Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Chức năng phối hợp của tổ chức hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.85 KB, 49 trang )

NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )

MỤC LỤC:

Page 1 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Có thể thấy rằng, tổ chức hành chính Nhà nước là một hệ thống rộng lớn
của các cơ quan hành chính, được thiết lập để thực hiện chức năng quản lý hành
chính Nhà nước. Đây là một hoạt động quản lý hết sức phức tạp, rộng lớn, đặc
thù và do vậy, để hoạt động quản lý có hiệu quả, một vấn đề hết sức cấp bách
đặt ra đó là phải tăng cường hơn nữa công tác, vai trò phối hợp giữa các cơ quan
hành chính Nhà nước trong quá trình hoạt động của mình. Phối hợp là một trong
những chức năng cơ bản của các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan hành
chính Nhà nước nói riêng, cùng với các chức năng khác như chức năng lãnh
đạo, tài chính – nhân sự, tổ chức, kiểm tra…để đảm bảo điều kiện thuận lợi nhất
cho hoạt động quản lý hành chính Nhà nước đạt hiệu lực, hiệu quả.
Tuy vậy, có một vấn đề thực tế đặt ra hiện nay đó là, mặc dù sự phối hợp
giữa các cơ quan hành chính Nhà nước đã được nhận thức, thiết lập thông qua
một số quy định cơ bản trong Hiến pháp và pháp luật, cũng như một số các văn
bản dưới luật khác, tuy nhiên trên thực tế, việc phối hợp giữa các cơ quan hành
chính Nhà nước trong quá trình hoạt động của mình vẫn còn nhiều vấn đề hết
sức phức tạp và bất cập như vấn đề phân định trách nhiệm quyền hạn của các
bên tham gia phối hợp đến đâu, hay như vấn đề trách nhiệm của các bên tham
gia phối hợp là gì, ai sẽ là cơ quan, cá nhân chịu trách nhiệm chính nếu có các
sai phạm, vấn đề phát sinh. Đó đã, đang và sẽ tiếp tục là một bài toán nan giải
và chưa có lời giải trong thời gian tới do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để có
thể làm rõ được các vấn đề trên, thiết nghĩ chúng ta phải hiểu được rõ bản chất


của sự phối hợp, các hình thức, đặc điểm, cơ chế, nguyên tắc, các yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện chức năng phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà
nước. Chính vì vậy, nhóm 4 lớp Kh12 – Nhân sự 01 đã quyết định chọn đề tài:
“Chức năng phối hợp của tổ chức hành chính Nhà nước” để tiến hành nghiên
cứu, tìm hiểu với hy vọng phần nào có thể phản ánh được chân thực nhất việc
phối hợp hiện nay giữa các cơ quan hành chính Nhà nước trong quá trình hoạt
động, quản lý của mình, để từ đó có một vài đề xuất đưa ra góp phần cải thiện
tốt hơn nữa việc phối hợp giữa các cơ quan này trong quá trình hoạt động, qua
đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính Nhà nước nói riêng và quản
lý Nhà nước nói chung.

Page 2 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN.
Để có thể nghiên cứu, tìm hiểu chức năng phối hợp trong tổ chức
hành chính Nhà nước, trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ một số khái niệm cơ
bản, cũng như các khái niệm liên quan sau đây:
1. Tổ chức.

“Tổ chức” là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau trong đó có khoa học tổ chức nhà nước. Do được nhiều ngành nghiên cứu
nên đã có không ít những định nghĩa, cách phân loại và xác định các đặc trưng
cơ bản của tổ chức được đưa ra, lý giải. Tuy vậy, một thực tế khá thú vị là hiện
vẫn chưa có sự thống nhất về nhận thức của những người làm công tác nghiên
cứu và thực tiễn về tổ chức nhà nước đối với các vấn đề trên.
Tổ chức theo từ gốc Hy Lạp ‘Organon’ nghĩa là ‘hài hòa’, từ tổ chức nói lên

một quan điểm rất tổng quát “đó là cái đem lại bản chất thích nghi với sự sống”.
Với thực tế như vậy, cần có tư duy biện chứng, kế thừa, không cứng nhắc,
máy móc, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu về khái niệm
“Tổ chức”. Với cách tư duy, tiếp cận như vậy khi tìm hiểu khái niệm chung về
tổ chức cần nằm vững một số nội dung căn bản như:
- Tổ chức là của con người trong xã hội gắn với một hình thái kinh tế - xã
hội và một kiểu nhà nước;
- Con người trong tổ chức gắn kết với nhau bởi những mục đích xác định và
hành động để đạt đến mục tiêu chung;
- Có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu xác định;
- Được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù hợp
với quy định pháp luật.
Nếu nhất thiết phải đưa ra một định nghĩa về tổ chức thì đó là tập hợp
của con người trong xã hội có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ
cấu xác định; được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất
định phù hợp với quy định pháp luật nhằm gắn kết con người với nhau bởi
những mục đích xác định và hành động để đạt đến mục tiêu chung.
2. Tổ chức hành chính Nhà nước.

Tổ chức hành chính Nhà nước là hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước
thực thi quyền hành pháp được tổ chức chặt chẽ từ Trung Ương đến địa phương
và có mối quan hệ với nhau trên cơ sở của những nguyên tắc theo luật định.
 Các tổ chức thực thi quyền hành pháp tạo nên bộ máy hành chính nhà
nước được hình thành theo quy định của pháp luật.
Page 3 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
 Tùy thuộc vào thể chế nhà nước của từng quốc gia mà việc thành lập, cơ


cấu của hệ thống các tổ chức thực thi chức năng hành pháp có nhiều dạng khác
nhau.
Trong khi đó, cơ quan hành chính được hiểu là cơ quan công sở trong hệ
thống bộ máy hành chính nhà nước mà “xét về hình thức tổ chức, là một tập hợp
có tổ chức, có phương tiện vật chất và người được Nhà nước hỗ trợ để thực hiện
nhiệm vụ của mình”. Công sở (Public Service) “là một cơ quan nhà nước có
tính chất pháp nhân công quyền, chịu trách nhiệm tiến hành một trong các hoạt
động của cơ quan nhà nước trung ương hay địa phương, với tư cách là thay mặt
cho Nhà nước, cho tỉnh, huyện, xã, và chịu sự kiểm tra của các cấp đó”.
Theo quan niệm chung trên đây, cơ quan hành chính nhà nước có thể được
hiểu bao gồm Chính phủ, UBND các cấp và các cơ quan hình thành nên cơ cấu
tổ chức của các thiết chế này như các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương.
Các cơ quan tham mưu, thừa hành pháp luật có tư cách pháp nhân trực thuộc
bộ, cơ quan ngang bộ như các cục, tổng cục giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực
được phân công cũng được coi là những cơ quan hành chính.
3. Phối hợp.

Theo nghĩa đơn giản nhất, “phối hợp” có nghĩa là tổ chức hoạt động cho hai
hoặc nhiều cơ quan, tổ chức. Khác với khái niệm hợp tác, khái niệm phối hợp
nhấn mạnh vào một quá trình kết hợp hoạt động của hai hay nhiều cơ quan, tổ
chức “một cách hài hòa và đồng bộ”, trong việc cùng nhau thực hiện công việc
vì lợi ích chung.
Dưới góc độ quản lý nói chung, phối hợp được coi là một nội dung của quá
trình quản lý: “Quá trình quản lý bao gồm chức năng dự đoán, điều tra nghiên
cứu và ra quyết định, tổ chức phối hợp, kiểm tra hoạt động hành chính hay kinh
doanh bảo đảm được mục tiêu đã định và đi đến thành công” .
Xét từ khía cạnh quản lý nhà nước, phối hợp là một phương thức, một hình

thức, một quy trình kết hợp hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để
bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức này thực hiện được đầy đủ, hiệu quả các chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt được các lợi ích chung. Nói cụ
thể hơn, phối hợp được thực hiện để xác định một cách rõ ràng những ưu tiên,
những trọng tâm trong quản lý, điều hành của bộ máy quản lý bảo đảm tính
thống nhất, minh bạch và khả năng dự đoán được của các chính sách của Chính
phủ, để các nguồn lực quản lý được sử dụng một cách hiệu quả, giảm thiểu
được những lãng phí. Phối hợp tồn tại trong suốt quá trình quản lý, từ hoạch
định chính sách, xây dựng thể chế, đến việc tổ chức thực thi cơ chế, chính sách,
pháp luật, ở đâu có quản lý thì ở đó có nhu cầu phối hợp. Mục tiêu cuối cùng
của phối hợp là tạo ra sự thống nhất, đồng thuận, bảo đảm chất lượng và hiệu
Page 4 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
quả trong quản lý. Nói khác đi, phối hợp là phương thức thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể trong quản lý nhà nước.
Trong quản lý hành chính Nhà nước, phối hợp có thể được xét trên 2
phương diện cơ bản:
Thứ nhất, theo nghĩa hẹp, phối hợp giữa các phòng ban, đơn vị thuộc cơ
quan hành chính Nhà nước để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao.
Thứ hai, theo nghĩa rộng, đó là sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị hành
chính với nhau trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý hành
chính Nhà nước.
Và trong phạm vi nghiên cứu của bài tiểu luận, nhóm sẽ tập trung đi sâu
vào phân tích chức năng phối hợp của tổ chức hành chính Nhà nước theo
nghĩa rộng “ đó là sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị hành chính với
nhau trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính
Nhà nước”.

4. Cơ chế phối hợp.

Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học năm 1998)
"cơ chế” là “cách thức theo đó một quá trình thực hiện”. Tương tự như vậy, các
tác giả của cuốn Đại từ điển Tiếng Việt cho rằng cơ chế là cách thức sắp xếp tổ
chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện.
Về phương diện khoa học, nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến khái
niệm "cơ chế”. Trong cuốn Sổ tay về phát triển, thương mại và WTO (Nxb
Chính trị quốc gia năm 2004), các nhà khoa học cho rằng “cơ chế là một
phương thức, một hệ thống các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho sự vận động
của một sự vật hay hiện tượng”(2). Một quan điểm cụ thể hơn về cơ chế được
đề cập trong cuốn Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của
Tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organization (Nxb Lao động xã hội
năm 2006). Theo các tác giả của cuốn sách này thì nói đến cơ chế bao giờ cũng
gồm hai mặt: bên ngoài (thể hiện ở cách thức tổ chức nên nó) và bên trong (sự
tổ chức và hoạt động ngay trong nội tại của sự vật, hiện tượng). Nói cách khác,
cơ chế là hệ thống các mối quan hệ hữu cơ, liên quan đến cách thức tổ chức,
hoạt động, cách thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Cơ chế là một
quá trình, một hệ thống, là tổng thể các yếu tố tạo nên sự hoạt động của sự vật,
hiện tượng(3).
Như vậy, về phương diện từ điển học và phương diện khoa học, dù cách tiếp
cận của các nhà khoa học không hoàn toàn giống nhau, nhưng có thể nhận thấy
các quan điểm này đều chỉ ra hai yếu tố cơ bản tạo thành cơ chế. Đó là: yếu
tố tổ chức (cơ cấu) và yếu tố hoạt động (vận hành). Yếu tố tổ chức đề cập đến
các thành viên (chủ thể) tham gia, cách thức hình thành tổ chức (cơ cấu) và cách
thức tổ chức hệ thống nội tại. Yếu tố hoạt động thể hiện mối quan hệ tác động
qua lại giữa các thành viên (sự phân công và hợp tác giữa các thành viên) trong
Page 5 of 49



NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của tổ chức; nguyên tắc vận hành
của cơ chế và nội dung hoạt động của nó.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội thì cơ chế là “cách thức, theo đó một quá trình được thực hiện”. Như
vậy, theo định nghĩa trên thì cơ chế là muốn đạt kết quả của một quá trình, một
công việc nào đó, người ta lập ra một hình thức tổ chức phù hợp, định ra
phương thức thực hiện quá trình, công việc đó.
Theo nghĩa đơn giản “phối hợp” có nghĩa là tổ chức hoạt động cho hai
hoặc nhiều cơ quan, tổ chức.
 Như vậy có thể nói rằng “cơ chế phối hợp” chính là phương thức
tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ được giao nhằm thực hiện mục tiêu chung.
Ví dụ thực tiễn: Thực tế quản lý cho thấy rằng, khái niệm cơ chế phối
hợp được sử dụng hết sức thường xuyên, phổ biến, trong nhiều hoạt động quản
lý khác nhau, ví dụ như khái niệm cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật
như sau:
Trong lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật, chủ thể có thẩm quyền theo
dõi việc thi hành pháp luật rất đa dạng, có thể là bất kỳ một cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào. Chủ thể có thể là cơ quan nhà nước khi được quy định trong chức
năng, nhiệm vụ của mình, có thể là các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã
hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoặc công dân. Theo quy định của Hiến pháp
1992, công dân có quyền “tham gia quản lý nhà nước và xã hội”, Nghị định số
59/2012/NĐ-CP đã cụ thể hóa quyền của các tổ chức, cá nhân, bằng quy định
tại Điều 6: “Mọi tổ chức cá nhân có quyền tham gia hoạt động theo dõi tình
hình thi hành pháp luật”. Thực tiễn triển khai công tác thi hành pháp luật trong
những năm qua cho thấy, nội dung theo dõi thi hành pháp luật thường được tập
trung xem xét, đánh giá vào các hoạt động sau:
1. Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy
phạm pháp luật;

2. Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật;
3. Tình hình tuân thủ pháp luật”.
(Điều 7 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP)
Đương nhiên, để hoạt động theo dõi thi hành pháp luật đạt được hiệu
quả, hướng tới mục tiêu chung là góp phần cho pháp luật được thực thi một
cách nghiêm chỉnh thì cần phải có một cơ chế phối hợp đồng bộ, cụ thể giữa các
cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Trên cơ đó, có thể xác định khái niệm về cơ chế phối hợp theo dõi thi
hành pháp luật như sau:
Page 6 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
 Cơ chế phối hợp theo dõi thi hành pháp luật là các phương thức
tổ chức hoạt động giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa các cơ quan
nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp và mọi công dân để xem xét, đánh giá tình hình ban hành các văn bản
quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật, tình hình bảo đảm các
điều kiện cho thi hành pháp luật và tình hình tuân thủ pháp luật nhằm bảo đảm
cho việc thi hành pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh.
5. Hình thức phối hợp.

Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
 Hình thức phối hợp là biểu hiện bên ngoài của hoạt động phối hợp, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự phối hợp.

II. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA SỰ
PHỐI HỢP GIỮA CÁC CƠ QUAN HCNN.
1. Tính tất yếu khách quan của sự phối hợp.


Sự phối hợp trong tổ chức, hoạt động của mỗi cơ quan hành chính Nhà
nước là một điều khách quan, tất yếu, điều này xuất phát từ hai cơ sở chính sau
đây:
Thứ nhất, do đặc điểm của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
-Về quy mô: Quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động quản lý mang tính
rộng lớn, là quản lý tất cả các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội – văn hóa an ninh quốc phong - đối nội, đối ngoại…..của quốc gia trên phạm vi cả nước.
-Về đối tượng quản lý: đối tượng của hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước là tất cả các tổ chức kinh tế - văn hóa – chính trị xã hội, công dân Việt
Nam ở trong nước, ở nước ngoài, người nước ngoài ở Việt Nam…trên phạm vi
cả nước.
-Về chủ thể quản lý: đó là hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nươc được
thiết lập từ Trung Ương đến địa phương, theo trình tự thủ tục, thứ bậc chặt chẽ.
- Về tính chất: Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động quản lý
mang tính chấp hành và điều hành ( sử dụng quyền lực công) và mang tính công
ích ( phục vụ lợi ích cộng đồng ).
Như vậy, có thể thấy rằng, hoạt động quản lý hành chính Nhà nước là một
hoạt động quản lý hết sức rộng lớn, phức tạp, đa dạng. Chính điều này đã, đang
và sẽ là một nhân tố quyết định đến yêu cầu phối hợp trong hoạt động quản lý
giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với nhau để đảm bảo một sự thống nhất,
đồng bộ, khách quan và hiệu quả trong quản lý hành chính Nhà nước.
Page 7 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
Thứ hai: Xuất phát từ đặc điểm của tổ chức hành chính Nhà nước.
- Tổ chức hành chính nhà nước được thiết lập trên phạm vi cả nước, từ
Trung Ương đến địa phương.
- Tổ chức hành chính Nhà nước mang tính thứ bậc chặt chẽ, tính hệ thống rõ
ràng.

- Mang tính phân công lao động và chuyên môn hóa cao.
Do đó, đòi hỏi đặt ra đối với tổ chức hành chính Nhà nươc, đó là giữa
các cơ quan thuộc tổ chức hành chính Nhà nước phải có sự phối hợp trong quá
trình hoạt động để đảm bảo hiệu quả quản lý cả theo chiều rộng và theo chiều
sâu, có sự phối hợp giữa cấp trên và cấp dưới, giữa Trung Ương và địa phương,
giữa cơ quan thẩm quyền chung và cơ quan thẩm quyền riêng để đảm bảo hoạt
động quản lý đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ ba: Xuất phát từ yêu cầu của thực tế.
- Phối hợp để đảm bảo yêu cầu của quản lý nói chung và quản lý hành chính
Nhà nước nói riêng.
- Chống sự tham quyền, lạm quyền, độc quyền của các cơ quan hành chính
Nhà nước.
- Xóa bỏ tinh thần địa phương chủ nghĩa, cục bộ vùng miền.
- Phù hợp với xu thế chung của khu vực và thế giới.
2. Đặc điểm sự phối hợp trong tổ chức Hành chính Nhà nước.

- Phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước được thực hiện dưới
nhiều cấp độ khác nhau như: Phối hợp giữa thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, phối
hợp giữa các phòng ban, đơn vị thuộc các cơ quan, phối hợp giữa các nhóm
chuyên gia thuộc các đơn vị… Tùy thuộc vào yêu cầu của sự phối hợp mà mức
độ phối hợp là khác nhau.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện chức
năng quản lý phải tuân thủ theo các quy định chặt chẽ của pháp luật, tuân theo
các trình tự thủ tục được quy định rõ ràng, cụ thể.
- Phạm vi phối hợp không vượt quá chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các bên tham gia vào sự phối hợp.
- Phối hợp giữa các cơ quan hành chính có sự kết hợp chặt chẽ các hình
thức, phương thức phối hợp với nhau, tạo nên sự đa dạng, linh hoạt trong thực
hiện các quan hệ công tác giữa các cơ quan, đơn vị trong hệ thống.
- Bảo đảm tính khách quan trong quá trình phối hợp.

- Bảo đảm yêu cầu về chuyên môn, chất lượng và tiến độ thời gian trong
quá trình phối hợp.
Page 8 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
- Bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động phối hợp; đề cao trách nhiệm
cá nhân của Thủ trưởng cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp và cán bộ, công chức
được tham gia phối hợp.

III. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CHỨC NĂNG PHỐI HỢP.
1. Khái niệm

Theo cách hiểu chung nhất thì cơ sở pháp lý của hoạt động phối hợp
chính là căn cứ mà mọi chủ thể phải tuân theo khi tiến hành hoạt động phối hợp
để đảm bảo đúng pháp luật và phù hợp với quy luật khách quan.
2. Sự cần thiết phải dựa trên căn cứ pháp lý khi phối hợp.

- Xuất phát từ nguyên tắc hoạt động của tổ chức HCNN: mọi hoạt động của
tổ chức đều phải dựa trên pháp luật và tuân thủ đúng những quy định của pháp
luật. Phối hợp là hoạt động cơ bản của tổ chức, phối hợp dựa trên pháp luật sẽ
đảm bảo sự thống nhất giữa các cơ quan trong toàn bộ máy và đảm bảo hiệu quả
hoạt động của toàn bộ máy đó.
- Phối hợp phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của quản lý. Quản lý cần
phải có sự phối hợp hiệu quả để đạt mục tiêu mà tổ chức đặt ra.
3. Căn cứ pháp lý.

3.1. Căn cứ chung, khái quát
• Ở một số nước trên thế giới: Hầu hết các nước như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Trung
quốc... đều không có những quy định cụ thể về cơ chế phối hợp của tổ chức

hành chính nhà nước mà chỉ đề cập một cách chung chung mà thôi hoặc nếu có
thì được đan xen trong hoạt động chỉ đạo, điều phối, kiểm tra. Ví dụ:
- Hiến pháp nước Cộng hòa Liên bang Nga tại điều 10: Quyền lực nhà nước
Liên bang Nga được thực thi trên cơ sở phân chia quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau.
- Điều 3 Hiến pháp nước CHND Trung Hoa:
- Các cơ quan nhà nước CHND Trung Hoa được tổ chức và hoạt động dựa
trên nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Sự phân cấp chức năng, quyền hạn của cơ quan nhà nước ở trung ương và
địa phương phải tuân theo sự lãnh đạo thống nhất từ trung ương dựa trên
nguyên tắc phát huy đầy đủ tính chủ động và tích cực của địa phương.
Page 9 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
- Ở Việt Nam:
- Khoản 2 điều 3 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2013: Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Bộ máy hành chính nhà nước hoạt quản lí theo pháp luật và bằng luật
nền hành chính dân chủ phải là nền hành chính quán triệt sâu sắc và thể hiện
đầy đủ nguyên tắc nhà nước pháp quyền, một nền hành chính như vậy phải thực
thi có hiệu lực quyền hành pháp trong khuôn khổ quyền lực nhà nước.
- Khoản 8 điều 96 Hiến pháp nước CHXHCNVN sửa đổi mới nhất quy
định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ: Phối hợp với Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội
trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Theo Luật tổ chức Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm
trong việc chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; quyết
định những vấn đề có ý kiến khác nhau giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan

ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương(điểm d khoản 1 điều 20).
- Khoản 4 điều 20 Luật tổ chức Chính phủ về nhiệm vụ của Thủ tướng:
Thành lập hội đồng, ủy ban thường xuyên hoặc lâm thời khi cần thiết để giúp
Thủ tướng nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng,
liên ngành.
- Điều 9 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: Trong
hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân
phối hợp chặt chẽ với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác chăm lo và bảo vệ
lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước và
thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Thực tế hiện nay pháp luật Việt Nam thiếu vắng những quy định cụ thể
về phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan hành chính nhà nước. Cho đến
nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật đề cập công tác phối hợp bên
trong tổ chức hành chính nhà nước.
3.2. Căn cứ cụ thể.
Phối hợp thực hiện dưới nhiều cách thức khác nhau. Hoạt động của tổ chức
hành chính trải rộng trên nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng lớn, do đó phối hợp
Page 10 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
được thực hiện dưới nhiều cấp độ, hình thức, cơ chế và kết hợp nhiều ngành
lĩnh vực khác nhau. Trong từng cơ quan hành chính nhà nước cũng có sự phối
hợp giữa các bộ phận, đơn vị mà chủ yếu dựa trên quy chế hoạt động, quy chế
phối hợp của cơ quan, đơn vị đó.
Ở Việt Nam hiện nay không có Luật hay bộ Luật nào quy định cụ thể về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, phương thức phối hợp giữa các cơ

quan hành chính Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng quản lý hành
chính của mình, mà theo đó sự phối hợp giữa các cơ quan này trong việc thực
hiện chức năng quản lý sẽ được quy định tại các điều chi tiết trong các Luật, Bộ
luật khác nhau thuộc nhiều cấp, ngành, lĩnh vực khác nhau hoặc sẽ có quy đinh
cụ thể khi xuất hiện các vấn đề cần sự phối hợp nhiều bên trong quá trình quản
lý hành chính Nhà nước.

IV. HÌNH THỨC-CƠ CHẾ-NỘI DUNG PHỐI HỢP.
Khái niệm: Đã phân tích ở phần I – Các khái niệm.
1. Phân loại các hình thức phối hợp.

Phối hợp là hoạt động cơ bản để quản lý tổ chức. Muốn quản lý tốt cần
nắm rõ từng hoạt động cụ thể, do đó việc phân loại các hình thức phối hợp sẽ
giúp các nhà quản lý có cách nhìn toàn diện đa chiều về bản chất cũng như
hiệu quả của từng loại phối hợp, từ đó tiến hành những hoạt động phù hợp
nhằm đạt mục tiêu mà tổ chức đề ra. Dựa trên mục đích nghiên cứu, có thể
phân loại hình thức phối hợp theo các tiêu chí dưới đây:
1.1. Phân loại theo tính khép kín của hoạt động phối hợp.
1.1.1. Phối hợp bên trong.
Là hình thức phối hợp cơ bản, phổ biến trong quản lý hành chính ở địa
phương. Các cơ quan quản lý có thẩm quyền ở địa phương dựa vào các quy
định của pháp luật ban hành quy chế hoạt động trong hệ thống hành chính địa
phương trong đó quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức, cá nhân;
mối quan hệ công tác giữa các cá nhân, các đơn vị, bộ phận trong toàn hệ thống.
- Đặc điểm:
+ Hoạt động phối hợp mang tính khép kín: các chủ thể tham gia là các cơ
quan hành chính Nhà nước thực hiện chức năng quản lý theo ngành hoặc theo
lãnh thổ ở các cấp Trung Ương và địa phương.
Page 11 of 49



NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
+ Mang tính chấp hành, thừa hành, triển khai các quy định pháp luật của các
cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung Ương vào thực tiễn.
+ Là hình thức phối hợp phổ biến, chủ yếu trong quản lý hành chính Nhà
nước ở địa phương.
- Ưu điểm:
+ Việc phối hợp được tiến hành một cách dễ dàng, thuận lợi do các bên
tham gia đều là các cơ quan hành chính Nhà nước, do đó họ sẽ cùng có quyền
lực công, có quyền hạn trách nhiệm do pháp luật quy định, có hiểu biết về pháp
luật, cũng như là hiểu rõ được các nguyên tắc, yêu cầu, quy định của pháp luật
trong hoạt động quản lý nói chung và trong hoạt động phối hợp hoạt động quản
lý nói riêng.
+ Bảo đảm được tính bí mật trong hoạt động quản lý Nhà nước, đặc biệt là
với các hoạt động phối hợp trong các lĩnh vực liên quan đến bí mật quốc gia, an
ninh, quốc phòng, ví dụ như phối hợp giữa Bộ Công An với Bộ Quốc phòng
trong việc phòng chống khủng bố, diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch, hay như phối hợp giữa UBND các tỉnh với Chính phủ trong
việc triển khai chương trình 134 và 135 về việc hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở
và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn từ
năm 2004.
+ Tạo nên tính thông nhất trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước từ
Trung Ương đến địa phương, góp phần đưa các chính sách pháp luật của Nhà
nước đi vào thực tiễn.
+ Kinh phí cho hoạt động phối hợp thấp do các bên tham gia phối hợp đều
là các cơ quan hành chính Nhà nươc, họ đều đã có sẵn các nguồn lực về nhân
lực, vật lực do đó sẽ tiết kiệm được chi phí đào tạo, triển khai trong quá trình
phối hợp.

+ Tạo nhiều thuận lợi cho việc thiết lập cơ chế trao đổi thông tin thông

suốt( nhanh chóng, kịp thời, tương tác, trao đổi thường xuyên) và góp phần
nâng cao hiệu quả giao tiếp trong tổ chức.
- Nhược điểm:
+ Do các bên tham gia đều có quyền lực công, đều có vai trò trách nhiệm do
pháp luật quy định, do đó sẽ rất dễ nảy sinh tâm lý cả hai bên đều cho rằng mình
có vai trò quan trọng hơn, có quyền lực hơn, nên dễ gây nên bất đồng trong quá
trình phối hợp.
+ Dễ nảy sinh tiêu cực như tham nhũng, hối lộ, che dấu bao che trách nhiệm
do cả hai bên tham gia phối hợp đều là các cơ quan Nhà nước, mà không hề có
sự giám sát, kiểm tra và tham gia của các tổ chức phi Nhà nước như các đoàn,
hội, tổ chức chính trị - xã hội….
Ví dụ về phối hợp bên trong:
Page 12 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
- Phối hợp giữa Bộ Tư pháp và văn phòng Chính phủ trong công tác theo
dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh với các
nội dung phối hợp sau:
1. Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục văn bản quy
định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh sau khi được Quốc hội, Ủy ban thường vụ
ban hành.
2. Trao đổi, cung cấp thông tin về tình hình thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ
được giao, tham gia tháo gỡ khó khăn, vướng mắc mới phát sinh.
3. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc ban hành văn bản quy định chi tiết luật,
pháp lệnh của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
4. Xây dựng các Báo cáo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tình hình
ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh.
5. Đăng tải tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành
luật, pháp lệnh trên cổng thông tin điện tử của Chính phủ.

- Phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước trong xây dựng và kiểm
tra việc thực hiện chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch theo Nghị định
Số: 144/2005/NĐ-CP của Chình Phủ Quy định về công tác phối hợp giữa các cơ
quan hành chính nhà nước trong xây dựng và kiểm tra việc thực hiện chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
1.1.2. Phối hợp bên ngoài.
Là hình thức hoạt động mang tính hướng ngoại nhằm thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ được giao. Đây là sự phối hợp thực hiên công việc phát sinh
giữa các cơ quan, bộ phận không nằm trong nội bộ với nhau.
- Đặc điểm:
+ Các bên tham gia phối hợp không nằm trong cùng một hệ thống.
+ Các bên tham gia phối hợp với vị thế khác nhau: trong đó một bên ( các
cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính Nhà nước ) mang trong mình quyền
lực công, có trách nhiệm, quyền hạn cụ thể do pháp luật quy định, một bên ( các
tổ chức năm ngoài hệ thống hành chính Nhà nước ) thì không có các đặc điểm
đó.

- Ưu điểm:
+ Thu hút, huy động sự tham gia của xã hội, các nguồn lực xã hội vào thực
hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước.
+ Tăng cường sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, các đoàn thể xã hội đối
với các chính sách quản lý của Nhà nước.
Page 13 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
+ Tăng cường sự công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý hành chính,
qua đó phần nào phòng chống được các hiện tượng như tham nhũng, hối lộ,
nhóm lợi ích.
+ Góp phần thực hiện dân chủ hóa, phát huy sức mạnh, vai trò của nhân dân

trong quá trình tham gia vào các hoạt động quản lý Nhà nước nói chung và quản
lý hành chính Nhà nước nói riêng.
+ Đa dạng hóa các hình thức quản lý hành chính Nhà nước, theo đó các cơ
quan hành chính có thể một số giao nhiệm vụ quản lý hành chính cho một số tổ
chức như Mặt trận Tổ quốc, Hội liên hiệp phũ nữ…trong một số trường hợp,
khía cạnh quản lý mà pháp luật cho phép.
- Nhược điểm:
+ Hiệu quả phối hợp đem lại nhiều khi chưa cao do sự tham gia của các tổ
chức nằm ngoài hệ thông hành chính chỉ mang tính hình thức.
+ Các tổ chức bên ngoài hệ thống hành chính do không mang quyền lực
công, chất lượng nguồn lực chưa cao, ít hiểu biết về nguyên tắc, quy trình quản
lý hành chính Nhà nước nên sẽ gây ra những bất lợi, khó khăn trong quá trình
phối hợp với các cơ quan nằm trong hệ thông hành chính Nhà nước.
+ Có nguy cơ làm lộ các thông tin bí mật quốc gia trong quá trình phối hợp
nếu khâu bảo vệ, chia sẻ thông tin không đúng theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: - Phối hợp công tác giữa Ủy ban nhân dân tỉnh và Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trong công tác thanh niên.
- Phối hợp giữa HĐND các cấp với Mặt trận Tổ quốc các cấp trong
việc giới thiệu ứng viên HĐND, ứng củ viên đại biểu Quốc Hội.
- Phối hợp giữa UBND xã với Hội liên hiệp phụ nữ xã trong việc
tuyên truyền, vận động Kế hoạch hóa gia đình.

1.2. Phân loại theo tính chất tự nguyện của hoạt động phối hợp.
1.2.1. Phối hợp tự nguyện.
Đây là sự phối hợp xuất phát hoàn toàn tự sự nhận thức của các cơ quan, tổ
chức hành chính Nhà nước về sự cần thiết đạt được sự thống nhất, đồng thuận
chung trong hoạt động mà không phải chịu sự ràng buộc nào hoặc một sự chi
phối nào về mặt thể chế hoặc một áp đặt, ép buộc của bất cứ một cơ quan nào
đó.
- Đặc điểm:

Page 14 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
+ Sự phối hợp mang tính tự nguyện hoàn toàn để đảm bảo hoàn thành hoặc
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên tham gia phối hợp.
+ Sự phối hợp diễn ra hết sức linh hoạt, chủ động do hai đều hoàn toàn tự
nguyện và không hề có sự quy định bắt buộc từ phía pháp luật.
+ Thường được tiến hành trong hoạt động quản lý mang tính sự vụ, đơn
giản hoặc có quy mô nhỏ.
- Ưu điểm:
+ Dễ thực hiện và hiệu quả phối hợp đem lại thường cao do cả hai bên đều
hoàn toàn tự nguyện phối hợp với nhau.
+ Đơn giản do không cần có các quy chế, quy định từ phía pháp luật.
+ Linh hoạt, chủ động, phát huy được tinh thần sáng tạo của các bên tham
gia phối hợp.
Nhược điểm:
+ Không quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các bên tham gia phối hợp
nên gây khó khăn khi đánh giá kết quả phối hợp.
+ Sự phối hoạt thường xuất phát từ ý muốn chủ quan của các cơ quan, tổ
chức hành chính Nhà nước nên trong nhiều trường hợp là chưa phù hợp với
thực tiễn, với quy định của pháp luật, với nhu cầu quản lý.
Ví dụ: Việc phối hợp tự nguyện thể hiện rất rõ trong việc các Bộ quản lý
ngành, lĩnh vực phối hợp với nhau trong việc ban hành các thông tư liên tịch.
Ví dụ Thông tư liên tịch Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp Số: 14/2014/TTLTBTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí
ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và
chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.
+ Thông tư liên tịch Bộ Tư pháp - Tòa án Nhân dân tối cao - Viện kiểm sát
Nhân dân tối cao - Bộ Tài chính Số: 09/2014/TTLT-BTP-TANDTCVKSNDTC-BTC Hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo
Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội.

1.2.2. Phối hợp bắt buộc.
Đây là sự phối hợp được quy định về mặt thể chế, trong đó các cơ quan
buộc phải tuân thủ yêu cầu phối hợp của một cơ quan khác. Sự phối hợp bắt
buộc có thể được chia làm hai loại. Một loại, đó là sự phối hợp giữa các cơ quan
cùng cấp với nhau để giải quyết những công việc thường xuyên thuộc chức
năng, thẩm quyền của nhau trong khuôn khổ thể chế được quy định. Loại khác
là sự phối hợp dưới sự chi phối của bên thứ ba nhằm giải quyết những vấn đề
mà sự phối hợp bình thường giữa các cơ quan không tự giải quyết được hoặc
những vấn đề phức tạp vượt quá thẩm quyền và khả năng nguồn lực của một cơ
quan. Bên thứ ba ở đây có thể là Văn phòng Chính phủ (thực hiện chức năng
giúp Thủ tướng Chính phủ điều phối các hoạt động chung của Chính phủ) hoặc
Page 15 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
là Thủ tướng Chính phủ (trực tiếp giải quyết hoặc thành lập các tổ chức tư vấn,
phối hợp liên ngành theo quy định tại khoản 4 Điều 20 Luật Tổ chức Chính phủ
2001 để giúp mình giải quyết). Loại phối hợp này có thể gọi là “siêu phối hợp”.
- Đặc điểm:
+ Sự phối hợp mang tính chất quy định của pháp luật, bắt buộc các tổ chức
dù có muốn hay không vẫn phải thực hiện để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
+ Việc phối hợp bắt buộc thường được áp dụng với các vấn đề quản lý mang
tính chất phức tạp, thiết yếu liên quan đến nhiều cấp, ngành, nhiều cơ quan tổ
chức khác nhau.
- Ưu điểm:
+ Việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan, tổ chức
tham gia phối hợp là hết sức rõ ràng, cụ thể do đó tạo điều kiện cho việc đánh
giá kết quả phối hợp, cũng như việc xử lý vi phạm, trách nhiệm ( nếu có ) sau
này.

+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức tham gia phối hợp trong
việc giải quyết các hoạt động quản lý phức tạp.
+ Do là sự phối hợp mang tính chất bắt buộc nên các cơ quan tham gia phối
hợp sẽ có tinh thần trách nhiệm, ý thức tham gia phối hợp tốt hơn so với hình
thức phối hợp tự nguyện.
- Nhược điểm:
+ Các quy định, cơ chế về phối hợp thường máy móc, cứng nhắc, nhiều khi
không phù hợp với thực tế quản lý hành chính Nhà nước.
+ Do quy định cụ thể các vấn đề phải phối hợp, nên đối với những vấn đề
ngoài quy định các cơ quan sẽ hết sức bị động trong việc phối hợp.
Ví dụ về phối hợp bắt buộc:
- Tại điều 53 Luật Tổ chức Hôi đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năn 2003 có
quy định rõ mối quan hệ phối hợp giữa Thường trực HĐND và các cơ quan
khác như sau:
8. Phối hợp với Uỷ ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân
hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Ban
thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
9. Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cùng cấp lên Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp mình lên Uỷ ban thường
vụ Quốc hội và Chính phủ;
10. Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban thường trực Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; mỗi năm hai lần thông báo cho Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của Hội đồng nhân dân”.
Page 16 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
- Tại điều 8 Luật Của Quốc hội số 32/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm

2001 về Tổ chức Chính phủ quy định Chính phủ có nhiệm vụ, trách nhiệm:
Phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Ban chấp hành trung ương của đoàn thể
nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để
các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
1.3. Các cách phân loại phối hợp khác.
1.3.1. Tổ chức cuộc họp.
Phối hợp thông qua các hình thức họp giao ban, định kỳ hoặc đột xuất, diễn
ra liên tục trong các cơ quan, đơn vị theo một khoảng thời gian nhất định như
tuần, tháng, quý , năm...Thông qua cuộc họp tiến hành đánh giá , rút kinh
nghiệm và đưa ra các phương hướng nhiệm vụ thời gian tới.
- Đặc điểm:
+ Sự phối hợp hết sức linh hoạt, khi cần thiết đều có thể triệu tập các cuộc
họp.
+ Là hình thức phối hợp cơ bản, được nhiều cơ quan, tổ chức áp dụng.
- Ưu điểm:
+ Đơn giản, dễ thực hiện, trực quan, sinh động do hai hoặc các bên tham gia
phối hợp được gặp gỡ trực tiếp để trao đổi, đánh giá tiến độ, hiệu quả của sự
phối hợp để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, cũng như thiết lập định hướng
phối hợp tiếp theo trong quá trình hoạt động.
+ Có thể áp dụng với nhiều mức độ phối hợp khác nhau, từ phối hợp trong
các vấn đề nhỏ đến các vấn đề rộng lớn mang tính chất liên nghành, liên cấp.
- Nhược điểm:
+ Nhiều cuôc họp chỉ mang tính chất hình thức, hiệu quả đem lại không cao.
+ Đòi hòi phải có khả năng điều hành, tổ chức các cuộc họp từ phía các bên
tham gia phối hợp.
+ Nếu các bên tham gia phối hợp ở các cấp, các ngành, các địa phương khác
nhau, khi đó việc tiến hành các cuộc họp thường xuyên sẽ gây khó khăn trong
việc triệu tập họp, đi lại, thời gian…Mặc dù điều này có thể giải quyết bằng
hình thức họp trực tuyến được, nhưng bản thân hình thức đó cũng có một số hạn

chế như chi phí cao, không thể biết được thái độ, ý kiến của các bên tham gia
phối hợp.
Ví dụ: - Kì họp Hội đồng nhân dân diễn ra 2 kì/năm, được triệu tập bởi
thường trực Hội đồng nhân dân. Kì họp là hoạt động quan trọng và thường
xuyên nhất của Hội đồng nhân dân, là nơi thể hiện tập trung nhất quyền lực
Nhân dân và là nơi thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng thuộc thẩm
quyền của Hội đồng nhân dân. Kì họp làm việc tập thể và quyết định theo đa số
Page 17 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
(hơn 50%) trừ việc bãi nhiệm, miễn nhiệm đại biểu giữ chức trách do Hội đồng
bầu ra là cần 2/3 số người tán thành.
- Quốc hội Việt Nam họp thường lệ mỗi năm 2 kỳ do Uỷ ban thường vụ
Quốc hội triệu tập. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể triệu tập phiên họp bất
thường theo quyết định của mình, hoặc khi Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính
phủ hoặc khi có ít nhất 1/3 tổng số Đại biểu Quốc hội yêu cầu. Các cuộc họp
của Quốc hội đều công khai, một số được truyền hình trực tiếp, phát sóng toàn
quốc và ra nước ngoài. Quốc hội Việt Nam cũng có thể họp kín theo đề nghị của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít
nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội. Thành viên của Chính phủ không phải là đại
biểu Quốc hội được mời tham dự các phiên họp toàn thể của Quốc hội. Đại diện
cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cơ quan báo
chí, công dân và khách quốc tế có thể được mời dự các phiên họp công khai của
Quốc hội.
1.3.2. Thành lập tổ chức phối hợp.
Hình thức này áp dụng khi cần giải quyết một sự kiện, một công việc đòi
hỏi có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp.Có thể mang tính thời vụ hoặc
thường xuyên, lâu dài.
Ví dụ: Theo sự phối hợp có thể hình thành các tổ chức cùng nhau phối hợp

để triển khai các nhiệm vụ cụ thể về một vấn đề nào đó trong xã hội như thành
lập Ban chỉ đạo phòng chống HIV/AIDS; Ban chỉ đạo phòng chống dịch cúm
gia cầm; Ban phòng chống thiên tai,lũ lụt , ban chỉ đạo phòng chống khủng bố,
ban chỉ đạo Trung Ương về chương trình 134 và 135…..
2. Các cơ chế phối hợp.

Khái niệm: Đã phân tích ở phần I
2.1. Phối hợp dọc.( phối hợp trong hệ thống ).
Khái niệm: Đây là cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước
cấp trên với các cơ quan hành chính Nhà nước cấp dưới trực tiếp hoặc ngược lại
để đảm bảo chức năng quản lý hành chính. Cơ chế phối hợp dọc có hai loại:
- Phối hợp dọc xuôi: Sự chỉ đạo điều hành của cơ quan hành chính Nhà
nước cấp trên với cơ quan cấp dưới trực tiếp, để đảm bảo sự phối hợp của cơ
quan cấp dưới trong việc thực hiện chính sách, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình
quản lý hành chính Nhà nước.
- Phối hợp dọc ngược: Là sự phối hợp của cơ quan hành chính Nhà nước
cấp dưới với cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp, trong đó cơ quan hành chính
Nhà nước cấp dưới cần sự chỉ đạo, điều hành, cần xin ý kiến, chủ trương, ngân
Page 18 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
sách…của cơ quan hành chính cấp trên trong việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan mình.
Đặc điểm:
- Đây là sự phối hợp được quy định về mặt thể chế trong đó cơ quan cấp
dưới thực hiện sự phối hợp với cơ quan cấp trên để nâng cao hiệu quả của hoạt
động quản lý hành chính nhà nước thông qua sự điều khiển về cách thức phối
hợp phụ thuộc vào mệnh lệnh ý chí của người quản lý cấp trên.
- Trong cơ chế phối hợp này không cân bằng về mặt quyền lực giữa các bên

tham gia vào quan hệ phối hợp. Mỗi một cơ quan hành chính nhà nước khi được
thành lập đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trao cho các chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn nhất định nhưng đều có mục đích chung là đảm bảo nâng
cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước, ổn định về chính trị và
phát triển nhà nước về mọi mặt. Mà muốn làm tốt được điều đó thì cần phải có
sự phối hợp thực hiện các chính sách, pháp luật thống nhất từ trung ương tới địa
phương. Các cơ quan nhà nước cấp trên sẽ đề ra các chính sách, chỉ đạo cách
thức thực hiện sự phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp dưới để thực hiện
những nhiệm vụ nhà nước giao một cách hiệu quả nhất.
- Là một trong các phương thức tổ chức hoạt động mà các cơ quan hành
chính trung ương và địa phương đều vận dụng để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung.
- Là cơ sở để các cơ quan hành chính cấp trên căn cứ ra các quyết định quản
lý, để những chính sách pháp luật của nhà nước được đưa vào thực tế
Được thực hiện trong mối quan hệ theo chiều dọc giữa các cơ quan hành
chính nhà nước có mối quan hệ theo chiều trực thuộc từ Chính Phủ -> UBND
tỉnh –> UBND huyện –> UBND xã.
- Trong quá trình phối hợp có sự thống nhất từ trên xuống đưới, sự phụ
thuộc mang tính thứ bậc giữa các cơ quan.
- Các cơ quan hành chính cấp trên chỉ đạo, lãnh đạo,kiểm tra, giám sát mọi
hoạt động của cơ quan hành chính cấp dưới trong hoạt động của bộ máy hành
chính, sự chỉ đạo đó có thể là trực tiếp hoặc không trưc tiếp giữa các cơ quan
hành chính.
- Ý chí của các cơ quan hành chính cấp trên được áp đặt cho các cơ quan
hành cấp dưới, sự phối hợp theo chiều dọc là một hành trình đi từ lý thuyết ( các
chính sách, kế hoạch, dự án..) đến thực tế ( áp dụng vận dụng vào đồi sống hàng
ngày).
- Mối quan hệ chấp hành - điều hành được thiết lập trong sự phối hợp để
thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp
dưới.

Page 19 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
- Sự phối hợp theo chiều dọc giữa các cơ quan hành chính nhà nước được
thực hiện dựa trên cơ sở các quy định của quy chế làm việc, theo đó quy trình
thủ tục phối hợp được quy chế hóa cụ thể thể hóa và chặt chẽ giữa cơ quan hành
chính cấp trên và cấp dưới.
- Phạm vi phối hợp giới hạn trong chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan cấp trên với cơ quan cấp dưới.Đây là mối quan hệ giữa các cơ quan quản
lý hành chính nhà nước thẩm quyền chung cấp trên và cấp dưới (giữa Chính phủ
với Ủy ban Nhân dân các cấp).
2. Ưu điểm.
- Phát huy được tính thứ bậc chặt chẽ của hệ thống hành chính nhà nước từ
Chính Phủ đến UBND các cấp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
- Sự chỉ đạo, điều hành phát huy được tinh thần trách nhiệm của các cơ quan
khi sự phối hợp được thực hiện tốt hiệu quả.
- Tạo ra sự thống nhất trong quản lý điều hành, dễ dàng đạt hiệu quả quản
lý hơn.
- Tránh sự lấn sân, chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ.
3. Nhược điểm.
- Cơ chế này cho thấy sự phụ thuộc của cấp dưới với cấp trên hay nói cách
khác cấp dưới chịu sự chi phối cuả cấp trên trong cách phối hợp và cách thức
thực hiện sự phối hợp. Các cơ quan cấp dưới sẽ phối hợp một cách bị động
không phát huy được khả năng sáng tạo của mình trong mối quan hệ phối hợp
đó dẫn đến hiệu quả của mục đích phối hợp không cao vì giữa các cấp cơ quan
có những đặc điểm riêng. Có sự phân cấp bậc trong cơ chế phối hợp chịu sự
thực hiên mệnh lệnh của cấp trên. Để đạt được hiệu quả trong sự phối hợp này
thì các cấp trên cần phải lắng nghe ý kiến đóng góp của cấp dưới để có những
phương pháp phối hợp hiệu quả và hợp lý nhất.

- Dễ gây ra hiện tượng quan liêu vì sự phối hợp thường chỉ diễn ra giữa các
cơ quan chịu sự quản lý trực tiếp, mà việc đi từ lý thuyết đến thực tế lại là cả
một quãng đường dài qua nhiều tầng bậc.
- Dế gây ra sự lệ thuộc của các cấp dưới vào cấp trên ,ỷ lại vào sự chỉ đạo
của cấp trên mà không tạo ra sự chủ động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
do vậy mà kết quả công việc sẽ không cao.
- Theo hệ thứ bậc quyền lực từ trên xuống dưới có thể gây nên sự cứng nhắc
trong hoạt động, không linh hoạt, không sẵn sàng ra quyết định một cách linh
hoạt mỗi khi có yêu cầu mới phát sinh đòi hỏi giải quyết vấn đề một cách nhanh
nhạy. Thậm chí, có thể có nguy cơ tạo nên thái độ đùn đẩy hay dựa dẫm giữa
các cấp độ khác nhau trong toàn bộ tổ chức.

Page 20 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
- Trong nhiều trường hợp, cơ cấu kiểm soát chặt chẽ từ trên xuống dưới
cũng tạo nên tâm lý căng thẳng và có thể cả đụng độ giữa người giám sát và
những người dưới quyền.
2.2. Phối hợp ngang ( phối hợp trong hệ thống ).
Khái niệm: Đây là cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước
không nằm trong quan hệ cấp trên – cấp dưới trong quá trình quản lý hành chính
Nhà nước, đó có thể là sự phối hợp giữa các bộ với nhau, giữa cơ quan thẩm
quyền chung với các cơ quan thẩm quyền riêng, giữa các UBND cùng cấp với
nhau ( ví dụ UBND xã A với UBND xã B ).
Đặc điểm:
- Là sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước không nằm trong
quan hệ cấp trên – cấp dưới.
- Phạm vi phối hợp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi
cơ quan được giao.

- Các bên tham gia phối hợp không có sự trực thuộc trưc tiếp về mặt quyền
lực, họ ngang hàng với nhau, do đó, cơ chế, sự phối hợp giữa hai bên trong phần
lớn trường hợp là do hai bên tự xác định.
- Phần lớn sự phối hợp này là tự nguyện, xuất phát từ yêu cầu quản lý.
Ưu điểm:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tham gia phối hợp trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý của minh, góp phần giúp mỗi cơ quan hoàn
thành nhiệm vụ của mình, đồng thời cũng góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
hành chính Nhà nước nói chung.
- Sự phối hợp giữa các bên tham gia là hết sức linh hoạt, chủ động, có thể có
sự tham gia của các bên ở nhiều lĩnh vực, cấp, nghành khác nhau.
- Phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan quản lý hành chính
Nhà nước.
Nhược điểm:
- Cơ chế phối hợp giữa các bên tham gia phối hợp đôi khi còn lỏng lẻo, dẫn
đến khó có thể quy trách nhiệm cho ai nếu như việc phối hợp không đem lại
hiệu quả.
- Dễ dẫn đến việc phối hợp tràn lan, vô tổ chức để chuyển trách nhiệm quản
lý của cơ quan mình cho cơ quan khác.

Page 21 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
2.3. Phối hợp mạng lưới nhiều thiết chế khác nhau và nhiều cơ quan, tổ
chức khác nhau ( phối hợp trong và ngoài hệ thống ).
Khái niệm: Đây là cơ chế phối hợp giữa nhiều thiết chế, cơ quan, tổ chức
khác nhau như Mặt trận Tổ quốc và các thành viên, các hội, đoàn, các công ty,
tổ chức phi chính phủ, các cơ quan tư pháp…với các cơ quan thuộc hệ thống
hành chính Nhà nước để góp phần thực hiện tốt chức năng quản lý của các cơ

quan hành chính Nhà nước.
Đặc điểm:
- Có sự tham gia của nhiều loại hình cơ quan, tổ chức khác nhau.
- Phạm vi phối hợp của cơ chế phối hợp này thường rất rộng liên quan đến
nhiều thiết chế, tổ chức, lĩnh vực khác nhau.
- Đây là sự phối hợp giữa một bên có quyền quản lý hành chính Nhà nước
và một bên không có quyền quản lý hành chính Nhà nước, hay nói khác đi, mối
quan hệ quyền lực giữa hai bên là khác nhau.
Ưu điểm:
- Thu hút được sự tham gia của nhiều thiết chế, loại hình tổ chức khác nhau
vào việc góp phần thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước.
- Đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, toàn diện khi thực hiện quản lý của các
cơ quan hành chính.
- Đảm bảo sự đồng thuận, phối hợp của các tầng lớp nhân dân trong việc
thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Nhược điểm:
- Cơ chế phối hợp giữa các bên thường không được pháp luật quy định một
cách chặt chẽ, do đó dễ dẫn đến sự phối hợp một cách vô tổ chức, không đem
lại hiệu quả.
- Khó xác định được các bên có trách nhiệm nếu có những sai phạm xảy ra
khi tiến hành phối hợp.
- Sự không thống nhất, đồng bộ trong quá trình phối hợp giữa các cơ quan
hành chính Nhà nước với các thiết chế, tổ chức bên ngoài.
3. Nội dung phối hợp.

Hoạt động phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước
là hết sức phức tạp, rộng lớn diễn ra trên nhiều nội dung, ngành, lĩnh vực khác
Page 22 of 49



NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
nhau. Tuy vậy, có thể chia sự phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan hành
chính Nhà nước thành các nội dung chính sau đây:
- Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc ban hành, sửa đổi, bổ sung
các chính sách, thể chế, cơ chế trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
- Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc triển khai các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc kiểm tra, kiểm soát việc
thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước.

V. CÁC NGUYÊN TẮC PHỐI HỢP.
1. Khái niệm.

Nguyên tắc phối hợp là những quan điểm, tư tưởng chủ đạo nhằm định
hướng hành động cho các chủ thể tham gia phối hợp thực hiện nhiệm vụ nhằm
đạt mục tiêu đề ra.
2. Sự cần thiết phải tuân thủ các nguyên tắc trong phối hợp.

Quản lý tổ chức là nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng và phát triển tổ chức.
Phối hợp là một chức năng cơ bản của quản lý, là một công đoạn trong cả một
quá trình quản lý tổ chức, có ảnh hưởng đến các chức năng còn lại như lãnh
đạo, lập kế hoạch, kiểm soát…. Quản lý nếu không có sự phối hợp hoặc phối
hợp không hiệu quả sẽ làm mất tính hiệu quả, hiệu lực của tổ chức.
3. Các nguyên tắc trong hoạt động phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước.

3.1. Nguyên tắc lãnh đạo thống nhất.
a. Khái niệm.
Lãnh đạo thống nhất là sự tác động, ảnh hưởng theo một chiều, sự phối hợp

với nhau trong hoạt động phải chịu sự chỉ đạo của người lãnh đạo duy nhất
trong tổ chức. Nói cách khác, cấp dưới chỉ có một cấp trên trực tiếp và duy nhất
hay mỗi người chỉ chịu sự lãnh đạo của một chỉ huy trực tiếp.
Nguyên tắc tập trung thống nhất là nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và trong hoạt động phối
hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước nói riêng. Nguyên tắc này bắt
nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo đảm tính thống nhất của
pháp chế.
Các cơ quan nhà nước ở địa phương một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ
chủ quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân địa
phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều.
Các tổ chức hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do
có vị trí, chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các cơ quan
Page 23 of 49


NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù.
Đó là nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc
lập, không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
Tập trung thống nhất là nguyên tắc đặc thù trong hoạt động phối hợp giữa
các cơ quan hành chính nhà nước, bởi lẽ, đó là hình thức phối hợp tổ chức và
hoạt động cho phép toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước trên phạm vi
cả nước thực hiện được hiệu quả chức năng hành pháp - nhằm bảo đảm pháp
chế thống nhất. Nguyên tắc này bao gồm hai nội dung gắn liền nhau, không tách
rời nhau như hai mặt của một thể thống nhất, đó là: Tập trung và thống nhất.
Tính tập trung trong phối hợp giữa các tổ chức hành chính nhà nước: không
chỉ nói về quan hệ giữa người đứng đầu các tổ chức hành chính nhà nước (hay
hệ thống các tổ chức hành chính nhà nước) với các thành viên (hay với các tổ

chức thành viên của hệ thống) mà còn bao gồm vấn đề khác như vấn đề tổ
chức, phương pháp hoạt động, mối quan hệ giữa các tổ chức hành chính nhà
nước với nhau.
Các tổ chức hành chính nhà nước là một hệ thống cơ quan nhà nước độc
lập, các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới chỉ trực thuộc theo ngành dọc,
trực thuộc cơ quan cấp trên của mình, không song trùng trực thuộc như các cơ
quan quản lý nhà nước khác.
Các nhân viên phải phục tùng lãnh đạo của cấp trên.và cấp dưới phải phục
tùng lãnh đạo của cấp trên. Bất kỳ sự phối nào cũng đòi hỏi khách quan phải có
sự chỉ đạo thống nhất từ một trung tâm, từ người đứng đầu. Các tổ chức hành
chính nhà nước là một hệ thống thống nhất và mỗi cơ quan hành chính nhà
nước cũng là một hệ thống nên cần đến sự chỉ đạo, điều hành của người đứng
đầu cơ quan. Người đứng đầu trong hoạt động phối hợp giữa các tổ chức hành
chính là người quyết định giải quyết những vấn đề trong hoạt động phối hợp.
Chính nhờ sự lãnh đạo tập trung mà sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan
hành chính nhà nước các cấp có thể phát huy được sức mạnh của cả hệ thống
trong đấu tranh với vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm pháp chế thống nhất, có
khả năng đối trọng với chủ nghĩa cục bộ địa phương.
Tính thống nhất thể hiện ở chỗ, sự phối hợp trong hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước là thống nhất về chức năng, nhiệm vụ, về phương pháp hoạt
động, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, thống nhất về thẩm quyền. Giữa các
cơ quan hành chính các cấp tham gia phối hợp chỉ có sự khác biệt về phạm vi
quyền hạn mà thôi. Hoạt động thực hiện chức năng hiến định của các cơ quan
hành chính nhà nước các cấp trong toàn bộ hệ thống được tiến hành trên cơ sở
pháp lý thống nhất - đó là các quy định của Hiến pháp, Luật Hành chính và các
quy định khác của pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau.
Tập trung và thống nhất - như đã nói ở trên - có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau và không thể triển khai tách rời, biệt lập với nhau. Trong mối quan hệ hữu
cơ này thì nội dung tập trung liên quan nhiều hơn đến vấn đề tổ chức và xây
Page 24 of 49



NHÓM 4 – KH12 NHÂN SỰ 01 ( THÁNG 4/2014 )
dựng thứ bậc quản lý điều hành trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước,
còn nội dung thống nhất liên quan nhiều hơn đến vấn đề hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước. Từng nội dung riêng rẽ không thể tạo ra tác động
điều chỉnh hiệu quả đến tổ chức và hoạt động của các cơ qua hành chính nhà
nước mà đòi hỏi khách quan sự kết hợp lẫn nhau của cả hai nội dung này.
Nguyên tắc tập trung thống nhất trong phối hợp giữa các cơ quan hành
chính nhà nước xuất phát từ yêu cầu khách quan bảo đảm pháp chế thống nhất
trong phạm vi cả nước. Yêu cầu này không thể thực hiện được nếu không có sự
lãnh đạo tập trung từ một trung tâm thống nhất trong hệ thống cơ quan hành
chính. Bảo đảm pháp chế thống nhất trong phạm vi cả nước đòi hỏi hệ thống cơ
quan hành chính phải được tổ chức sao cho các cơ quan hành chính nhà nước ở
cấp nào, địa phương nào cũng đều có thể thực hiện được những chỉ đạo thống
nhất trong hoạt động của mình. Chỉ có như vậy, các cơ quan hành chính nhà
nước các cấp mới có khả năng thực tế không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cục bộ
địa phương trong hoạt động của mình, vì chủ nghĩa cục bộ địa phương chính là
cản trở lớn nhất của pháp chế thống nhất. Nguyên tắc đặc thù này đã tạo cho các
cơ quan hành chính nhà nước ưu thế hơn hẳn. Cơ quan này về tổ chức trực
thuộc Chính phủ hoặc trực thuộc Bộ, ngành, địa phương nên có những hạn chế
nhất định trong phát hiện, đấu tranh với vi phạm pháp luật. Tính tập trung trong
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước còn là bảo đảm tính thống nhất trong
hoạt động thực tiễn của cả hệ thống hành chính nhà nước. Thực tiễn đã cho thấy,
trong những tình huống khó khăn trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp
luật ở các cơ quan hành chính nhà nước địa phương thì nguyên tắc tập trung
thống nhất là chỗ dựa vững chắc cho các địa phương trong đấu tranh bảo đảm
pháp chế thống nhất thông qua việc viện dẫn yêu cầu phải chấp hành chỉ đạo,
mệnh lệnh của cấp trên.
b. Vai trò.

- Đây là nguyên tắc quan trọng nhất đối với hoạt động phối hợp trong quản
lý, đóng vai trò điều tiết và định hướng cho sự phối hợp. Thực hiện tốt nguyên
tắc này sẽ nâng cao hiệu quả công việc, giảm thiểu sự bất hợp lý trong khi phối
hợp, bởi nó xác định rõ ai là người đưa ra quyết định và ai là người thực hiện.
Ngược lại, nếu không thực hiện tốt nguyên tắc này có thể tạo nên bầu không khí
căng thẳng trong quá trình phối hợp hay những mâu thuẫn giữa các cấp và dẫn
tới giảm hiệu quả công việc.
- Trong tổ chức hành chính nhà nước, mọi hoạt động của các cơ quan đều
hướng tới phục vụ nhân dân, thông qua sự chỉ đạo thống nhất theo đường lối
của Đảng và nhà nước. Các cơ quan đều thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu,
chiến lược chung nhằm phát triển đất nước. Bởi vậy giữa các cơ quan này cần
có sự phối hợp ăn khớp, thống nhất với nhau thì mới có thể hoàn thành tốt các
nhiệm vụ, công việc được giao.
Page 25 of 49


×