNN về
kinh tế ở Việt Nam:
3.2.1 Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội:
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội có nhiệm vụ hoạch định đường hướng
phát triển cơ bản của đất nước trong khoảng thời gian 10 năm, là cam kết chính trị
của Đảng và Nhà nước được công bố trước toàn dân và cộng đồng quốc tế về
đường lối và cách thức lãnh đạo phát triển đất nước. Nội dung của chiến lược bao
gồm việc xác định các mục tiêu định tính trên các lĩnh vực như: tăng trưởng kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, vùng lãnh thổ, xu hướng biến đổi chất
lượng cuộc sống của dân cư trên các vùng của đất nước, xu hướng biến đổi khả
năng cạnh tranh của quốc gia trong khu vực và trên thế giới, trình độ phát triển
khoa học và công nghệ của đất nước, khả năng bảo đảm an ninh quốc gia, xác định
các quan điểm và nguyên tắc cơ bản nhằm thúc đẩy đất nước phát triển theo các
định hướng nói trên. Chiến lược có thời hạn 10 năm, nhưng theo chu kỳ 5 năm sẽ
được xem xét, sửa đổi và điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy, mỗi kỳ đại hội Đảng sẽ
là một lần thông qua chiến lược mới hoặc điều chỉnh chiến lược. Việc xây dựng

chiến lược phát triển cần do hội đồng nghiên cứu chiến lược thực hiện dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Một năm trước khi thông qua dự thảo chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội đất nước phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng để toàn dân tham gia thảo luận. Hội đồng nghiên cứu chiến lược có trách
nhiệm tổ chức các hình thức thích hợp để thu thập và tiếp thu các ý kiến đóng góp
của các tầng lớp nhân dân trên các vùng của đất nước.
3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển:
Công việc xây dựng quy hoạch lãnh thổ do chính quyền địa phương trong
tổng thể kinh tế, quy hoạch vùng phải đưa ra được những quyết sách phù hợp. Trên
cơ sở đó có thể sắp xếp theo không gian sự phát triển kinh tế – xã hội của địa
phương. Công cụ để đạt được những mục tiêu trong quy hoạch lãnh thổ chủ yếu là
nguồn tài chính của chính địa phương đó và các chính sách kinh tế trong phạm vi
16


thẩm quyền của chính quyền địa phương, cần phải xác định rõ ràng nhiệm vụ của
từng cấp làm cơ sở cho việc phân bổ các nguồn thu ngân sách. Quy hoạch ngành
được xây dựng dưới sự chủ trì của bộ quản lý ngành phối hợp với những bộ có liên
quan như: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính… Cùng các cấp chính quyền địa
phương. Với quan điểm là Nhà nước chỉ hỗ trợ gián tiếp chứ không can thiệp trực
tiếp vào công việc kinh doanh của các doanh nghiệp, chỉ nên xây dựng quy hoạch
tổng thể cho các ngành có tính chất hệ thống trong toàn quốc như: năng lượng, viễn
thông, giao thông vận tải. Quy hoạch ngành được thực hiện thông qua những
chương trình trọng điểm quốc gia và bằng nguồn lực của cả trung ương và địa
phương. Số liệu rút ra từ quy hoạch sẽ là những cơ sở quan trọng cho các doanh
nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp mình.
3.2.3 Nâng cao chất lượng kế hoạch hoá định hướng phát triển kinh tế – xã hội
5 năm và hàng năm:
Kế hoạch 5 năm là trọng tâm trong hệ thống kế hoạch, là công cụ quản lý vĩ
mô quá trình phát triển trong thời hạn 5 năm. Kế hoạch 5 năm xác định một số chỉ

tiêu cơ bản định hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà
kinh tế Nhà nước sẽ ưu tiên tập trung phát triển, xác định nguyên tắc hoạch định và
xây dựng chính sách cụ thể để hướng toàn bộ nền kinh tế phát triển theo định
hướng đã chọn. Để đảm bảo tính liên tục và hệ thống của kế hoạch hoá, có thể thử
nghiệm phương pháp “ cuốn chiếu ” trong việc xây dựng kế hoạch 5 năm. Theo
phương pháp này, kế hoạch phát triển 5 năm sẽ xác định những mục tiêu tổng thể,
bao gồm kế hoạch chính thức của năm hiện hành, kế hoạch dự tính cho năm tiếp đó
và dự báo kế hoạch cho ba năm còn lại. Công việc xây dựng kế hoạch 5 năm sẽ
không có tính chất “mùa vụ” mà liên tục được thời sự hoá để phù hợp với điều kiện
và yêu cầu mới.
Công tác kế hoạch thường xuyên sẽ bao gồm ba loại công việc chính sau đây:
Một là, Xây dựng kế hoạch cho năm tiếp theo.
Hai là, Dự báo sơ bộ cho kế hoạch năm thứ 5.
Ba là, Điều chỉnh và chuẩn xác hoá thêm cho dự báo kế hoạch của các năm thứ
hai, thứ ba, thứ tư và toàn bộ nội dung của kế hoạch 5 năm. Trên cơ sở đó trình với
Quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội những kiến nghị giải pháp cụ thể với diễn
17


biến của tình hình thực tế cũng như đánh giá hiện trạng, phân tích và dự báo tình
hình trong nước và quốc tế, rút ra bài học về xây dựng và điều hành thực hiện kế
hoạch, xác định những thách thức và cơ hội đối với sự phát triển của đất nước. Nội
dung nghiên cứu, xây dựng và tổng hợp kế hoạch 5 năm ở cấp trung ương bao gồm
các công việc sau: Tổng kết, đánh giá, tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm trước;
Dự báo khả năng phát triển trong thời kỳ kế hoạch 5 năm sau, xác định và tính toán
các cân đối vĩ mô, có phân chia ra từng năm, xác định các mục tiêu và chỉ tiêu phát
triển; xây dựng định hướng phát triển các ngành, các lĩnh vực; xây dựng hệ thống
các chương trình mục tiêu phát triển… Để làm được việc đó, cần phải sử dụng bộ
máy của cơ quan kế hoạch chuyên trách, đồng thời huy động rộng rãi các nhà
nghiên cứu kinh tế phát triển, các nhà nghiên cứu xã hội, các nhà nghiên cứu khoa

học công nghệ, khoa học tự nhiên…Trên khắp đất nước ở các viện nghiên cứu đầu
ngành tham gia, thời gian nghiên cứu được phân bổ như sau: Trước hai năm của
mỗi kỳ kế hoạch phải được tiến hành xong các bước: đánh giá tình hình, dự báo xác
định các cân đối vĩ mô. Năm còn lại sẽ xây dựng các mục tiêu, các chỉ tiêu phát
triển, định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, các chương trình phát triển, danh
mục các dự án các công trình phát triển và định hướng các cơ chế chính sách. Tuy
nhiên trong quá trình xây dựng, các bước sẽ được thực hiện xen kẽ để hỗ trợ cho
nhau.
Kế hoạch định hướng phát triển kinh tế – xã hội hàng năm là công cụ để ổn
định kinh tế vĩ mô và thực hiện mục tiêu phát triển của năm đó trong nội dung của
kế hoạch định hướng phát triển 5 năm. Một nội dung quan trọng của kế hoạch là
cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Kế hoạch đầu tư của Nhà nước: Quốc hội quyết
định tổng mức đầu tư cụ thể hàng năm, gồm cả tín dụng Nhà nước và công trình
trọng điểm khởi công trong năm kế hoạch, chủ yếu tập trung vào các dự án quy mô
lớn phát huy tác dụng trên phạm vi liên tỉnh. Kế hoạch ngân sách Nhà nước bao
gồm kế hoạch thu – chi ngân sách và cân đối ngân sách hàng năm. Do thu – chi
ngân sách thường không ăn khớp nhau về thời điểm, nên chính phủ và chính quyền
các cấp được phép vay tín dụng. Kế hoạch cung ứng tiền tệ là một kế hoạch linh
hoạt và kế hoạch từng quý sẽ là công cụ chủ yếu điều hành cung ứng tiền tệ của

18


nền kinh tế, bảo đảm mục tiêu kiềm chế lạm phát ổn định ở mức độ chấp nhận
được.
Kế hoạch xuất nhập khẩu và quản lí cán cân thanh toán quốc tế, quản lý vay
và trả nợ nước ngoài, hạn chế số lượng các mặt hàng, quản ký bằng hạn ngạch ở
mức tối thiểu cần thiết.
Kế hoạch hàng năm ở cấp trung ương bao gồm một số chỉ tiêu dự báo và một
số chỉ tiêu pháp lệnh. Sự khác biệt của các chỉ tiêu kế hoạch ở cấp trung ương, ở

cấp tỉnh và cấp huyện, đặc biệt là các chỉ tiêu về xã hội, phụ thuộc chủ yếu vào việc
phân cấp nhiệm vụ giữa những cấp này, trong thời gian tới cần sớm nghiên cứu để
đưa vào kế hoạch những chỉ tiêu hữu dụng cho việc giải quyết những vấn đề này.
Đối với kế hoạch hàng năm thì công tác điều hành kế hoạch có một vị trí rất quan
trọng. Mục tiêu của việc điều hành là kịp thời can thiệp gián tiếp hoặc trực tiếp vào
nền kinh tế khi có xuất hiện biến động môi trường làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện các mục tiêu kế hoạch. Để nâng cao chất lượng công tác điều hành kế hoạch,
trước hết cần phải củng cố hệ thống thông tin và xây dựng những mô hình phân
tích và dự báo kinh tế có độ tin cậy cao.
3.2.4 Tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách, cơ chế:
Việc nâng cao chất lượng hoạch định chính sách phục vụ xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội rất cần chú ý đến các công cụ chính sách gián tiếp. Cụ thể:
- Nâng cao năng lực hoạch định chính sách của các cơ quan nhà nước.
- Nâng cao vai trò của các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học
trong công tác hoạch định chính sách, lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thực
chứng, dựa vào các nguồn thông tin có chất lượng cao.
- Tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp và những người hoạch đinh chính
sách phát triển kinh tế.
- Mở rộng diễn đàn trao đổi chính sách trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
- Tăng cường vai trò của cộng đồng trong xây dựng và tổng hợp kế hoạch,
đặc biệt là kế hoạch ở cấp tỉnh, thành phố; kế hoạch của cấp huyện, thị.
3.2.5 Tăng cường xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế:

19


Công tác dự báo và phân tích kinh tế luôn là khâu yếu nhất trong toàn bộ quá
trình kế hoạch hoá. Vì vậy, để nâng cao độ tin cậy của kế hoạch như một công cụ
định hướng phát triển cần phải nâng cao chất lượng công tác dự báo và phân tích

kinh tế. Trước mắt có thể thành lập các bộ phận hay đơn vị dự báo và phân tích
kinh tế, tại một số bộ tổng hợp như: Bộ kế hoạch và đầu tư, ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Bộ tài chính và một số viện nghiên cứu kinh tế. Dự báo trước hết cần tập
trung vào các chỉ số và vấn đề kinh tế vĩ mô. Về thời hạn, dự báo trước mắt cần tập
trung vào ngắn hạn ( một quý, sáu tháng, một năm ). Trong đó dự báo quý có vai
trò rất quan trọng trong điều hành kế hoạch. Trong thời gian tới, việc lựa chọn mô
hình dự báo ngắn hạn nên chú ý các yêu cầu sau: phải đưa ra được những số liệu dự
báo, phân tích theo quý. Phải bao gồm những thông tin kịp thời phản ánh được
những nét chính, tình hình kinh tế trong thời gian ngắn hạn, mức độ yêu cầu về chất
lượng thông tin không cần quá nghiêm ngặt, không cần phân ngành ở mức độ quá
chi tiết như phân ngành của hệ thống thống kê, nhưng đồng thời việc nhóm gộp vẫn
phải bảo đảm thể hiện những nét quan trọng nhất của cơ cấu kinh tế, phối hợp được
với phương pháp dự báo khác nhau để thường xuyên phối hợp và cải tiến mô hình.
3.2.6 Đổi mới việc thu thập, xử lý và sử dụng thông tin:
Hệ thống thông tin kế hoạch phải đầy đủ, kịp thời, chính xác là một yếu tố cơ
bản quyết định chất lượng của kế hoạch và điều hành kế hoạch, bao gồm những
thông tin thống kê, các thông tin dự báo trung và ngắn hạn.
Đánh giá lại hệ thống thông tin trong các báo cáo kế hoạch, thống kê và
thông tin hiện hành; Các thông tin từ nhiều nguồn phải được đối chiếu, so sánh;
Từng bước tiêu chuẩn hóa các thông tin kinh tế-xã hội.
Xây dựng hệ thống thu thập thông tin, tăng cường trang thiết bị phân tích và
xử lý thông tin phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác kế hoạch và điều hành kinh tế
vĩ mô.
3.2.7 Củng cố bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch:
Việc thực hiện những định hướng và giải pháp đổi mới trên đây chỉ đạt được
kế quả mong muốn khi bộ máy tổ chức kế hoạch được thay đổi phù hợp và nâng
cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác kế hoạch. Những việc
cần thực hiện trong thời gian tới để giải quyết vấn đề này là: Hoàn thiện bộ máy kế
20



hoạch ở trung ương cũng như ở các địa phương theo hướng liên kết, phối hợp chặt
chẽ với nhau hơn để có thể thường xuyên nắm bắt tình hình, phục vụ kịp thời cho
việc điều hành thực hiện kế hoạch, cũng như giúp cho chính phủ và chính quyền
địa phương phối hợp xây dựng chính sách kinh tế ở cấp của mình một cách có hiệu
quả.
Xây dựng một hệ thống tổ chức kế hoạch có “chân rết ” gọn nhẹ, có năng lực
ở các ngành và các địa phương phục vụ tốt hơn cho công tác kế hoạch hoá và cung
cấp thông tin theo cả chiều dọc và chiều ngang. Tổ chức thực hiện các chương trình
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kế hoạch và đầu tư, cán bộ của vụ kế hoạch các bộ và
cán bộ các sở kế hoạch và đầu tư địa phương.

KẾT LUẬN
Trên con đường muốn hội nhập và phát triển, nước ta không thể nào khác là
phải thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong những điều kiện của
thế giới ngày nay, phải sử dụng tối đa các khả năng của cách mạng khoa học công
nghệ, của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với những lợi thế của
nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc, những tiềm năng to
lớn của nhân dân ta kết hợp với sự sáng tạo để đưa đất nước phát triển nhanh và
bền vững, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, dần đi lên chủ nghĩa xã hội và công tác kế hoạch hóa phát triển là một công
cụ quản lý của Nhà Nước không thể thiếu để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội.
Trải qua thực tiễn những năm đổi mới vừa qua chóng ta đã nhận ra ngày
càng rõ những đặc trưng cơ bản của kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường vấn
đề ở chỗ: hiểu và sử dụng thế nào kế hoạch trong nền kinh tế thị trường. Đây là một
yêu cầu cần phải đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn nhằm thúc đẩy sự
phát triển của một đất nước.
Công cụ kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường và những vấn đề cần đổi
mới trong công tác kế hoạch hóa là một đề tài có nội dung và phạm vi rộng lớn qua

21


nghiên cứu và phân tích đã cho nhóm hiểu rõ hơn về công tác kế hoạch hóa ở Việt
Nam, ở mặt tích cực cũng như tiêu cực. Những thành tựu của công tác kế hoạch
hóa cũng như những chuyển biến kinh tế quan trọng của đất nước đã chứng tỏ sự
đúng đắn của Đảng và Nhà Nước khi lựa chọn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị
trường, trong đó công cụ kế hoạch hóa là công cụ đắc lực mà Nhà Nước sử dụng để
can thiệp vào nền kinh tế thị trường.

22



×