Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận đánh giá các tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toán cầu 2008 ảnh hưởng đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.96 KB, 20 trang )

Nhóm 02 – CH19B.QLKT
Chương I: LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐẾN THỊ TRƯỜNG
1.1 Khái quát về thông tin bất cân xứng
Trong mọi nền kinh tế, các giao dịch về tài chính đều hướng tới mục tiêu cuối
cùng là chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến những dự án đầu tư hiệu quả nhất với chi phí
thấp nhất có thể. Khi sản xuất hàng hóa và dịch vụ của xã hội liên tục phát triển sẽ
làm gia tăng không ngừng giá trị thặng dư. Những chủ nhân của phần giá trị thặng dư
đó luôn tìm các cơ hội đầu tư tốt nhất nhằm giảm thiểu chi phí cơ hội của việc giữ
tiền. Những người muốn thành lập hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh luôn tìm kiếm
các nguồn vốn đầu tư có chi phí thấp nhất. Sự gặp nhau của hai luồng nhu cầu trên tạo
nên các giao dịch về tài chính và tổng hợp các giao dịch tài chính đó hình thành thị
trường tài chính. Tuy nhiên sẽ không đơn giản để các giao dịch tài chính đạt đến mục
tiêu cuối cùng trên. Nguyên nhân là do sự tương hợp về yêu cầu giữa người đi vay và
người cho vay không phải bao giờ cũng đạt được. Các giao dịch tài chính luôn gặp
phải một mâu thuẫn cơ bản, cố hữu, một mâu thuẫn tạo nên cơ sở tồn tại của các điều
kiện cho vay, đó là sự không cân xứng thông tin giữa người cho vay và người đi vay.
Tóm lại trong các giao dịch tài chính thường có sự chênh lệch về thông tin giữa các
bên tham gia, đó chính là hiện tượng thông tin không cân xứng.
Như vậy bất cân xứng về thông tin có các đặc điểm sau:
• Thứ nhất, có sự khác biệt về thông tin giữa các bên giao dịch.
• Thứ hai, có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa các bên.
• Thứ ba, trong hai bên một bên có thông tin chính xác hơn.
Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn bên
khác thì không biết đích thực mức độ thông tin ở mức nào đó.
Thông tin bất cân xứng là khái niệm mô tả các tình huống trong đó những
người tham gia tương tác trên thị trường nắm được thông tin khác nhau về giá trị hoặc
chất lượng của một tài sản đang được giao dịch (trao đổi) trên thị trường đó. Nói một
cách khác, nếu như không tồn tại tình trạng bất cân xứng đối với việc tiếp cận các
thông tin về tài sản, thì các bên tham gia thị trường được hiểu là "cân xứng" về thông
tin. Tóm lại, thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn


bên đối tác hoặc có thông tin nhưng thông tin không chính xác. Điều này khiến cho
bên có ít thông tin hơn có những quyết định không chính xác khi thực hiện giao dịch


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
đồng thời bên có nhiều thông tin hơn cũng sẽ có những hành vi gây bất lợi cho bên
kia khi thực hiện nghĩa vụ giao dịch. Hai hành vi phổ biến nhất do thông tin bất cân
xứng gây ra là lựa chọn đối nghịch (adverseselection) và rủi ro đạo đức (moral
hazard).
1.2 Các dạng thông tin bất cân xứng và tác động của nó đến thị trường
1.2.1. Sự lựa chọn đối nghịch
a. Khái niệm lựa chọn đối nghịch
Lựa chọn đối nghịch (hay còn gọi là lựa chọn ngược, lựa chọn trái ý, lựa chọn
bất lợi) là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch
hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng. Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra trước
khi thực hiện giao dịch mà bên có nhiều thông tin có thể gây ra tổn hại cho bên có ít
thông tin hơn. Lựa chọn bất lợi là trục trặc của yếu tố cơ hội chủ nghĩa trước hợp
đồng; nó nảy sinh vì thông tin riêng mà người thực hiện "giao dịch" có trước khi họ
ký hợp đồng, trong lúc đang tính toán xem việc thực hiện "giao dịch" thì có lợi hay
không.
Lựa chọn đối nghịch là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình
trạng thông tin bất cân xứng, người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt.
Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang nhau
và đầyđủ về thứ được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ
tương xứng vớicái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong điều kiện thông tin phi đối
xứng, nghĩa là một bên trong giao dịch có nhiều thông tin về đối tượng giao dịch hơn
bên kia, người có ưu thế về thông tin có thể cung cấp những thông tin không trung
thực về đối tượng được giao dịch cho bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là, bên kém
ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và nhận được thứ không như mình
mong muốn.

b. Tác động của lựa chọn đối nghịch đến thị trường
Trên thị trường hàng hóa hữu hình, đặc biệt các thị trường của loại sản phẩm có
mức chất lượng biến thiên rộng, sự xuất hiện của bất cân xứng thông tin là yếu tố
quan trọng kìm hãm giao dịch. Người bán luôn có thông tin tốt hơn người mua nên sự
nghi ngờ về chất lượng sản phẩm của người mua là không thể tránh khỏi. Điều đó đẩy
người mua đến hai con đường: hoặc là chọn mặt hàng thay thế hoặc là tìm cách có
thêm thông tin về hàng hóa đó (mua thông tin, thuê chuyên gia thẩm định…). Tuy


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
nhiên, việc làm này tăng chi phí giao dịch mà người mua phải trả thêm. Những yếu tố
này làm giảm nhu cầu của người mua và kết quả là trên những thị trường như thế
doanh số giao dịch sẽ không cao.
Chẳng hạn như trên thị trường tín dụng, người cho vay thường không thể nắm
bắt đầy đủ thông tin về người vay tiền nên sẽ tính một mức lãi suất cho vay có phần
bù rủi ro. Những dự án kinh doanh có rủi ro thấp, lợi nhuận sẽ không đủ trả lãi, chỉ
còn lại những dự án có rủi ro cao mới có thể chấp nhận mức lãi suất cao. Chính vì
tình trạng thông tin không cân xứng về dự án kinh doanh giữa người cho vay và người
đi vay nên cuối cùng người cho vay chỉ toàn cho vay những dự án rủi ro cao hoặc sẽ
không chấp nhận cho vay. Điều này làm thu hẹp thị trường tín dụng. Khi đó, người
cho vay đã thực hiện một lựa chọn đối nghịch thay vì cho vay những khách hàng có
mức tín nhiệm cao thì họ lại chọn những khách hàng có mức tính nhiệm thấp vay.
Trên thị trường chứng khoán, lựa chọn đối nghịch xảy ra khi những nhà đầu tư
không biết thông tin về cổ phiếu của các công ty khác nhau do đó có thể định giá cổ
phiếu không chính xác hoặc mua cổ phiếu của công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Thị
trường chứng khoán không minh bạch thông tin hoặc thông tin không đầy đủ nhà đầu
tư thường có khuynh hướng trả mức giá trung bình cho các loại chứng khoán khác
nhau để đề phòng ngừa rủi ro vì thế những công ty hoạt động kém nhưng biết cách
tiếp thị sẽ sẵn sàng phát hành chứng khoán với mức giá trung bình mà các nhà đầu tư
muốn mua trong khi những công ty hoạt động tốt đòi hỏi một mức giá cao thì có thể

phát hành sẽ không thành công. Giao dịch chứng khoán trong điều kiện thị trường bất
cân xứng thông tin. Những người tham gia có thể đẩy thị trường đến một trạng thái
lựa chọn đối nghịch, đó là việc mua chứng khoán của những công ty hoạt động kém
và đẩy khỏi thị trường những công ty có chất lượng tốt. Trong thực tế, những nhà đầu
tư sẽ dần ý thức được khả năng lựa chọn đối nghịch bất lợi của mình nên sẽ không
tiếp tục mua bất kỳ một loại chứng khoán nào nữa, trong khi đó những cổ phiếu tốt do
bị trả giá thấp ngang bằng với giá cổ phiếu trung bình nên cũng không bán ra nữa.
Nếu những diễn biến trên xảy ra thì nhà đầu tư sẽ quy lưng lại đối với thị trường, thị
trường chứng khoán sẽ mất tính thanh khoản và ngày càng bị thu hẹp, hàng hóa trên
thị trường chỉ còn là những hàng hóa có chất lượng kém. Như vậy thị trường chứng
khoán đã không còn làm tốt vai trò chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
1.2.2 Rủi ro đạo đức


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
a. Khái niệm rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức (hay còn gọi là tâm lý ỷ lại) là kết quả của hành vi bị che đậy và
xuất hiện sau khi ký hợp đồng. Rủi ro đạo đức là một thuật ngữ kinh tế học và tài
chính được sử dụng để chỉ một loại rủi ro phát sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị
suy thoái. Rủi ro đạo đức là một kiểu thất bại thị trường nảy sinh trong môi trường
thông tin bất cân xứng. Rủi ro đạo đức là hình thức cơ hội chủ nghĩa sau hợp đồng,
phát sinh do các hành động có tác động đến hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan
sát được và vì thế những người thực hiện các hành động này có thể chọn theo đuổi
những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây tổn hại cho người khác. Rủi ro đạo đức
nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối xứng giữa
các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho
bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin. Hành vi
tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được bên kém ưu thế thông
tin cho là không đúng đắn, là một thứ nguy hiểm, rủi ro cho mình. Để có sự tồn tại
của rủi ro đạo đức, ba điều kiện phải được thỏa mãn:

• Thứ nhất, phải có sự khác biệt về quyền lợi giữa các bên.
• Thứ hai, phải có một cơ sở nào đó để tạo ra trao đổi có lợi hay một hình thức
hợp tác khác nhau giữa các cá nhân (tức là có lý do để đồng ý giao dịch) từ đó
làm lộ ra mâu thuẫn về quyền lợi.
• Thứ ba, là phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều kiện
thỏa thuậncó đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.
Rủi ro đạo đức có những đặc điểm chính sau đây:
• Có sự xuất hiện của hành động ẩn giấu. Một bên tham gia giao dịch không thể
giám sát hành động của phía bên kia.
• Bên có hành động ẩn giấu dù vô tình hay cố ý sẽ làm tăng xác suất xảy ra hậu
quả xấu.
b. Tác động của rủi ro đạo đức đến thị trường
Trong thực tế, vấn đề rủi ro đạo đức xuất hiện trong rất nhiều thị trường, chẳng
hạn: có một số thị trường mà tình trạng bất cân xứng thông tin dễ được nhận thấy như
thị trường bảo hiểm, thị trường vay tín dụng, thị trường chứng khoán.
Trong thị trường cho vay tín dụng, người vay tiền biết nhiều thông tin hơn
người cho vay về hiệu quả của phương án kinh doanh, khả năng quản lý vốn và mức


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
độ rủi ro của dự án hơn người cho vay tiền, thậm chí họ còn hiểu rõ uy tín của bản
thâm và biết chắc rằng mình có sử dụng khoản vay đúng mục đích hay không. Nói
tóm lại, trong thị trường cho vay tín dụng bất cân xứng thông tin sẽ dẫn đến cả lựa
chọn bất lợi và rủi ro đạo đức.
Trên thị trường chứng khoán, công ty phát hành chứng khoán biết nhiều thông
tin hơn người mua chứng khoán về kế hoạch kinh doanh, kế hoạch sử dụng vốn, khả
năng sinh lợi của tài sản, mức độ rủi ro của dự án…. Công ty phát hành có thể che
giấu những thông tin bất lợi của công ty, thay vào đó là việc trưng ra những kế hoạch
kinh doanh và sổ sách kế toán đã được làm đẹp. Sau khi huy động được vốn thì công
ty có thể dùng vốn vào những mục đích khác với cam kết ban đầu để thu lợi và

chuyển dịch rủi ro cho nhà đầu tư, nhà đầu tư dù muốn cũng không thể kiểm soát
được rủi ro này vì biết ít thông tin hơn hoặc năng lực can thiệp hạn chế. Một trường
hợp dễ nhận thấy của rủi ro đạo đức trên thị trường chứng khoán là tình trạng thao
túng các mặt hoạt động của công ty cổ phần và giá cổ phiếu. Các cổ đông lớn hoặc
những người nằm trong ban điều hành công ty do có được thông tin về công ty hoặc
tạo ra những sự kiện rồi liên kết mua bán để đẩy giá cổ phiếu tăng cao kéo những nhà
đầu tư nhỏ lẻ ít kinh nghiệm vào cuộc. Khi những cổ đông lớn đã rút ra khỏi thị
trường thì những cổ đông nhỏ nắm giữ những cổ phiếu giá cao (lựa chọn bất lợi).
Trên thị trường chứng khoán khi thông tin không cân xứng thì những người mua bán
trung thực thường chịu thiệt hại hơn những người mua bán với thông tin nội bộ, nhà
đầu tư cá nhân là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Khi những người bán trung
thực bị thua lỗ kéo dài thì chắc chắn họ sẽ rút ra khỏi thị trường vì không ai muốn
chơi trong cuộc chơi mà mình luôn ở thế bất lợi, hậu quả là thị trường bị thu hẹp.

Chương II: VẬN DỤNG LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐỂ
GIẢI THÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008
2.1 Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có nguồn gốc bắt đầu từ cuộc
khủng hoảng tài chính tại Mỹ. Thị trường chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động
mạnh, đồng loạt giảm sút.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ
nét nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự
kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng diễn ra như thế nào.
Năm 2002 – 2004: Giá cả ở các bang Arizona, California, Florida, Hawaii, và
Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
Năm 2005: bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 8/2005. Thị trường bất động
sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi

suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá
thấp thị trường.
Năm 2006: thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất
động sản, dẫn đến một lượng dư thừa đáng kể. Chỉ số xây dựng nhà ở tại Mỹ hồi giữa
tháng 8 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
Năm 2007: kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính
cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm so với hơn 25 tổ
chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch
thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
- Ngày 19/7, chỉ số Dow jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong lịch
sử.
- Tháng 8: khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên các
khoản thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư và quỹ
trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho
vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dự trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay
100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
+ Ngày 16/8: tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất nước
Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô là từ một nhóm các ngân
hàng khác.
+ Ngày 17/8: cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số triết khấu 50 điểm cơ bản từ
mức 6.25% xuống 5.75%.
- Ngày 14/9: ngân hàng Northem Rock (Anh) đã gặp phải vấn đề nghiêm trọng về khả
năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn.


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
- Ngày 15 – 17/10: liên minh ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập
một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài
sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng vay dưới chuẩn.
- Tháng 11: cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi

suất thấp.
Năm 2008: Trong tháng ba, nạn nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế là ngân
hàng Bear Stearns. Thua lỗ, ngân hàng 85 tuổi này buộc phải bán mình cho JP
Morgan với giá 10 USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần mức giá niêm yết cách đó 10 năm.
Ngay sau đó, cơn bão tài chính gần như đã cuốn phăng hai đại gia cho vay lớn nhất
Mỹ Fannie Mae và Freddie Mac. Kế đó, họ gánh vác 5 nghìn tỷ USD, chiếm gần nửa
trong tổng số các khoản thế chấp tại Mỹ. Đến tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang (FED)
đã chi 200 tỷ USD làm phao cứu sinh cho hai đơn vị này. Tuy nhiên, tin xấu không
chỉ dừng lại ở đó. Ngày 15/9, công ty tài chính khổng lồ Lehman Brothers gục ngã.
Trước khi sụp đổ, tiền nợ ngân hàng và tỷ lệ vốn cổ phần là 30-1, cao gần gấp ba lần
quy định luật pháp cho phép. Một số ngân hàng đầu tư khác cũng đội nón ra đi, như
Merrill Lynch, đơn vị sau đó được Bank of America mua lại. Tiếp đó, nhiều ngân
hàng lớn ở châu Âu như UBS và Ngân hàng Hoàng gia Scotland cũng lâm vào tình
cảnh nguy ngập. Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ.
Khi Iceland lâm vào phá sản, chính phủ các nước trên thế giới cũng tới tấp thông báo
kế hoạch cứu nguy nền kinh tế. Thị trường chứng khoán toàn cầu mất gần một nửa giá
trị so với năm liền trước với quy mô thiệt hại 28,7 nghìn tỷ USD. Thất nghiệp đua
nhau lập những kỷ lục mới. Nhu cầu co lại buộc các doanh nghiệp phải đóng cửa làm
ăn.
2.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
Cuộc khủng hoảng tài chính 2008 được đánh giá là cuộc khủng hoảng tài chính
lớn nhất, nặng nề nhất trên thế giới trong hơn 60 năm qua từ sau Đại khủng hoảng
kinh tế Thế giới 1929-1933. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng được xác định là bắt đầu
từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và một số nguyên nhân chính là:
Thứ nhất, tình trạng kinh doanh thua lỗ và sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền
của các tổ chức tài chính hàng đầu.
Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái, kinh tế khó khăn, giá bất động sản
giảm mạnh, người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán bất
động sản để trả nợ. Như vậy, các tổ chức tín dụng cho vay phải đối mặt với nguy cơ



Nhóm 02 – CH19B.QLKT
mất vốn. Thêm vào đó, việc các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho
các các chứng khoán MBS là nợ khó đòi dẫn đến các chứng khoán MBS mất giá trên
thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những chứng khoán này
không những bị lỗ mà còn dần rơi vào tình trạng khó khăn về tính thanh khoản. Đến
một mức độ nhất định, các tổ chức tài chính không còn chịu đựng được sức ép của
tính thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên đã buộc phải tìm sự cứu trợ từ tất cả các
nguồn và thậm chí giải pháp cuối cùng là đệ đơn pháp sản. Do sự liên quan, đầu tư
qua lại thông qua hình thức chứng khoán hoá đã dẫn đến tình trạng sụp đổ có hệ thống
trên toàn cầu.
Đồng thời, các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả tiền bảo
hiểm theo các hợp đồng bảo hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do các tổ chức này bán
ra. Ước tính nước Mỹ có khoảng 35.000 tỷ USD tiền bảo hiểm và toàn thế giới là
khoảng 54.600 tỷ USD (theo ước tính của “International Swap and Derivatives
Association”). Tập đoàn tài chính và bảo hiểm hàng đầu thế giới AIG bị đổ vỡ, một
phần là do đầu tư vào MBS và phần lớn là do các hợp đồng CDS. Nếu không có sự
giải cứu kịp thời đối với thị trường tài chính Mỹ thì các hợp đồng CDS sẽ tàn
phá các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
Chỉ tính đến tháng 07 năm 2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn
trên 435 tỷ USD. Hơn nữa, không một ai có thể chắc về giá trị đích thực của các
khoản đầu tư tài chính – bất động sản được ước tính là hàng ngàn tỉ đô la vẫn
nằm trên sổ sách của các tập đoàn tài chính – ngân hàng.
Thứ hai, khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế. Một nguyên
nhân khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán ngày càng sâu
rộng là sự khủng hoảng về niềm tin của người dân Mỹ đối với đội ngũ lãnh đạo
của đất nước này. Kế hoạch giải cứu tài chính tưởng chừng như được thông qua
khi hầu hết các lãnh đạo chính trị Mỹ đều ủng hộ thì đến phút cuối lại không
được Hạ viện thông qua. Ngay lập tức thị trường có những phản ứng tiêu cực với
kết quả này khi các chỉ số chính trên toàn thế giới đều giảm rất sâu. Một kế

hoạch giải cứu trị giá rất lớn như vậy mà khi đưa ra Hạ viện bỏ phiệu lại chưa
chắc rằng liệu nó có đạt được đủ số phiếu để thông qua hay không thì trong bất
cứ trường hợp nào cũng là một rủi ro đối với thị trường và đặc biệt trong tình
trạng thị trường đang suy yếu. Mặc dù vài ngày sau gói giải pháp này đã được


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
thông qua nhưng rõ ràng đã có sự không nhất quán trong nội bộ các nhà Phòng
PT&DBTT-Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN) 22lập pháp Mỹ về cách thức
điều hành và quản lý thị trường. Nhiều chính sách điều tiết thị trường đã không
còn phù hợp và không theo kịp được sự phát triển của thị trường. Vấn đề là khi
lòng tin vào vai trò của Chính phủ đã bị giảm sút và những dầu hiệu của một
cuộc cuộc đại khủng hoảng và suy thoái trong dài hạn vẫn còn hiển hiện thì
những giải pháp tài chính tức thời cũng khó làm thay đổi được thị trường.
Thứ ba, sự phát triển bong bóng của thị trường tín dụng bất động sản và chứng
khoán hóa thái quá các chứng khoán tín dụng bất động sản cộng với chủ nghĩa tự do
trong điều hành kinh tế. Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng là tình trạng phát
triển bong bóng của thị trường tài chính, trong đó tập trung là thị trường tín dụng bất
động sản và chứng khoán hoá các khoản tín dụng bất động sản.
Kể từ thập niên 1980, thị trường tài chính Mỹ và thế giới đã nhanh chóng phát
triển các công cụ chứng khoán phái sinh và mở rộng hoạt động chứng khoán hoá các
khoản nợ và đầu tư. Mặc dù các công cụ nợ mới này giúp tăng nguồn tài chính và
phân tán rủi ro nhưng đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ phiếu ngày càng xa
rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm. Ngược lại với sự biến đổi sâu rộng của thị
trường trong gần 30 năm qua, những yêu cầu của pháp luật về sự minh bạch hoá và
năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đã không bắt kịp. Không một
cơ quan nhà nước, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài chính có đủ thông
tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng khoán để có thể đánh giá
chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản nằm trên sổ sách của các
tổ chức tài chính và ngân hàng.

Thêm vào đó những hoạt động chứng khoán hoá lại được che đậy qua các
hoạt động đầu cơ của các quỹ đầu tư nắm giữ tới gần 3.000 tỷ đô la giá trị tài sản
nhưng không phải công bố tài sản với công chúng và gần như không chịu sự
giám sát của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào.
Những nới lỏng về quản lý như việc huỷ bỏ đạo luật Glass-Steagal vốn tách
biệt ngân hàng thương mại (commercial banking) chuyên thực hiện những hoạt
động cho vay an toàn với ngân hàng đầu tư (investment banking) chuyên thực
hiện những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao đã góp phần khuyến khích những hoạt
động đầu cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển. Vì vậy đã thổi bùng


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
lên bong bóng đầu cơ bất động sản. Trong một thời gian dài, các tổ chức tài
chính đã tăng cường cho vay đối với thị trường bất động sản, đi kèm với đó là
tình trạng nới lỏng các điều kiện vay vốn dẫn đến việc bùng nổ hoạt động cho
vay bất động sản, đặc biệt ở Mỹ, tình trạng cho vay dưới chuẩn đối với lĩnh vực
bất động sản gia tăng mạnh mẽ. Các khoản tín dụng đầu tư bất động sản sau đó
được chứng khoán hoá và được giao dịch Phòng PT&DBTT-Trung tâm NCKHĐTCK (UBCKNN) 23 rộng rãi trên thị trường (gom góp các hợp đồng cho vay
bất động sản lại làm tài sản bảo đảm để phát hành trái phiếu ra thị trường tài
chính quốc tế). Các loại chứng khoán phái sinh này được gọi là “mortgagebacked securities – MBS” và được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá cao
mà không biết rằng các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm là
không đủ tiêu chuẩn. Kết quả là tình trạng bong bóng tín dụng bất động sản và
chứng khoán được đẩy lên rất cao, đồng thời lôi kéo sự tham gia của nhiều chủ
thể khác nhau, trong đó bao gồm tất cả các loại hình tổ chức tài chính như ngân
hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư... Hệ quả là, những
biến động tiêu cực của thị trường tài chính – tiền tệ lại tạo sức ép lên hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm cho họ vốn đã khó khăn lại ngày
càng khó khăn thêm. Lạm phát và tình trạng tín dụng bị co rút lại làm cho các
doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn khi tiếp cận vốn, số doanh nghiệp rơi vào tình
trạng phá sản ngày càng tăng. Các nhà đầu tư hết sức lo lắng, xem xét lại các

quyết định đầu tư. Vốn đầu tư không những không được bơm thêm vào thị
trường mà lại còn được rút bớt ra. Hậu quả là hoạt động giao dịch trên thị
trường giảm sút, lệnh bán được tung ra nhiều trong khi lệnh mua thấp, thị
trường đi xuống trong tình trạng tính thanh khoản giảm.
2.3 Vận dụng lý thuyết thông tin bất cân xứng để giải thích nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
Trong thời kỳ 1992 - 2000 nền kinh tế Mỹ có 2 sự kiện đáng chú ý đã xảy ra, thứ
nhất là sự sụp đổ của bong bóng chứng khoán làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả
năng thế chấp cho các khoản vay của tầng lớp trung lưu Mỹ và sự kiện quốc hội Mỹ
thông qua đạo luật Gramm-leach-Bliey. Đạo luật mới này cho phép các ngân hàng
thương mại tham gia vào các hoạt động đầu tư rất rủi ro, và điều này đã làm xuất hiện
các hình thức giao dịch phái sinh trên thị trường cho vay đầu tư bất động sản.


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
Trong giai đoạn 2001-2008, nền kinh tế Mỹ mất cân đối vĩ mô trầm trọng. Mỹ
chịu gánh nặng của 2 cuộc chiến Iraq và Afganistan, và điều này làm tăng thâm hụt
ngân sách. Ngoài ra, thâm hụt cán cân thương mại và nợ ròng nước ngoài của Mỹ liên
tục tăng. Sau cuộc khủng hoảng bong bóng công nghệ. Chủ tịch cục dự trữ liên bang
Mỹ lúc đó đã cho phép hạ thấp lãi suất cơ bản nhằm kích thích đầu tư, tiêu dùng
trong nước và giảm giá đồng USD nhằm kích thích xuất khẩu. Tuy nhiên, quyết định
này là sai lầm, thay vì làm sản xuất được phục hồi, nó là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự phình to của bong bóng tiêu dùng và bất động sản.
Như vậy, có thể nói rằng những quyết sách sai lầm của quốc hội Mỹ, Chủ tịch
cục dự trữ liên bang Mỹ lúc đó và sự bất ổn kinh tế vĩ mô đã ươm mầm cho cuộc
khủng hoảng kinh tế năm 2007.
Cuộc khủng hoảng 2007-2009 có thể truy ra từ 3 nguyên nhân cốt lõi: Do sự
phát triển của thị trường thế chấp, vấn đề chi phí đại diện và vai trò của sự bất cân
xứng thông tin trong việc đánh giá xếp hạng tín dụng.
- Sự phát triển của thị trường thế chấp.

Thế chấp dưới chuẩn:
Các khoản vay dưới chuẩn là những khoản cho vay dành cho những người vay
không đủ điều kiện vay mượn ở lãi suất thị trường thông thường – vì họ có xếp hạng
tín dụng cá nhân thấp và vì các khoản vay này vượt quá khả năng chi trả nếu căn cứ
trên thu nhập của họ. Vay dưới chuẩn cho mua xe, thẻ tín dụng là những ví dụ điển
hình. Một khoản thế chấp dưới chuẩn là một khoản vay thế chấp dành cho những cá
nhân có xếp hạng tín dụng kém. Những đối tượng đi vay này thường là những người
nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh
toán tín dụng không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có
khả năng thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn
tín dụng truyền thống vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn. Trong quá trình
thế chấp dưới chuẩn vấn đề thông tin bất cân xứng là sự lựa chọn đối nghịch do thị
trường tài chính không cân xứng. Những người đi vay luôn cố gắng kiếm một khoản
vay mà chính bản thân họ cũng không biết về khả năng có thể trả nợ cho những khoản
vay này. Còn bản thân người cho vay không có khả năng đòi được nợ.
Chứng khoán hoá các khoản thế chấp


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
Các định chế tài chính có thể gặp một số vấn đề trong việc cố gắng bán các
khoản thế chấp dưới chuẩn trên thị trường tài chính. Vấn đề thứ nhất là các khoản thế
chấp dưới chuẩn có giá trị không đáng kể để có thể là một sản phẩm tài chính rộng
rãi. Rất nhiều các nhà đầu tư tổ chức không muốn giao dịch với những con số nhỏ bé
như vậy. Rắc rối thứ hai khi bán các khoản thế chấp trên thị trường thứ cấp là chúng
không được tiêu chuẩn hoá. Các khoản vay này có sự khác biệt về kì thanh toán, lãi
suất, và các điều kiện hợp đồng. Do vậy rất khó để có thể kết hợp một số lượng lớn
các khoản vay thế chấp vào với nhau. Vấn đề tiếp theo liên quan đến chi phí dịch vụ.
Các yêu cầu thẩm định một khoản cho vay dưới chuẩn phức tạp hơn cả việc phát hành
trái phiếu doanh nghiệp. Những người đi vay phải tập hợp các bảng lương, báo cáo
thuế, bảo hiểm, và rất nhiều các dịch vụ khác. Cuối cùng, những người đầu tư vào các

khoản cho vay thế chấp không muốn mất quá nhiều thời gian vào việc cập nhật xếp
hạng tín dụng của những người đi vay. Những rắc rối trên đã dẫn đến việc chứng
khoán hoá các khoản thế chấp.
Như vậy người cho vay (người phát hành chứng khoán nợ) không nhất thiết phải
nắm giữ rủi ro tín dụng, mà có thể chuyển hoá sang cho người khác một cách dễ dàng
thông qua việc phát hành chứng khoán nợ với tài sản đảm bảo là danh mục tín dụng.
Những người cho vay luôn nắm rõ các thông tin về mức độ rủi ro và tỷ suất lợi nhuận
của các dự án đẩu tư. Các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan
tới danh mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hoá. Các tài sản tài chính có
thể sử dụng để chứng khoán hoá rất đa dạng, có thể là các khoản cho vay thương mại,
các khoản phải thu thương mại, các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho
vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dưới chuẩn.
Trong quá trình chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp đã xảy ra vấn thông
tin bất cân xứng đó là sự đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Vấn đề thứ nhất sự lựa chọn đối nghịch: Các định chế tài chính gặp một số vấn
đề trong việc cố gắng bán các khoản thế chấp dưới chuẩn trên thị trường tài chính.
Trong quá trình phát hành chứng khoán nợ các định chế tài chính không nhất thiết
phải nắm giữ rủi ro tín dụng, mà có thể chuyển hoá sang cho người khác một cách dễ
dàng. Các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ thì chấp nhận rủi ro liên quan tới danh
mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hoá và thực tế chứng minh các nhà


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
đầu tư này khó có thể đòi được các khoản nợ liên quan chứng khoán các khoản vay
dưới chuẩn.
Vấn đề thứ hai rủi ro đạo đức: Trong quá trình chứng khoán hóa các khoản thế
chấp bao gồm cả các khoản vay dưới chuẩn. Trong quá trình phát hành chứng khoán
nợ các định chế tài chính biết rõ hàm lượng các khoản vay dưới chuẩn trong quá trình
phát hành chứng khoán nợ. Các chứng khoán của các khoản vay dưới chuẩn là một rủi
ro và họ không nhất thiết phải nắm giữ rủi ro tín dụng này, mà có thể chuyển hoá sang

cho người khác một cách dễ dàng.
Trong giai đoạn trước năm 2000, chỉ có những người có xếp hạng tín dụng tốt
nhất mới có thể tiếp cận các khoản vay thế chấp. Những tiến bộ trong khoa học tài
chính đã giúp tiến hành tính toán và gộp các khoản vay nhỏ (các khoản vay thế chấp)
này lại với nhau để tạo thành các chứng khoán nợ đảm bảo bằng tài sản thế chấp
(MBS – Mortgage Backed Securities). Nhờ việc có thể thu về dòng tiền từ các cổ
phiếu MBS và khả năng thanh khoản dồi dào, các ngân hàng đã cho vay dưới chuẩn
nhiều hơn. Số lượng các khoản vay dưới chuẩn tăng và rủi ro của chúng không đồng
đều. Trong khi đó các nhà đầu tư trên thị trường có xu hướng chấp nhận rủi ro không
đồng đều, do vậy một danh mục các khoản vay thế chấp đã được cấu trúc thành các
trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản nợ có thế chấp (CMO – Collateralized
Mortgage Obligations) với 3 gói khác nhau: Gói siêu hạng (super trance) – xếp loại
tốt nhất, gói cấp trung (mezzanine tranche) và gói sở hữu (equity tranche) – xếp loại
rủi ro nhất và nằm cuối cùng trong chuỗi thanh toán, dưới 2 gói trên. Trong cùng thời
gian này, các kỹ thuật tài chính tinh vi phát triển hơn, cùng với các khoản nợ thế chấp,
nhóm tài sản bảo đàm còn bao gồm thêm một số lượng lớn những khoản vay công ty,
vay mua ô tô, thẻ tín dụng… Và loại trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản nợ có
bảo đảm (CDO – Collateralized Debt Obligations). Các khoản bảo đảm của CDOs
không đồng nhất và được chia theo tiêu chuẩn thanh toán (CDO1, CDO2,…), mỗi gói
CDO có các đặc điểm và rủi ro khác nhau. Cấu trúc của các CMO, CDO này phức tạp
đến nỗi chúng được tạo ra không phải bởi các chuyên gia ngân hàng mà bởi các tiến
sỹ toán học, thống kê học, và các nhà khoa học tài chính. Sự phát minh ra chứng
khoán hoá nợ dưới chuẩn và các kỹ thuật tài chính tinh vi đã giúp ngân hàng đóng
gói các khoản nợ, bán nó ra thị trường, thu về dòng tiền, dòng tiền sau đó lại quay


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
trở lại thị trường thế chấp dưới chuẩn, và làm phình to hơn bong bóng bất động sản,
bong bóng tiêu dùng.
- Vấn đề chi phí đại diện:

Những nhà môi giới cho vay thế chấp trên thị trường thế chấp đã không nỗ lực
đánh giá khả năng trả nợ của những người đi vay trên thị trường. Họ tin rằng việc
danh mục các khoản vay sẽ nhanh chóng bán hết cho các nhà đầu tư dưới dạng chứng
hoán. Những nhà môi giới nhận được phí từ việc môi giới cho vay thế chấp, và trong
bối cảnh thị trường bất động sản liên tục tăng giá, và các ngân hàng liên tục phát hành
thành công chứng khoán nợ đảm bảo bằng tài sản thế chấp, trái phiếu được đảm bảo
bằng các khoản nợ có thế chấp, trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản nợ có bảo
đảm thì những nhà môi giới này không chịu áp lực về việc phải thẩm định đúng khả
năng thanh toán của người đi vay. Các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư
cũng thu được rất nhiều lợi nhuận từ việc bảo lãnh phát hành các loại chứng khoán nợ
thế chấp. Càng cho nhiều người vay thế chấp, những nhà môi giới thu được càng
nhiều phí, càng phát hành nhiều chứng khoán nợ thế chấp, ngân hàng càng thu được
nhiều lợi nhuận. Sự khác biệt trong lợi ích cốt lõi giữa người môi giới (đại lý) – và
công ty cho vay thế chấp (hoặc ngân hàng) – nhà đầu tư (người mua cổ phiếu/trái
phiếu nợ thế chấp) dẫn đến những hành vi đi ngược lại lợi ích của nhau được gọi là
vấn đề chi phí đại diện. Vấn đề chi phí đại diện cũng có thể nhận thấy trong quá trình
đầu tư của doanh nghiệp: phần lớn các khoản đầu tư vào các chứng khoán nợ đã được
thực hiện thông qua các quỹ hưu trí và các định chế khác. Những người ra quyết định
đầu tư không làm việc cho tiền của chính mình, mà họ đang thay mặt cho những
người uỷ thác các khoản quỹ để nhờ họ quản lý. Những giám đốc điều hành thay vì
quan tâm về hiệu quả hoạt động, họ dành sự chú tâm của mình cho việc tìm kiếm lợi
nhuận trong ngắn hạn, vì tiền lương họ nhận được không dựa trên thành quả dài hạn
mà ảnh hưởng bởi giá cả (chứng chỉ quỹ) trên thị trường chứng khoán, và giá chứng
chỉ quỹ này thì lại phụ thuộc vào việc lợi nhuận hàng quý có ở mức cao hay không.
Hành vi thiếu trách nhiệm của các đại lý môi giới gây nên rủi ro về mặt đạo đức.
Rủi ro về mặt đạo đức đặc biệt nguy hiểm trên thị trường vốn. Trong điều kiện thông
tin bất cân xứng, họ nhận được lợi ích từ các bên đối lập, do phân bổ rủi ro không
công bằng. Nếu như các dự án được tài trợ vốn phần lớn là do đi vay, thì sẽ xảy ra
những vấn đề không bình thường. Việc sử dụng “tiền của người khác” sẽ dẫn tới khả



Nhóm 02 – CH19B.QLKT
năng là nếu như kinh doanh tốt, tất cả lợi nhuận sẽ thuộc về công ty, còn nếu kinh
doanh tồi, người cho vay sẽ phải chịu phần lớn khoản lỗ.
Với sự ưa thích rủi ro của mình, nhiều người dân xếp hàng đi vay thế chấp để
mua nhà, vì họ tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng giá nhà đất sẽ tăng liên tục, bất chấp
việc họ biết rõ nếu giá nhà đất giảm xuống, họ sẽ mất tất cả. Chính những quy định
lỏng lẻo trong việc thẩm định cho vay và vấn đề chi phí đại diện tạo điều kiện cho họ
có thể dễ dàng tiếp cận các khoản vay thế chấp, bất chấp họ không đủ khả năng thanh
toán, hoặc có thể gian lận thông tin để được chấp nhận cho vay. Mặt khác, các công ty
bảo hiểm tài chính như AIG cũng thu được rất nhiều phí bảo hiểm từ việc ký kết các
hợp đồng bảo hiểm trị giá hàng trăm tỉ đô la hợp đồng CDS - hợp đồng hoán đổi rủi ro
tín dụng. Khi một trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản nợ có thế chấp, trái phiếu
được đảm bảo bằng các khoản nợ có bảo đảm được kí một hợp đồng hợp đồng hoán
đổi rủi ro tín dụng, thì nó sẽ được đánh giá giảm rủi ro, làm tăng xếp hạng tín dụng.
Như vậy, hành vi thiếu trách nhiệm của các đại lý môi giới, những công ty bảo hiểm
như AIG gây nên rủi ro về mặt đạo đức cũng chính là một thủ phạm tạo nên nguyên
nhân của cuộc khủng hoảng tài chính.
- Vai trò của sự bất cân xứng thông tin trong việc đánh giá xếp hạng tín dụng
Nguyên nhân cốt lõi tiếp theo dẫn đến sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng là do sự
bất cân xứng thông tin của các tổ chức xếp hạng tín dụng với nhà đầu tư. Các tổ chức
này là người đánh giá rủi ro của các chứng khoán nợ, nhưng đồng thời cũng là người
tư vấn cho các khách hàng của họ trong việc làm thế nào để cấu trúc các công cụ tài
chính chẳng hạn như trái phiếu được đảm bảo bằng các khoản nợ có bảo đảm sao cho
xếp hạng tín dụng tốt. Nếu như các cơ quan đánh giá tín dụng làm đúng chức năng
của mình, thì các tài sản thế chấp sẽ ít được bán cho các quỹ hưu trí, và độ lớn của
bong bóng có thể được hạ thấp đáng kể. Nhưng những công ty này, vì muốn kiếm
được khoản lợi nhuận rất lớn thu được từ việc tư vấn xếp hạng tín dụng và việc xếp
hạng tín dụng nên đã đánh giá và công bố không chính xác rủi ro của các chứng
khoán nợ, và những thông tin sai lệch này đã khiến nhà đầu tư không nhận thức chính

xác được rủi ro của chứng khoán nợ.
Chương III: ĐÁNH GIÁ CÁC TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008 ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆT NAM


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
3.1 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến thị
trường chứng khoán ở Việt Nam
Các nghiên cứu gần đây cho thấy, cơn bão tài chính thế giới chưa có những tác
động lớn trực tiếp đến nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói
riêng. Cơ sở của những kết luận trên là tính liên thông và hội nhập của nền kinh tế
Việt Nam với nền kinh tế và thị trường tài chính thế giới chưa cao. Tuy nhiên, nếu
xem xét một cách thấu đáo có thể thấy rằng mặc dù không chịu ảnh hưởng trực tiếp
nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã chịu sự tác động nhất định từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự tác động này biểu hiện trên các phương diện sau
đây:
Một là, khủng hoảng tài chính với sức lan tỏa nhanh chóng đã tác động đến các
quốc gia vốn là thị trường xuất khẩu hàng hoá của nhiều doanh nghiệp niêm yết như
Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…Khủng hoảng tài chính làm sức mua
của các thị trường trên giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đáng kể đến kế hoạch doanh
thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết làm giá cổ phiếu của các doanh
nghiệp này vốn đang sụt giảm lại khó có khả năng phục hồi.
Hai là, khủng hoảng tài chính đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài bán ròng
cổ phiếu, trái phiếu. Với giá trị bán ra khổng lồ đã góp phần không nhỏ vào sự sụt
giảm của chỉ số VN-Index và Hastc-Index thời gian qua.
Thứ ba, tác động rõ nét nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến thị
trường chứng khoán Việt Nam là ở yếu tố tâm lý. Thật ra, yếu tố tâm lý trên thị
trường chứng khoán thì ở quốc gia nào cũng có, đặc biệt là các quốc gia có thị trường
này mới hình thành. Yếu tố tâm lý đã làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam bao
phen lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu: khi giá chứng khoán lên thì mua không

được, ngược lại khi giá rớt thì chỉ toàn lệnh bán mà không có lệnh mua. Sở dĩ có hiện
tượng này là do phần nhiều các nhà đầu tư Việt Nam chưa chuẩn bị kiến thức và bản
lĩnh cũng như kinh nghiệm cần thiết để tham gia mua bán chứng khoán, mặt khác môi
trường thông tin chưa thật sự đảm bảo cho thông tin đến với tất cả các nhà đầu tư
cùng một lúc và chuẩn xác. Việc đầu tư theo đám đông đã gây khó khăn trong việc
hoạch định chính sách và điều tiết thị trường của cơ quan quản lý và trở thành mảnh
đất màu mỡ cho các hành vi làm giá, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt…để
trục lợi. Tâm lý mua bán theo đám đông lại trở nên nặng nề hơn khi nền kinh tế bị


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
lạm phát. Mỗi khi các thông tin về việc tăng giá xăng dầu, NHNN tăng lãi suất cơ bản
hoặc chỉ số giá tiêu dùng được công bố đều nhận được phản ứng tức thời từ thị trường
chứng khoán. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài được xem là nhân tố
dẫn dắt thị trường. Động thái mua vào hoặc bán ra của họ cũng sẽ làm cho giá chứng
khoán tăng hoặc giảm theo. Nhưng từ cuối tháng 9/2008 đến nay, rất nhiều thông tin
tốt về nền kinh tế được phát đi như lãi suất cơ bản và giá xăng liên tục giảm, chỉ số
giá tiêu dùng giảm đáng kể đã không nhận được những phản ứng tích cực nào từ thị
trường và chỉ số chứng khoán cả 2 sàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều giảm.
Điều đó cho thấy nhà đầu tư Việt Nam đã không còn quan tâm đến các thông tin tốt từ
nền kinh tế trong nước nữa. Cái mà họ quan tâm là diễn biến tình hình giao dịch ở các
thị trường chứng khoán Mỹ, Anh, Nhật Bản…thế nào và sẽ có hành vi đầu tư tương
tự. Thời gian gần đây, diễn biến của các chỉ số chứng khoán Việt Nam luôn cùng
chiều với chỉ số của các thị trường trên. Vậy là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
đã chuyển hướng tâm lý đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam: từ đầu tư theo nhà đầu
tư nước ngoài ở trong nước sang đầu tư theo các “nhà đầu tư ngoài nước”. Tâm lý này
trở thành một rào cản không nhỏ cho các nỗ lực của Chính phủ nhằm vực dậy thị
trường chứng khoán. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng, khi thị trường tài chính có biến
động mạnh ở một hoặc nhiều nước phát triển, các thị trường chứng khoán toàn cầu có
độ liên thông lớn hơn rất nhiều so với thời kỳ ổn định và Việt Nam cũng không nằm

ngoài quy luật đó.
Thứ tư, tâm lý giá xuống đã làm méo mó vai trò là “phong vũ biểu” phản ánh
“sức khỏe” nền kinh tế và đe dọa tính thanh khoản của thị trường. Đó là khi, giá
chứng khoán xuống quá thấp thì người bán lại không muốn bán nhưng người mua
cũng sẽ không dám mua do vẫn còn lo sợ chứng khoán sẽ tiếp tục giảm nữa. Khi đó từ
“khủng hoảng niềm tin” thị trường sẽ chuyển sang một cuộc khủng hoảng khác nguy
hiểm hơn nhiều: khủng hoảng về tính thanh khoản.
Thứ năm, mặc dù không phải phát sinh mới đây do cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những vấn
đề khác mà trong phạm vi bài viết này nhóm chưa có điều kiện đề cập đến. Cụ thể
như các vấn đề về khung pháp lý, vai trò quản lý, giám sát của Nhà nước, tính minh
bạch của thị trường.


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
3.2 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đến thị trường
tín dụng ngân hàng ở Việt Nam
Từ việc phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất
phát từ nước Mỹ nêu trên, chúng ta có thể khẳng định là cuộc khủng hoảng này sẽ
không có tác động đáng kể đến hệ thống ngân hàng Việt Nam bởi lẽ:
Thứ nhất, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ thống
ngân hàng nói riêng với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới chưa sâu.
Các ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu làm cầu nối cung cấp dịch vụ thanh toán,
bảo lãnh và bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó,
lượng vốn của các ngân hàng Việt Nam vay trên thị trường quốc tế là không lớn nên
có thể loại trừ khả năng xuất hiện hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi ro về thanh khoản
của hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam không sở hữu các
MBS của Mỹ, do vậy không phải gánh chịu những khoản lỗ phát sinh do công cụ này
giảm giá. Mặt khác, cấu trúc của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá đơn giản, các

sản phẩm và dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, chưa có sự liên thông ở mức tinh vi
giữa TTBĐS và TTCK thông qua các công cụ phái sinh tương tự như MBS của Mỹ.
Các ngân hàng Việt Nam đầu tư vào bất động sản chủ yếu thông qua hình thức trực
tiếp là cho vay có đảm bảo bằng tài sản hoặc bằng chính bất động sản hình thành từ
vốn vay nên khả năng tạo hiệu ứng dây chuyền kiểu Mỹ khi bất động sản giảm giá là
rất khó xảy ra.
Tuy nhiên, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra nhưng không phải là không có vấn
đề. Những vấn đề mà hệ thống ngân hàng gặp phải chủ yếu phát sinh từ những yếu tố
nội tại.
Trước hết, là vấn đề mô hình của hệ thống ngân hàng. Trên thực tế, nhiều
NHTM và các công ty tài chính (CTTC) đã “không ngần ngại” đầu tư vào bất động
sản và chứng khoán đã mang lại không ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ
vào việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát thời gian qua.
Tiếp theo, là sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, đặc biệt là các CTTC. Phần lớn các CTTC đều có nguồn gốc vốn góp từ các tập
đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn. Với vai trò tạo vốn và điều hoà vốn giữa


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
các thành viên trong tập đoàn, tổng công ty, cho nên CTTC dễ dàng bỏ qua những
chuẩn mực cần thiết của hoạt động tín dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành viên,
các dự án của tập đoàn và tổng công ty. Điều này không những làm cho rủi ro tín
dụng tăng lên mà còn làm tăng nguy cơ “hiệu ứng dây chuyền” khi thị trường tiền tệ
hoặc lĩnh vực kinh doanh chính của tập đoàn, tổng công ty có biến động mạnh.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng
khá cao cũng đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ. Từ năm
2008 đến nay, nợ xấu của các tổ chức tín dụng có xu hướng tăng nhanh. Theo báo cáo
của các tổ chức tín dụng, đến ngày 31/5/2012, nợ xấu của hệ thống là 117.723 tỷ
đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín dụng. Trong đó, nợ xấu của nhóm ngân hàng

thương mại nhà nước là 54,6 ngàn tỷ đồng, chiếm 3,96% dư nợ tín dụng của nhóm
ngân hàng thương mại nhà nước; Nợ xấu của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần là
41 ngàn tỷ đồng, chiếm 4,54% dư nợ tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại cổ
phần.
Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang còn
tiềm ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm
phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng.
3.3 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đến thị trường
ngoại hối ở Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra sẽ không có nhiều tác động
trực tiếp đến hệ thống tài chính Việt Nam và đến thị trường ngoại hối của nước ta.
Thứ nhất, về dự trữ ngoại hối, trong cơn khủng hoảng tài chính NHTW đã chịu
những thiệt hại đáng kể khi mà nhiều chứng khoán loại này đã trở thành vô giá trị.
Sau khủng hoảng loại tài sản này đã bị giảm thiểu rất nhiều trong thành phần dự trữ
ngoại hối.
Thứ hai, trong thời gian qua dòng ngoại tệ đổ vào nhiều cộng với việc chính
sách tiền tệ thắt chặt làm cho tiền đồng có xu hướng tăng giá, nhưng xét về mức độ
lạm phát khác nhau giữa tiền đồng và đồng đô-la thì với tỷ giá như hiện nay, tiền
đồng đã tăng giá rất mạnh. Điều này tác động rất lớn đến hoạt động xuất khẩu, hoạt
động mà khả năng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian tới. Do vậy, trong bối
cảnh hiện tại, theo tôi, Ngân hàng Nhà nước nên tìm cách giải bài toán tỷ giá để giảm
khó khăn cho các đơn vị xuất khẩu. Đây là bài toán khó, nhưng nếu không giải nó thì


Nhóm 02 – CH19B.QLKT
hoạt động ngoại thương nói riêng, khả năng cạnh tranh cũng như kinh tế Việt Nam
nói chung sẽ ở vào vị thế rất bất lợi.
Thứ ba, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế cùng sự chênh lệch về lãi
suất tiền gửi USD trên thế giới và Việt Nam mà một số chuyên gia sự báo dòng vốn
chảy vào các nước đang phát triển, các thị trường đang lên mà trong đó có Việt Nam

sẽ giảm do “khẩu vị” về rủi ro của các nhà đầu tư đã giảm đi rất nhiều và họ có xu
hướng đầu tư vào những loại tài sản có tính an toàn cao hơn thay vì phiêu lưu mạo
hiểm như trước đây. Do vậy, sự giảm sút của dòng vốn chảy vào nhiều hơn. Nếu điều
này xảy ra cộng với chính sách tỷ giá gần như cố định hiện nay vẫn được duy trì thì
sức ép đối với đồng tiền trong nước sẽ gia tăng.
Thứ tư, sự sụt giảm đầu tư do sự giảm sút của dòng vốn từ bên ngoài chảy vào.
Nhìn vào số liệu quá khứ sẽ thấy dòng vốn từ bên ngoài gồm: vốn đầu tư trực tiếp,
vốn đầu tư gián tiếp, vay nợ và kiều hối chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn
đầu tư của Việt Nam. Với tình hình hiện tại, do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị
trường xuất khẩu có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn đầu tư chảy vào Việt Nam có
khả năng sẽ giảm sút. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI
nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư nên
khi mà các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn
sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân. Mặt khác, do phần còn lại của thế
giới gặp khó khăn, thu nhập của người lao động sẽ giảm sút, cuộc sống khó khăn hơn
nên lượng kiều hối chuyển về có khả năng sẽ giảm và hoạt động xuất khẩu bị giảm
sút.



×