Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất của gà mèo nuôi tại 3 huyện vùng cao núi đá của tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 92 trang )

1

đại học thái nguyên

Trờng đại học nông lâm

Nguyễn Văn Sinh

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, khả năng
sản xuất của gà mèo nuôi tại 3 huyện vùng cao
núi đá của tỉnh Hà Giang

luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp

Thái nguyên, năm 2006


đại học thái nguyên

Trờng đại học nông lâm

Nguyễn Văn Sinh

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, khả năng
sản xuất của gà mèo nuôi tại 3 huyện vùng cao
núi đá của tỉnh Hà Giang
Chuyên ngành
Mã số

: Chăn nuôi
: 60.62.40



luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp

Hớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Thanh Vân

Thái nguyên, năm 2006


Lời cam đoan

T

ôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu trong luận văn là trung thực và cha đợc công bố trong bất
kỳ công trình nào. Mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện đề tài đ.

đợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn đều đợc chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả

Nguyễn Văn Sinh


Lời cảm ơn

T

rong thời gian học tập và thực hiện đề tài tôi đ nhận đợc sự quan tâm
giúp đỡ tận tình của các thầy cô Khoa Sau Đại học, Khoa Chăn nuôi Thú


y, Phòng thí nghiệm Trung tâm trờng Đại học Nông lâm Thái Nguyên, ban
Giám đốc Sở KH&CN, ban Giám đốc Trung tâm TT&CGCN mới Hà Giang,
l nh đạo phòng Kinh tế 3 huyện: Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, bạn bè và gia
đình.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: Ban Giám hiệu nhà
trờng, tập thể cán bộ giáo viên khoa Sau Đại học, khoa Chăn nuôi Thú y,
PGS.TS. Trần Thanh Vân - Phó phòng QLKH & QHQT, thầy đ trực tiếp
hớng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho tôi hoàn thành tốt luận văn
của mình.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới ban Giám đốc Sở Khoa học và
Công nghệ, ban Giám đốc Trung tâm TT&CGCN mới Hà Giang, l nh đạo
phòng Kinh tế 3 huyện: Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc, bạn bè và gia đình đ
tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng gửi tới tất cả các thầy cô trong Hội đồng,
các bạn, anh em đồng nghiệp sự biết ơn sâu sắc và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thái nguyên, ngày 25 tháng 11/2006
Tác giả

Nguyễn Văn Sinh


mục lục

nội dung
đặt vấn đề

Trang
1

Đặt vấn đề


1

Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

3

Chơng: 1
Tổng quan tài liệu
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

4
4

1.1.1. Bản chất di truyền các tính trạng

4

1.1.2. Đặc điểm di truyền một số tính trạng sản xuất của gia cầm

6

1.1.2.1. Khả năng sinh trởng

6

1.1.2.2. Tiêu tốn thức ăn

12


1.1.2.3. Khả năng cho thịt

13

1.1.2.4. Sức sống và khả năng kháng bệnh

14

1.1.2.5. Khả năng đẻ trứng

15

1.1.2.6. Tỷ lệ ấp nở

16

1.1.3. Một số yếu tố ảnh hởng đến chất lợng thịt gia cầm

20

1.1.3.1. Những yêu cầu đối với chất lợng thịt

20

1.1.3.2. Các biện pháp cải thiện chất lợng thịt gia cầm.

21

1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nớc


24

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nớc

24

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nớc

28

Chơng: 2
Đối tợng, nội dung và phơng pháp nghiên cứu
2.1. Đối tợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tợng nghiên cứu

36
36
36


2.1.2. Địa điểm và thời nghiên cứu
2.2. Nội dung và phơng pháp nghiên cứu

36
36

2.2.1. Nội dung nghiên cứu

36


2.2.2. Phơng pháp nghiên cứu

36

2.3. Các chỉ tiêu theo dõi

38

2.3.1. Các chỉ tiêu điều tra

38

2.3.1.1. Các chỉ tiêu về sinh sản

38

2.3.1.2. Các chỉ tiêu về sinh trởng

39

2.3.1.3. Một số đặc điểm sinh học

39

2.3.2. Các chỉ tiêu khảo sát

39

2.4. Phơng pháp tính toán các chỉ tiêu


40

2.5. Phơng pháp sử lý số liệu

48

Chơng 3
Kết quả và thảo luận
3.1. Cơ cấu đàn gà nuôi tại 3 huyện ... của tỉnh Hà Giang

49
49

3.2. Tình hình chăn nuôi gà mèo trong các hộ tại 3 huyện của tỉnh 50
Hà Giang
3.3. Tỷ lệ gà Mèo trong các hộ tại 3 huyện

51

3.4. Đặc điểm màu sắc lông của gà Mèo (gà Hmông, gà đen) Hà Giang.

53

3.5. Một số chỉ tiêu sinh sản và chất lợng trứng của gà Mèo

54

3.5.1. Một số chỉ tiêu sinh sản của gà mái

54


3.5.2.Thời gian sử dụng của gà trống, mái

55

3.5.3. Trứng, đặc điểm về chất lợng trứng.

56

3.5.4. Các chỉ tiêu về ấp nở.

56

3.6. Các chỉ tiêu về sinh trởng và sản xuất thịt của gà Mèo.

58

3.6.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà Mèo.

58

3.6.2. Đặc điểm sinh trởng của gà Mèo.

60

3.6.2.1. Kích thớc các chiều đo của cơ thể.

60



3.6.2.2. Sinh trởng tích lũy.

60

3.6.2.3. Sinh trởng tuyệt đối. Sinh trởng tơng đối.

64

3.7. Khả năng tiêu thụ và chuyển hóa thức ăn

68

3.8. Khả năng cho thịt và chất lợng thịt

70

kết luận và đề nghị

74

1. Kết luận.

71

2. Đề nghị.

75

Tài liệu tham khảo


76

Một số hình ảnh về gà mèo của đề tài

82


Danh mục các bảng

Nội dung

Trang

Bảng 3.1. Cơ cấu đàn gà tại 3 huyện

49

Bảng 3.2. Tình hình chăn nuôi gà trong các hộ

50

Bảng 3.3. Tỷ lệ gà mèo trong nông hộ tại3 huyện

52

Bảng 3.4. Đặc điểm màu sắc lông của gà Mèo Hà Giang

53

Bảng 3.5. Một số chỉ tiêu sinh sản của gà mái


54

Bảng 3.6. Thời gian sử dụng của gà trống, mái

55

Bảng 3.7. Các chỉ tiêu về chất lợng trứng

56

Bảng 3.8. Các chỉ tiêu ấp nở

57

Bảng 3.9. Tỷ lệ nuôi sống của gà Mèo

59

Bảng 3.10. Kích thớc các chiều đo cơ thể

60

Bảng 3.11. Sinh trởng tích lũy của gà Mèo

61

Bảng 3.12. Sinh trởng tuyệt đối và sinh trởng tơng đối

64


Bảng 3.13. Khả năng tiêu thụ và chuyển hóa T.ăn của gà mèonuôi thịt

69

Bảng 3.14. Các chỉ tiêu mổ khảo sát

71

Bảng 3.15. Thành phần hóa học của thịt gà Mèo 12 tuần tuổi nuôi khảo sát

72

Bảng 3.15. Thành phần hóa học của thịt gà Mèo 12 tuần tuổi nuôi tự nhiên

72


Danh mục các biểu đồ, đồ thị

Nội dung

Trang

Đồ thị 3.1. Sinh trởng tích lũy của gà Mèo Hà Giang

63

Đồ thị 3.2. Sinh trởng tơng đối của gà Mèo Hà Giang


67

Biểu đồ. Sinh trởng tuyệt đối của gà Mèo Hà Giang

65


MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta ngày
càng phát triển với tốc độ phát triển bình quân của những năm qua là 5%/năm
và chăn nuôi gà chất lượng cao đang là vấn đề được nhiều người quan tâm.
Chăn nuôi gà đã có những chuyển biến tích cực, đạt được những thành tựu
khả quan: tổng đàn tăng lên về số lượng và chất lượng được cải thiện. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu tiêu dùng thực phẩm có chất
lượng cao của người dân lại càng tăng lên.
Hiện nay, xu thế chung của ngành chăn nuôi trên thế giới, đặc biệt là
các nước đang phát triển, bên cạnh việc phát triển thâm canh chăn nuôi cần
đẩy mạnh công tác bảo tồn, gìn giữ các giống vật nuôi địa phương nhằm bảo
tồn và khai thác hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học mang lại tính ổn định bền
vững cho phát triển lâu dài. Đây là vấn đề cấp bách, khó khăn, phức tạp mang
tính toàn cầu, cần được nhiều ngành quan tâm.
Ở Việt nam có rất nhiều giống vật nuôi truyền thống có giá trị kinh tế
thấp nên đang bị thu hẹp về không gian phân bố, giảm dần về số lượng và có
nguy cơ bị tuyệt chủng ví dụ như: lợn Ỉ, lợn Thanh Hóa, gà Hồ, gà Đông Tảo,
vịt Kỳ Lừa… Gà Mèo cũng là một trong những giống vật nuôi nói trên, mặc
dù xét về ý nghĩa kinh tế của giống gà này thì không lớn, song đây là giống gà
được cộng đồng người dân tộc H‘Mông nuôi từ ngàn đời nay, nó gắn liền với
tập quán văn hóa và đời sống tinh thần của người H‘Mông (Nguyễn Văn Trụ,
1999 [31])

Trong thực tế, người tiêu dùng vẫn ưa sử dụng thịt của các giống gà nội
hơn, giá bán thịt các giống gà nội trên thị trường luôn cao hơn gà nhập nội và
gà lai. Mặt khác một số các địa phương, nhất là các tỉnh Miền núi thì việc đưa


các giống nhập nội vào nuôi là vấn đề hết sức khó khăn. Song song với vấn đề
đưa các giống gà ngoại và gà lai vào phát triển kinh tế hộ nhưng đồng thời
cần phải nghiên cứu, chọn lọc các giống gà nội có chất lượng thịt cao, để đáp
ứng nhu cầu người tiêu dùng và phù hợp với điều kiện kinh tế và chăn nuôi
của từng vùng là việc làm cần thiết.
Hà Giang là một tỉnh miền núi phía bắc với nét đặc trưng là địa hình bị
chia cắt bởi các dãy núi tạo ra các thung lũng. Dân cư gồm 22 dân tộc anh em
cùng sinh sống bằng canh tác nông nghiệp và chăn nuôi. Cùng với các gia
súc, gia cầm khác, con gà đã được các dân tộc địa phương nuôi dưỡng từ lâu
đời với phương thức quảng canh, tập quán dân địa phương là sử dụng thịt và
trứng gà rộng rãi như một nguồn thực phẩm giàu đạm và đặc biệt gà còn được
sử dụng trong các nghi thức đình đám, tín ngưỡng từ ngàn xưa. Giống gà Mèo
được đồng bào H'mông và một số ít dân tộc khác ở Hà Giang nuôi nhiều ở
những vùng núi cao, vùng sâu với phương thức chăn thả quảng canh không có
đầu tư. Đây là giống gà có tầm vóc tương đối lớn từ 3 - 4 kg , gà có chân cao,
tốc độ sinh trưởng khá, lông có nhiều màu: xám, vằn đen và đen... mà các chỉ
tiêu sản xuất chưa được khảo sát, theo dõi đầy đủ. Đặc biệt là các vùng miền
núi chăn nuôi còn mang những nét hoang sơ như những giống gà nguyên
thuỷ, đây là một trong những nguồn gen quý, rất phong phú và có tiềm năng
di truyền cao đối với công tác lai tạo do đó cần được bảo tồn. Gà Mèo không
những là món ăn đặc sản mà còn được Hội nghị Quốc tế về dinh dưỡng trị
liệu tại Hà Nội (ngày 07/4/1996) công nhận có tác dụng tăng khả năng sinh lý
và giá trị dược liệu cao, rất tốt cho những người bị bệnh tim mạch. Đồng bào
người H’Mông dùng xương, thịt của gà đen như một loại thuốc bồi dưỡng sức
khỏe cho những người ốm yếu (Nguyễn Văn Trụ, 1999 [31])



Trong thực tế các giống gà nội thuần rất ít, do có sự pha tạp một cách
tự nhiên, nhưng do điều kiện địa hình và tập quán sinh sống của người
H’Mông nên gà Mèo (Hà Giang) là một trong số ít các giống gà nội thuần. Để
có thêm kết quả nghiên cứu về giống gà này, góp phần vào việc xem xét, đánh
giá giá trị kinh tế, làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu bảo tồn và lai tạo,
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất của gà Mèo
nuôi tại 3 huyện vùng cao núi đá của tỉnh Hà Giang".
Nhằm phục vụ cho việc bảo tồn qũi gen và là cơ sở để có thể khai thác
tiềm năng di truyền của giống gà đen địa phương này.
Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
+ Mục tiêu của đề tài
- Nhằm bảo tồn được quỹ gen và khai thác tiềm năng di truyền lâu
dài của gà đen địa phương.
- Xác định được, cơ cấu, số lượng, sức sống, sinh trưởng, sinh sản,
tình hình chăn nuôi gà Mèo trong nông hộ tại 3 huyện vùng cao núi đá của
tỉnh Hà Giang.
- Xác định các đặc điểm ngoại hình, một số đặc tính sinh học và tính
năng sản xuất của giống gà Mèo tại các địa phương khác nhau trong tỉnh.
- Xác định ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật đến khả năng sản
xuất của gà Mèo nuôi ở nông hộ.
+ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả của đề tài sẽ cung cấp các thông tin đầu tiên về giống gà Mèo
tại một số huyện vùng cao núi đá của tỉnh Hà Giang.
- Các số liệu thu được phục vụ cho công tác bảo tồn qũi gen vật nuôi,
đồng thời làm cơ sở cho định hướng công tác giống sau này. Mặt khác kết quả
của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu phát triển tiếp theo.



Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Bản chất di truyền các tính trạng
Cũng như các giống vật nuôi khác, giống gà được hình thành gắn
liền với sự tác động của môi trường sinh thái, điều kiện kinh tế kỹ thuật của
xã hội. Hay nói cách khác, ngoài các yếu tố di truyền, tác động của con
người, thì các yếu tố ngoại cảnh như: nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, mùa vụ ...
có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các đặc tính sinh trưởng, phát
dục, sinh sản của giống.
Tất cả các đặc điểm của một giống như: các đặc tính sinh học, ngoại
hình, tính năng sản xuất ... Đều là tính trạng di truyền số lượng và chất
lượng. Các tính trạng chất lượng được quy định bằng một hoặc nhiều cặp
gen có hiệu ứng lớn, chúng được di truyền tuân theo các định luật của
Mendel và ít chịu ảnh hưởng của các điều kiện môi trường; Các tính trạng
sản xuất được quy định bằng nhiều cặp gen có hiệu ứng nhỏ, chúng được di
truyền cho đời sau theo các mức độ khác nhau, sự thể hiện của chúng ở đời
sau chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại cảnh. Sự biểu hiện kiểu
hình của các tính trạng số lượng chịu sự tác động rất lớn của yếu tố ngoại
cảnh. Mối liên hệ này được thể hiện trong biểu thức:
P = G + E.
Trong đó: P: giá trị kiểu hình, là các giá trị đo lường được của tính
trạng số lượng trên một cá thể.
G: giá trị kiểu gen
E: sai lệch môi trường.
Nói cách khác: Trong những điều kiện môi trường nhất định thì các
kiểu gen khác nhau sẽ cho những khả năng sản xuất khác nhau. Trái lại, cùng



một kiểu gen nhưng trong những điều kiện môi trường khác nhau sẽ cho năng
lực sản xuất khác nhau. Nghĩa là các điều kiện môi trường, chăm sóc nuôi
dưỡng có thể phát huy hoặc hạn chế các đặc tính di truyền của vật nuôi.
Thông qua việc nắm được các yếu tố di truyền, môi trường ngoại cảnh tối
thích, bằng các biện pháp khoa học kỹ thuật hợp lý, con người sẽ không chỉ
bồi dưỡng duy trì được các đặc tính của một phẩm chất giống mà còn tạo ra
các giống mới theo những hướng sản xuất khác nhau.
Tốc độ sinh trưởng quyết định sức xản xuất thịt của một giống gà, nó
có tính di truyền tương đối cao thể hiện ở đặc điểm về trao đổi chất, kiểu hình
của dòng, giống. Dòng, giống nào có tốc độ sinh trưởng lớn sẽ cho khả năng
sản xuất thịt cao, vỗ béo và giết thịt sớm hơn. Tốc độ sinh trưởng được thể
hiện ở khối lượng cơ thể, kích thước các chiều đo (dài lườn, rộng ngực, dài
đùi...). Để nâng cao năng lực sản xuất thịt của một giống gà nào đó, người ta
thường cho lai giữa mái của giống đó với trống của một giống khác có tốc độ
sinh trưởng lớn hơn.
Năng lực tăng đàn của một giống gà được quyết định bởi khả năng
sinh sản bao gồm: khả năng đẻ trứng, tỉ lệ trứng cho phôi, tỉ lệ ấp nở, tỉ lệ
nuôi sống của gà... Ngoài ra còn phụ thuộc vào khả năng ấp trứng của gà
mái, nguồn thức ăn (với gà nuôi thả) . . .
Sức sống và khả năng kháng bệnh: trong cơ thể gia cầm có hệ thống
miễn dịch hoàn hảo gồm tuỷ xương, tuyến ức, hạch lâm ba, lách... khi kháng
nguyên vào cơ thể, cơ thể sẽ thông qua hệ thống đáp ứng miễn dịch sinh ra
những cơ chế tiêu diệt kháng nguyên, khi cơ thể gia cầm khoẻ mạnh thì khả
năng đáp ứng miễn dịch cao, khả năng kháng bệnh tốt đây chính là yếu tố
quan trọng giúp cho người chăn nuôi đạt hiệu quả cao.


1.1.2. Đặc điểm về sinh trưởng di truyền và một số tính trạng sản xuất
của gia cầm
1.1.2.1. Khả năng sinh trưởng

Sinh trưởng là quá trình tích luỹ chất hữu cơ do quá trình đồng hoá
và dị hoá của cơ thể, là sự tăng về các chiều cao, dài, bề ngang, khối lượng
của các bộ phận và toàn bộ cơ thể của con vật. Đồng thời sinh trưởng chính
là sự tích luỹ dần các chất dinh dưỡng chủ yếu là Protein, nên tốc độ tích
luỹ và sự tổng hợp các chất dinh dưỡng, cũng chính là tốc độ hoạt động của
các gen điều khiển sinh trưởng của cơ thể (Trần Đình Miên, Nguyễn Kim
Đường, 1992)[17]
Về mặt sinh học: Sinh trưởng là quá trình tổng hợp Protein nên thường
lấy tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá quá trình sinh trưởng.
Theo Johanson, 1972 [5] thì cường độ phát triển qua giai đoạn bào
thai và giai đoạn sau khi sinh có ảnh hưởng đến chỉ tiêu phát triển của con
vật. Nhìn từ khía cạnh giải phẫu sinh lý thì sự sinh trưởng của các mô cơ
diễn ra theo sơ đồ sau:
HỆ THỐNG TIÊU HÓA NỘI TIẾT - HỆ THỐNG XƯƠNG - HỆ THỐNG CƠ BẮP - MỠ.

Thực tế chăn nuôi gia súc, gia cầm lấy thịt cho thấy trong giai đoạn đầu
của sự sinh trưởng thì thức ăn dinh dưỡng được dùng tối đa cho sự phát triển
của xương, mô cơ, một phần rất ít lưu giữ cho cấu tạo của mỡ. Đến giai đoạn
cuối của sự sinh trưởng, nguồn dinh dưỡng vẫn được sử dụng nhiều để nuôi
hệ thống cơ xương, nhưng hai hệ thống này tốc độ phát triển đã giảm, càng
ngày con vật càng tích lũy dinh dưỡng để cấu tạo mỡ.
Theo J.R Chambers, 1990 [37] thì Mozan (1927) định nghĩa: sinh trưởng
là sự tổng hợp quá trình tăng lên của các bộ phận trên cơ thể như thịt, da, xương.
Tuy nhiên có khi tăng khối lượng chưa phải là sinh trưởng, sự sinh trưởng thực


sự phải là tăng các tế bào của mô cơ tăng thêm khối lượng, số lượng và các chiều
của cơ thể. Tóm lại sinh trưởng phải trải qua 3 quá trình đó là:
- Phân chia để tăng khối lượng tế bào
- Tăng thể tích tế bào.

- Tăng thể tích giữa các tế bào.
Trong quá trình này thì sự phát triển của tế bào là chính, các đặc tính của
các bộ phận trong cơ thể hình thành nên quá trình sinh trưởng là sự tiếp tục thừa
hưởng các đặc tính di truyền từ đời trước, nhưng hoạt động mạnh hay yếu, hoàn
thiện hay không hoàn thiện còn phụ thuộc vào sự tác động của môi trường.
Trong các tổ chức cấu tạo của cơ thể gia cầm thì khối lượng cơ chiếm
nhiều nhất từ: 42 - 45% khối lượng cơ thể. Khối lượng cơ thể của con trống
luôn lớn hơn con mái (không phụ thuộc thuộc vào lứa tuổi và loại gia cầm).
(dẫn theo Ngô Giản Luyện, 1994 [14] ).
* Các giai đoạn sinh trưởng của gà.
Đối với gà, quá trình tích luỹ các chất thông qua quá trình trao đổi
chất đó, là sự tăng lên về khối lượng, kích thước tế bào, số lượng tế bào và
dịch thể trong mô bào ở giai đoạn phát triển đầu của phôi trên cơ sở tính di
truyền. Sau khi nở thì sinh trưởng là do sự lớn dần của các mô, đó là sự
tăng lên về kích thước của tế bào và được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn
gà con và giai đoạn trưởng thành.
+ Giai đoạn gà con
Giai đoạn này gà sinh trưởng rất nhanh do lượng tế bào tăng nhanh,
một số bộ phận của cơ quan nội tạng còn chưa phát triển hoàn chỉnh như các
men tiêu hoá trong hệ tiêu hoá chưa đầy đủ do vậy thức ăn giai đoạn này cần
chú ý đến thức ăn dễ tiêu, vì thức ăn giai đoạn này ảnh hưởng rất lớn đến tốc
độ sinh trưởng của gà. Quá trình thay lông diễn ra trong cùng giai đoạn này là
quá trình phát triển sinh lý, nó làm thay đổi quá trình trao đổi chất, tiêu hoá và


hấp thu, do đó cần chú ý đến hàm lượng của các chất dinh dưỡng và axit amin
thiết yếu trong khẩu phần thức ăn.
+ Giai đoạn trưởng thành
Giai đoạn này các cơ quan trong cơ thể gà gần như đã phát triển hoàn
thiện, số lượng tế bào tăng chậm chủ yếu là quá trình phát dục. Quá trình tích

luỹ các chất dinh dưỡng trong giai đoạn này một phần để duy trì cơ thể, một
phần để tích luỹ mỡ, tốc độ sinh trưởng chậm hơn giai đoạn gà con.
* Số đo sinh trưởng của gà
+ Khối lượng cơ thể
Ở từng giai đoạn phát triển, chỉ tiêu này xác định sự sinh trưởng của
cơ thể tại một thời điểm, nhưng lại không khẳng định được sự sai khác về
tỷ lệ sinh trưởng giữa các thành phần của cơ thể trong cùng một thời gian ở
các độ tuổi. Đơn vị tính được tính bằng g/con hoặc kg/con.
+ Sinh trưởng tuyệt đối
Sinh trưởng tuyệt đối là sự tăng lên về khối lượng, kích thước cơ thể
trong một đơn vị thời gian giữa hai lần khảo sát (TCVN 2.39 - 77, 1997) [21].
Sinh trưởng tuyệt đối được tính bằng g/con/ngày. Giá trị sinh trưởng tuyệt
đối càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn và ngược lại.
+ Sinh trưởng tương đối
Sinh trưởng tương đối được tính bằng tỷ lệ phần trăm tăng lên của
khối lượng (thể tích, kích thước) của cơ thể khi kết thúc quá trình khảo sát
so với thời điểm đầu khảo sát (TCVN 2.40 -77, 1997)[22]. Gà còn non có
sinh trưởng tương đối cao sau đó giảm dần theo tuổi.
Sau giai đoạn trưởng thành là giai đoạn già cỗi, ở thời kỳ này khối
lượng không tăng mà có chiều hướng giảm. Nếu vẫn có hiện tượng tăng khối
lượng thì đây là do quá trình tích luỹ mỡ. Thời kỳ này sớm hay muộn phụ
thuộc vào giống, tuổi và điều kiện sống của con vật. Thời kỳ già cỗi được tính


từ khi con vật ngừng sinh trưởng, khả năng sinh sản và mọi khả năng khác
đều giảm (Lê Huy Liễu và cs, 2004 [10]).
- Đường cong sinh trưởng: Đường cong sinh trưởng biểu thị sinh
trưởng của gia súc gia cầm nói chung. Theo J.R Chambers, 1990 [37], đường
cong sinh trưởng của gà có 4 đặc điểm chính gồm 4 pha:
+ Pha sinh trưởng tích lũy tăng tốc nhanh sau khi nở

+ Điểm uốn của đường cong tại thời điểm có sinh trưởng cao nhất
+ Pha sinh trưởng có tốc độ giảm dần sau điểm uốn
+ Pha sinh trưởng tiệm cận với giá trị khi gà trưởng thành.
Đồ thị sinh trưởng tích lũy biểu thị một cách đơn giản nhất về
đường cong sinh trưởng.
Đường cong sinh trưởng không những được sử dụng để chỉ rõ về khối
lượng mà còn làm rõ về mặt chất lượng, sự sai khác nhau giữa các dòng,
giống, giới tính (H.Knizetova, J.Hyanck, B.Knize and J.Roubicek, 1991) [46].
Trần Long, 1994 [11] khi nghiên về đường cong sinh trưởng của các
dòng V1, V3, V5 trong giống gà Hybro (HV85) cho thấy các dòng đều phát
triển theo đúng quy luật sinh học. Đường cong sinh trưởng của 3 dòng có sự
khác nhau và trong mỗi dòng giữa gà trống và gà mái cũng có sự khác nhau:
Sinh trưởng cao ở 7 - 8 tuần tuổi với gà trống và 6 -7 tuần tuổi đối với gà mái.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của gà.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của gà như: dòng,
giống, tính biệt, tốc độ mọc lông, dinh dưỡng và các điều kiện chăn nuôi…
+ Ảnh hưởng của dòng, giống
Theo J.R Chambers, 1990 [37] có nhiều gen ảnh hưởng đến sinh trưởng
và phát triển của của cơ thể, có gen ảnh hưởng đến sự phát triển chung, có gen
ảnh hưởng đến sự phát triển nhiều chiều, có gen thì ảnh hưởng theo nhóm tính
trạng và có gen ảnh hưởng tới một vài tính trạng riêng lẻ.


E.F Goedfrey và R.G Jaap, 1952 [42] cùng một số tác giả khác cho
rằng các tính trạng số lượng được quy định bởi ít nhất 15 cặp gen.
Theo R.G Jaap và cộng sự, 1969 [44]; A.B Champman, 1995 [39] đều
cho rằng kiểu di truyền về khối lượng cơ thể, phải do nhiều gen quy định và ít
nhất phải có một gen liên kết với giới tính.
Cook và cộng sự, 1956 [40] đã xác định được hệ số di truyền tại 6 tuần
tuổi về khối lượng là 0,50; hệ số di truyền khối lượng cơ thể theo Godman và

Godgry (1956) là 0,43, ở 10 tuần tuổi theo Cook tính được là 0,5 và ở 6 tuần
tuổi là 0,4.
Phùng Đức Tiến, 1996 [30] cho biết hệ số di truyền của tốc độ sinh
trưởng từ 0,4 - 0,5. Các tài liệu của J.R Chambers, 1984 [38]; Siegel và cs,
1962 [53] đã tổng kết một cách hoàn chỉnh về hệ số di truyền và tốc độ sinh
trưởng. Kết quả tính toán qua phân tích phương sai của con đực từ 0,4 - 0,6 .
Theo K.F Kushner, 1978 [9] hệ số di truyền khối lượng cơ thể sống
của gà 1 tháng tuổi là 0,33; 2 tháng tuổi là 0,46; 3 tháng tuổi là 0,44; 6
tháng tuổi là 0,55 và của gà trưởng thành là 0,43. Của Nguyễn Ân và cộng
tác viên, 1998 [1] gà 3 tháng tuổi là 0,26 - 0,5.
Nguyễn Mạnh Hùng và cộng tác viên, 1994 [8] cho biết sự khác nhau
giữa các giống gia cầm rất lớn, giống kiêm dụng nặng hơn hướng trứng
khoảng 500 - 700g (từ 15 - 30%)
Kết quả nghiên cứu 3 dòng AA, Avian và BE88 nuôi tại Thái Nguyên
của Nguyễn Thị Thúy Mỵ, 1997 [18] cho thấy: khối lượng cơ thể của 3 giống
khác nhau ở 49 ngày tuổi lần lượt là: 2501,09g; 2423,28g và 2305,14g.
+ Ảnh hưởng của tính biệt
Sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ thể còn ảnh
hưởng bởi tính biệt, gà trống có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn gà mái. Những


sai khác này được biểu hiện về mặt cường độ sinh trưởng, được quy định
không phải do hoocmon sinh dục mà là do các gen liên kết với giới tính.
Theo M.A Jull, 1923 [45] cho biết gà trống có tốc độ sinh trưởng nhanh
hơn gà mái từ 24 - 32%. Các tác giả cho rằng sự sai khác này do gen liên kết
giới tính, những gen này ở gà trống hoạt động mạnh hơn gà mái. M.O North,
1990 [48], đã rút ra kết luận: lúc mới nở gà trống nặng hơn gà mái 1%, tuổi
càng tăng thì sự khác nhau càng lớn, ở 2 tuần tuổi hơn 5%, 3 tuần tuổi hơn
11%, 5 tuần tuổi hơn 17%, 6 tuần tuổi hơn 20%, 7 tuần tuổi hơn 23%, 8 tuần
tuổi hơn 27%.

+ Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng
Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng tới từng mô khác nhau, gây nên sự biến
đổi trong quá trình phát triển của mô này đối với mô khác, dinh dưỡng còn
ảnh hưởng đến biến động di truyền về sinh trưởng
Theo Bùi đức Lũng, Lê Hồng Mận, 1993 [13] để phát huy khả năng
sinh trưởng cần cung cấp thức ăn với đầy đủ các chất dinh dưỡng và được cân
bằng Protein, các axit amin với năng lượng, ngoài ra những năm gần đây
trong thức ăn hỗn hợp chúng ta đã bổ sung một số các chế phẩm hoá học
không mang ý nghĩa về dinh dưỡng, nhưng nó có tác dụng kích thích về sinh
trưởng và làm tăng chất lượng thịt.
Lê Hồng Mận và cộng sự, 1993 [16] xác định được nhu cầu dinh
dưỡng về Protein nuôi gà Broiler cho năng suất cao, thì ngoài tỷ lệ năng
lượng/Protein (ME/CP) trong khẩu phần thức ăn cũng là vấn đề rất quan
trọng cần được quan tâm.
Dinh dưỡng của gia cầm gồm nhiều thành phần, mỗi thành phần đều có
tầm quan trọng và ý nghĩa riêng của nó.
Ở gà Broiler, một phần năng lượng để duy trì, một phần để tăng khối
lượng, cá thể có tốc độ tăng trưởng nhanh thì sẽ cần ít năng lượng để duy trì


hơn, tiêu tốn thức ăn ít hơn. Tăng khối lượng nhanh do cơ thể đồng hoá tốt,
trao đổi chất được tăng cường làm cho việc sử dụng thức ăn có hiệu quả tốt
hơn. Theo J.R Chambers và cộng sự, 1984 [38] thì mối tương quan giữa khối
lượng của gà Broiler với lượng thức ăn tiêu tốn từ 0,5 - 0,9. Gà có tốc độ tăng
khối lượng cao thì yêu cầu thức ăn có tỷ lệ Protein cao hơn, hiệu quả sử dụng
thức ăn tốt hơn (J.A Paudman và cộng sự, 1970 [9]); (R.A.E Pym và cộng sự,
1978 [50]). Dinh dưỡng không chỉ cần thiết cho quá trình sinh trưởng mà còn
cần thiết để thể hiện khả năng di truyền của sinh trưởng.
Meller David Soares, J.R Josepbb, 1981 [19] đã xác định được sự ảnh
hưởng của hàm lượng Clorocid, Sulfat và lượng Natri, Phot pho trong chế độ

dinh dưỡng tới sinh trưởng của gà.
1.1.2.2 Tiêu tốn thức ăn.
Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng phản ánh khả năng chuyển
hoá thức ăn để sinh trưởng, hay nói cách khác tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại. Để đạt được một
khối lượng cơ thể nào đó, với cơ thể sinh trưởng chậm sẽ mất thời gian dài
hơn, năng lượng giành cho duy trì cao hơn dẫn đến thức ăn tiêu tốn nhiều hơn
so với cơ thể có tốc độ tăng khối lượng nhanh. Khi sinh trưởng nhanh thì quá
trình trao đổi chất của cơ thể tốt hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn do đó
tiêu tốn thức ăn giảm.
J.R Chambers và cộng sự, 1984 [38] đã xác định hệ số tương quan di
truyền giữa tăng khối lượng của cơ thể với tiêu tốn thức ăn, hệ số tương quan
này thường rất cao từ: 0,5 - 0,9 còn tương quan di truyền giữa sinh trưởng và
chuyển hoá thức ăn là thấp và âm (từ: - 0,2 đến - 0,8).
Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng còn phụ thuộc vào độ tuổi, đối với
gà thịt thì giai đoạn đầu tiêu tốn thức ăn thấp hơn giai đoạn sau.


1.1.2.3. Khả năng cho thịt
Khả năng cho thịt là đặc điểm kinh tế quan trọng trong ngành chăn
nuôi, nó được thể hiện bằng năng suất và chất lượng thịt ở tuổi giết mổ.
* Năng suất thịt:
Năng suất thịt biểu hiện bằng tỷ lệ thân thịt, tỷ lệ các bộ phận, thường
được tính là tỷ lệ thịt xẻ, thịt đùi, thịt ngực và tỷ lệ mỡ bụng.
Theo F.H Ricard và Rouvier, 1967 [51] ta thấy mối tương quan giữa
khối lượng sống và khối lượng thịt xẻ là rất cao, thường là 0,9; còn giữa khối
lượng sống và khối lượng mỡ bụng thấp hơn thường từ: 0,2 - 0,5.
Các giống, các dòng khác nhau thì năng suất thịt cũng khác nhau.
J.R Chambers, 1990 [37] cho biết giữa các dòng luôn có sự khác nhau di
truyền về năng suất thịt xẻ, hay năng suất thịt đùi, thịt ngực... (phần thịt

ăn được không có xương).Ngoài ra năng xuất thịt còn phụ thuộc vào tính
biệt và chế độ dinh dưỡng.
* Chất lượng thịt
Thịt gia cầm có tính ngon miệng và mùi vị hấp dẫn, điều này liên quan
đến đặc điểm sinh thái của tổ chức cơ và tính chất lý học của nó như độ mềm,
độ ướt... Những sợi cơ của thịt gà rất mỏng và các tổ chức liên kết giữa chúng
nhỏ hơn thịt một số loài gia súc khác.
Theo J.R Chambers, 1990 [37] thì tốc độ sinh trưởng có tương quan âm
với tỷ lệ mỡ (- 0,32) và khoáng tổng số (- 0,14). Chất lượng thịt phụ thuộc
vào thành phần hoá học của thịt và có sự khác nhau giữa các dòng, giống,
cùng một chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng, cùng một lứa tuổi và cùng một
giống thì không có sự khác nhau về thành phần hoá học của thịt. Prias (1984)
đã xác định được hệ số di truyền về tỷ lệ thịt xẻ như: Độ ẩm là 0,38; Protein là
0,47; mỡ là 0,48 và khoáng là 0,25 (dẫn Theo J.R Chambers, 1990 [37]).


Ngoài ra việc đánh giá chất lượng thịt còn dựa theo độ béo, tròn của thân
hình, mùi vị, độ ngọt, độ mềm và cứng của thịt ... Các khuyết tật như lở loét
da, có chứa u và tổn thương, gãy lườn..., cũng ảnh hưởng tới chất lượng thịt.
1.1.2.4. Sức sống và khả năng kháng bệnh
Sức sống và khả năng kháng bệnh của gia cầm là yếu tố quan trọng
giúp cho chăn nuôi đạt hiệu quả. Tổn thất do dịch bệnh ở gia cầm là rất lớn
nên cần phải có những biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa để giảm bớt tổn
thất đó. Khi đàn gà bị mắc bệnh tỷ lệ chết tăng cao, dễ lây nhiễm và mắc
các bệnh khác, nhất là các bệnh truyền nhiễm. Để điều trị và đề phòng các
loại dịch bệnh phải cần rất nhiều kinh phí để mua vacxin tiêm phòng, thuốc
kháng sinh để chữa bệnh, cùng hàng loạt các biện pháp thú y khác.
A.S Marco và cộng sự (1992) (dẫn Theo Hoàng Toàn Thắng, 1996
[27]) cho biết: sức sống được thể hiện ở thể chất và xác định trước hết bởi
khả năng có tính di truyền ở động vật có thể chống lại những ảnh hưởng

không thuận lợi của môi trường cũng như ảnh hưởng của dịch bệnh.
Theo Ngô Giản Luyện, 1994 [14] thì mối liên quan giữa chỉ tiêu sinh
lý, sinh hóa máu đối với sức sống và sản lượng trứng được Kotris và cộng
sự tại Viện Thú y Matxcơva (1988) xác định: Số lượng bạch cầu trong máu
gà Hybro liên quan đến sức sống và sản lượng trứng, những gà mái có số
lượng bạch cầu cao giai đoạn 60 - 110 ngày thì tương ứng với sức sống và
sản lượng trứng cao.
Theo J.S Gavano, 1990 [43] hệ số di truyền tỷ lệ chết ở gia cầm
là 0,07; hệ số di truyền của sức kháng bệnh là 0,25. Robertson và
Lerner, 1949 [52] xác định hệ số di truyền tỷ lệ nuôi sống và sức kháng
bệnh thấp, phụ thuộc và dòng, giống, giới tính và phụ thuộc nhiều nhất
vào yếu tố nuôi dưỡng.


1.1.2.5. Khả năng đẻ trứng
Khả năng đẻ trứng là một chỉ tiêu quan trọng đối với gà sinh sản nó bao
gồm sản lượng trứng, chất lượng trứng và tỷ lệ ấp nở.
Sức đẻ trứng là số trứng thu được của mỗi mái đẻ hoặc mỗi đàn trong
một khoảng thời gian nhất định, sức đẻ trứng là một đặc điểm phức tạp và
biến đổi, được xác định qua tổng hợp các yếu tố bên trong và bên ngoài.
Sức đẻ trứng chịu sự chi phối của tập hợp các gen khác nhau, nó dao động
khoảng từ một đơn vị tới hàng trăm trong một năm đẻ (Nguyễn Duy Hoan,
Trần ThanhVân, 1998) [6]
Trứng gia cầm nói chung và trứng gà nói riêng là một tế bào sinh sản
khổng lồ, được bao bọc bởi lòng đỏ, lòng trắng, màng vỏ và vỏ. Buồng trứng
có chức năng tạo thành lòng đỏ, còn các bộ phận khác như lòng trắng, màng
vỏ và vỏ do ống dẫn trứng tạo thành (Ngô Giản Luyện, l994) [14].
Số lượng tế bào trứng của gia cầm là rất lớn, Theo Hull (1978)[47]
thì số lượng tế bào trúng của gà mái có thể lên tới hàng triệu. Tuy nhiên
mặc dù số lượng tế bào trứng lớn, nhưng trên thực tế, sức đẻ trứng thấp

hơn nhiều so với số lượng tế bào trứng trong buồng trứng.
Người ta thường xác định số lượng trứng sau một chu kỳ đẻ trứng
sinh học hoặc sau một năm đẻ trứng. Chu kỳ đẻ trứng sinh học được tính
từ khi đẻ quá trứng đầu tiên tới khi ngừng đẻ thay lông - đó là chu kỳ thứ
nhất, chu kỳ thứ hai tính từ khi gia cầm bắt đầu đẻ lại (sau khi thay lông)
tới khi ngừng đẻ và thay lông lần thứ hai. Qua nhiều kết quả nghiên cứu
cho thấy thời gian hình thành trứng trong ống dẫn trứng dao động trong
khoảng từ 23,5 - 24 giờ (Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998) [6].
Nếu gà mái có thời gian hình thành trứng trong ống dẫn trứng dưới 24
giờ thì có thể dẻ trứng liên tục đều đặn. Trong trường hợp này, quá trình rụng
trứng diễn ra sau khi dẻ trứng khoảng nửa giờ thì gà đẻ sẽ không liên tục.


Sức đẻ trứng phụ thuộc và liên quan trực tiếp với giống, dòng gia cầm,
sự phát triển của cá thể, tuổi, độ béo, trạng thái sức khỏe, thể trạng, sự thay
lông, tính ấp bóng, độ thành thục, cường độ và sức bền đẻ trứng, chu kỳ và
nhịp độ đẻ trứng. Đồng thời phụ thuộc vào các đặc trưng di truyền và chọn
giống, thức ăn dinh dưỡng, nhiệt độ, ánh sáng và các yếu tố tiểu khí hậu khác.
Giống, dòng ảnh hưởng đến sức sản xuất một cách trực tiếp như: Giống
gà Leghorn có sản lượng 250 - 270 trứng/mái/năm, trong khi đó gà Ri chỉ có
90 - 110 trứng/mái/năm. Những dòng chọn lọc kỹ thường đạt chỉ tiêu cao sản
hơn những dòng chưa chọn lọc kỹ khoảng 15 - 30% về sản lượng trứng.
Mùa vụ cũng có ảnh hưởng tới khả năng đẻ trứng của gia cầm. ở
nước ta do mùa hè nắng nóng nên sức đẻ trứng giảm xuống rất nhiều so
với mùa xuân và đến mùa thu lại tăng lên. Tuổi gia cầm cũng ảnh hưởng
rất lớn đến sức đẻ trứng, sản lượng trứng giảm dần theo tuổi, trung bình
năm thứ hai giảm 15 - 20% so với năm thứ nhất (ở vịt sản lượng trứng lại
cao nhất vào năm tuổi thứ hai).
Ngoài ra các yếu tố khác như nhiệt độ, ánh sáng, cũng ảnh hưởng
nhiều đến sản lượng trứng.

Từ trước đến nay các công trình nghiên cứu đều đi đến kết luận: gia
cầm lai do sự phối hợp giữa nhiều dòng đã xuất hiện ưu thế lai về sản lượng
trứng khối lượng trứng, thời gian của chu trình đẻ trứng, tỷ lệ có phôi, tỷ lệ
nở, tỷ lệ nuôi sống với dòng thuần.
1.1.2.6. Tỷ lệ ấp nở
Chất lượng trứng ấp ảnh hưởng rất lớn đến các chỉ tiêu tỷ lệ nở. Một
đàn giống gia cầm được nở ra từ những quả trứng có chất lượng không cao do
các yếu tố như di truyền, ngoại cảnh không thuận lợi gây nên thì khó có thể là
một đàn gia cầm khỏe mạnh. Vậy để nâng cao chất lượng trứng ấp và tỷ lệ ấp
nở cần phải tác động đến các yếu tố như:


×