Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Hôn nhân và gia đình của người khơ mú ở huyện mai sơn tỉnh sơn la tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.51 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THUẬN

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI
KHƠ MÚ Ở HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số: 62 31 03 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI - 2016


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Trần Văn Hà
2. TS. Hoàng Hữu Bình

1. T22S Trần Văn Hà
2. TS Hoàng Hữu Bình

Phản biện 1: GS.TS. Hoàng Nam
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Ngọc Thắng
Phản biện 3: PGS.TS. Vương Xuân Tình

Luận án sẽ được bảo về trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện họp tại Học viện Khoa học xã hội vào


hồi….giờ…..phút….ngày…..tháng….năm…. 2016

Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện :
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân và gia đình luôn là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học thuộc lĩnh vực xã hội - nhân văn. Đối với Nhân
học/Dân tộc học, việc nghiên cứu hôn nhân và gia đình ở các tộc
người có ý nghĩa rất lớn về mặt khoa học; một mặt, góp phần sáng tỏ
quá trình tộc người với các hình thức tiến triển của các loại hình hôn
nhân và gia đình ở các thời kỳ lịch sử khác nhau mặt khác làm rõ các
cấu trúc, quan hệ xã hội và văn hóa trong nội bộ tộc người và với các
tộc người khác.
Ở Sơn La, người Khơ mú có 12.576 người, chiếm 1,34% dân số
trong tỉnh và phân bố chủ yếu ở các huyện Yên Châu, Sông Mã, Mai
Sơn, Thuận Châu, Quỳnh Nhai và Sốp Cộp. Người Khơ mú cư trú
thành từng bản xen cài chủ yếu với các bản dân tộc thiểu số khác
nhau là Thái, Hmông, Xinh Mun, Kháng cũng như người Kinh tạo
nên mối quan hệ xã hội và giao tiếp, trao đổi văn hóa giữa người Khơ
mú và các tộc người thiểu số và đa số một cách tự nhiên qua các thời
kỳ lịch sử khác nhau trong quá khứ và hiện tại. Đặc biệt trong bối
cảnh xây dựng nông thôn mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế
thị trường, văn hóa hôn nhân của người Khơ mú chịu tác động nhiều
chiều và đang đứng trước sự mai một bản sắc. Để góp phần nhận
diện, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa hôn nhân tryền thống
của người Khơ mú trong bối cảnh trên, NCS đã lựa chọn “Hôn nhân

và gia đình của người Khơ mú ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La” làm đề
tài Luận án Tiến sĩ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nhận diện chân dung và đặc điểm văn hóa Hôn nhân và Gia đình
của người Khơ mú ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
- Làm rõ những nhân tố tác động trực tiếp, gián tiếp đến sự biến
đổi và những xu hướng trong quan hệ Hôn nhân và Gia đình của tộc
người Khơ mú.
- Đề xuất, kiến nghị nội dung, giải pháp nhằm phát huy các giá trị
văn hóa Hôn nhân và Gia đình của người Khơ mú trong xây dựng
nông thôn mới và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở ở hiện nay.
1


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án lấy đối tượng Hôn nhân và Gia đình của người Khơ mú
làm đối tượng tiếp cận, giải mã thông tin và tìm ra các giá trị văn hóa.
Phạm vi nghiên cứu: Về không gian là 2 bản người Khơ mú ở Co
Chai xã Hát Lót và bản Tra xã Chiềng Lương; Về thời gian: Quan sát
Hôn nhân và Gia Đình của người Khơ mú trước và sau năm 1986; Về
nội dung: Tiếp cận đối tượng trong cái nhìn truyền thống và biến đổi
4. Nguồn tài liệu, tư liệu của luận án
Nguồn tư liệu chính được thu thập từ những đợt điền dã dân tộc
học của NCS qua các năm 2010 đến 2015 tại bản Co Chai xã Hát Lót
và bản Tra xã Chiềng Lương của huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Nguồn tài liệu thứ cấp được tiếp cận từ sách, báo, tạp chí và các văn bản
pháp quy, báo cáo có liên quan.
5. Đóng góp của luận án
- Luận án lần đầu tiên cung cấp tư liệu một cách có hệ thống về
Hôn nhân và Gia đình của người Khơ mú ở Sơn La, cung cấp luận cứ

khoa học cho nghiên cứu chuyên sâu về cộng đồng Khơ mú, hoạch
định chính sách, quản lý nhà nước và xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở.
- Góp phần làm rõ những biểu hiện, đặc điểm hôn nhân, gia đình
truyền thống và những biến đổi của nó trong bối cảnh đổi mới, kinh
tế thị trường, hội nhập giao lưu văn hóa hiện nay đối với người Khơ
mú ở Tây Bắc Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo phục vụ
công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các trường đại học và
khoa Dân tộc, Trường Cán bộ dân tộc, ngành văn hóa, ngành công
tác dân tộc liên quan đến lĩnh vực văn hóa các dân tộc Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết,
phương pháp và địa bàn nghiên cứu; Chương 2.Hôn nhân của
người Khơ mú ở huyện Mai sơn tỉnh Sơn La; Chương 3.Gia
đình của người Khơ mú ở huyện Mai sơn tỉnh Sơn La ; Chương
4. Kết quả và bàn luận.
2


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1.Nghiên cứu của tác giả nước ngoài nước về người Khơ

Công trình của Bernard. N. viết về người Khas ở Lào năm 1904
và (Kha, người hoang dã ở Lào thuộc Pháp, Tạp chí Lịch sử - Les
Khâ, Peuple inculte du Laos Francais. Bull. hist. et descriptive,

1904). Học giả người Mỹ Frank Proschan, nghiên cứu về lịch sử tộc
người Khơ mú ở địa bàn Đông Dương qua báo cáo khoa học của ông
“Chương văn học dân gian, trong lịch sử và tiềm thức của người
Khơ mú” tại Hội thảo Thái học (Tai Study Worshop) năm 1990 ở
Băng Cốc (Thái Lan) đã liệt kê tài liệu về “nạn giặc Chương” diễn ra
tại một số địa phương của Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX.
Tác giả Henri Roux (1927) viết về Les tsa Khmu (Dân tộc XáKhơ mú). Tác giả đã đề cập đến nơi cư trú, những nét đặc trưng về
làng bản, nhân chủng, trang phục, trang sức, hôn nhân, tang ma, ngôn
ngữ, từ vựng, thuyết luân hồi của người Khơ mú ở Việt Nam.
Shomphra Xaiyamongkhoun (Lào) có công trình The Economic
System of the Mountainous People, Khmu Ethnic Minority, Din Dam
Village, Phabong Area, Nong Hed District, Xieng Khouang Province
(Hệ thống kinh tế của dân tộc Khơ mú làng Din Dam vùng Phabong
huyện Nong Hed, tỉnh Xiêng Khoảng). Tác giả đề cập đến việc canh
tác nông nghiệp truyền thống, canh tác nương rẫy, kỹ thuật làm vườn,
chăn nuôi gia súc, nghề thủ công truyền thống và giáo dục của người
Khơ mú.
Các công trình nghiên cứu về người Khơ mú của học giả nước
ngoài đã cung cấp tư liệu khái quát địa bàn cư trú, phương thức sản
xuất truyền thống, những nét văn hóa cơ bản của làng người Khơ mú
nhưng vẫn chưa có công trình nghiên cứu làm nổi bật văn hóa của
người Khơ mú cũng như nghiên cứu về Hôn nhân và Gia đình mang
tính chuyên khảo.
3


1.1.2. Nghiên cứu của tác giả trong nước về người Khơ mú

- Nghiên cứu về tộc người Khơ mú ở Việt Nam
Công trình Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt

Nam, (1963) của Vương Hoàng Tuyên, tên dân tộc Khơ mú lần đầu tiên
được công bố trong công trình sách và địa bàn cư trú sau giải phóng
(1954) và khái quát về nguồn gốc tộc người và khẳng định đây là tộc
người có nguồn gốc, văn hóa, địa bàn cư trú mang đặc trưng riêng.
Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt
Nam (1972) của nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn – Nguyễn Trúc
Bình – Nguyễn Văn Huy – Thanh Thiên, phần nghiên cứu về người
Khơ mú được tác giả Đặng Nghiêm Vạn biên soạn đã khái quát lịch
sử tộc người, phương thức sản xuất, phong tục tập quán, hôn nhân,
gia đình, dòng họ. Công trình Dân tộc Khơ mú của Khổng Diễn (Chủ
biên) năm 1999 là cuốn sách chuyên khảo về người Khơ mú…Những
công trình này đã khái quát lịch sử tộc người Khơ mú có mặt ở Việt
Nam khoảng thế kỷ XVII – XVIII.
Văn hóa vật chất của người Khơ mú ở Nghệ An của Trần Tất
Chủng nghiên cứu chuyên sâu dân tộc học về văn hóa vật chất của
người Khơ mú ở địa bàn tỉnh Nghệ An, đây là nguồn tư liệu giúp
NCS so sánh với người Khơ mú ở địa bàn Mai Sơn – Sơn La và hiểu
hơn được sự phong phú trong văn hóa của người Khơ mú ở Việt
Nam.
Các công trình trên tiếp cận văn hóa của tộc người Khơ mú cũng
mới chỉ ở góc độ phác họa, mang tính chất khái quát, chưa chuyên
sâu về Hôn nhân và Gia đình dưới góc độ Nhân học văn hóa nên vấn
đề Hôn nhân và Gia đình vẫn còn là khoảng trống cần được nghiên
cứu.
- Nghiên cứu về hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở
Việt Nam.
Nghiên cứu về Đặc trưng văn hóa và truyền thống cách mạng
các dân tộc ở Kỳ Sơn Nghệ An của Huyện ủy – Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân huyện Kỳ Sơn (1995) do tập thể tác giả của Viện
Dân tộc học biên soạn. Trong đó, Phạm Quang Hoan và Moong Văn
Nghệ có tư liệu khảo sát khá kỹ lưỡng về cấu trúc, loại hình và quan

4


hệ trong gia đình của tộc người Khơ mú. Tác giả đã đưa ra hai loại
hình gia đình, trong đó loại hình gia đình nhỏ (hạt nhân) là chủ yếu
và đã đưa ra các dạng thức của gia đình hạt nhân. Gia đình lớn vẫn
còn tồn tại nhưng là đại gia đình mở rộng. Gia đình theo chế độ phụ
hệ thể hiện qua quan hệ của chủ gia đình với các thành viên khác,
trong thừa kế tài sản.
Công trình Hôn nhân của người Khơ mú ở một địa bàn khác của
Tây Bắc là xã Nghĩa Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái của Trần Thị
Thảo năm 2010. Chuyên khảo này, tác giả đã đề cập đến tập tục, quan
niệm, lễ nghi hôn nhân truyền thống và những biến đổi trong hôn nhân
của người Khơ mú ở Nghĩa Sơn, Văn Chấn, Yên Bái.
Những nghiên cứu về người Khơ mú đến nay đã cung cấp các
thông tin từ góc độ tộc danh, dân số, địa bàn cư trú cho đến hoạt động
kinh tế truyền thống, các dạng thức văn hóa cổ truyền. Đây là nguồn tư
liệu giúp NCS có thêm cơ sở đối chứng, so sánh khi khảo cứu chuyên
sâu về Hôn nhân và Gia đình của người Khơ mú ở Sơn La (Tây Bắc) với
những nét riêng và tương đồng ở một địa bàn cụ thể. Tuy nhiên các vấn
đề hôn nhân truyền thống, gia đình truyền thống và biến đổi hôn nhân và
gia đình, nguyên nhân của sự biến đổi,v.v… cũng như những vấn đề
đang đặt ra về mặt chính sách, đóng góp cho Luật Hôn nhân và Gia
đình, xây dựng đời sống văn hóa là những vấn đề mới đặt ra trong tình
hình hiện nay. Đó cũng là khoảng trống cần được bù lấp. Do vậy, việc đi
sâu tìm hiểu một cách hệ thống mang tính chuyên sâu, có tính đa dạng
vùng và các địa phương về hôn nhân và gia đình của dân tộc Khơ mú
nói chung và Sơn la (Tấy Bắc) nói riêng trong bối cảnh hiên nay là hết
sức cần thiết và có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
1.2. Cơ sở lý thuyết về hôn nhân và gia đình

1.2.1. Khái niệm về hôn nhân

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Hôn nhân là thể chế xã hội
kèm theo nghi thức xác nhận quan hệ tính giao giữa hai hay nhiều
người thuộc hai giới tính khác nhau (nam, nữ), được coi nhau là
chồng và vợ, quy định mối quan hệ và trách nhiệm giữa họ với nhau
và giữa họ với con của họ. Sự xác nhận đó, trong quá trình phát triển
của xã hội, dần dần mang thêm những yếu tố mới.
5


Hôn nhân là hiện tượng xã hội – là sự liên kết giữa đàn ông và
đàn bà, được luật tục hoặc pháp luật thừa nhận để chung sống với
nhau xây dựng gia đình.
Ngoại hôn, người ta phải chọn người ngoài nhóm (dòng họ,
cộng đồng) để cưới. Hình thức hôn nhân này khá phổ biến khi xã hội
phát triển đến một giai đoạn nhất định trong xã hội loài người.
Hôn nhân hỗn hợp dân tộc là khái niệm dùng để chỉ sự kết hôn
giữa hai người khác giới không cùng dân tộc, tôn giáo.
Hôn nhân một vợ một chồng là hình thức hôn nhân giữa một
người đàn ông và một người đàn bà vào một thời điểm nhất định theo
luật tục, pháp luật quy định xuất hiện trong thời đại văn minh của xã
hội loài người.
1.2.2. Khái niệm về gia đình

Gia đình:Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam nêu rõ tại mục 2
của Điều 3: Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.
Gia đình hạt nhân: Là loại hình gia đình được tạo thành gồm hai

thế hệ: Cha mẹ và Con cái chưa lập gia đình. Mỗi thành viên của gia
đình hạt nhân nằm trong một loạt những quan hệ chuyển biến qua
thời gian với từng thành viên kia: giữa chồng với vợ, cha mẹ với con
cái, và giữa những người con với nhau.
Gia đình mở rộng: Là loại hình gia đình gồm ba thế hệ: Bố mẹ,
Con cái đã có vợ có chồng và Cháu sống chung với nhau.
1.2.3. Cơ sở lý thuyết về hôn nhân và gia đình

- Thuyết về chức năng (Chức năng luận)
Thuyết chức năng được áp dụng vào nghiên cứu mối quan hệ
trong hôn nhân, quan hệ giữa gia đình và xã hội :
Đó là mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa gia đình với các
yếu tố của cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, với các nhóm dân tộc hoặc
theo cơ cấu lãnh thổ. Nếu xét từ khía cạnh các lĩnh vực hoạt động của
gia đình có thể nói tới mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế với các lĩnh
vực đời sống văn hóa tinh thần, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, sinh
sản, điều kiện nhà ở, trang thiết bị, v.v...
6


Nhân học văn hóa xem xét trên tất cả các bình diện về hình thức
hôn nhân thông qua đó để thấy được mối quan hệ thân tộc, nội bộ dân
tộc và giữa các dân tộc thông qua vấn đề hôn nhân.
Hai chức năng cơ bản nhất của gia đình đối với xã hội là "tái tạo
ra một thế hệ mới" (bao gồm cả việc sinh đẻ và giáo dục đào
tạo) và "nuôi dưỡng, chăm sóc các thành viên trong gia đình". Hai
chức năng cơ bản này chi phối toàn bộ các chức năng khác của gia
đình (chức năng kinh tế, giao tiếp tinh thần, tổ chức thời gian rỗi, giải
trí…).
- Lý thuyết về biến đổi (change)

Hôn nhân và gia đình là đặc trưng cơ bản về văn hóa tộc người
luôn vận động và biến đổi. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, những giá trị văn
hóa có cách thức biểu đạt tương ứng và mỗi tộc người cũng có sắc
thái văn hóa riêng, song những giá trị đó không tách rời, riêng rẽ mà
nó như một dòng chảy có chiều sâu, chiều rộng, sự đan cài, hòa
quyện và tác động lẫn nhau trong một môi trường xã hội. Vì vậy, vận
dụng thuyết biến đổi văn hóa sẽ chỉ ra các mối quan hệ đa phương
trong quan hệ hôn nhân và gia đình của tộc người.
Vận dụng Thuyết Biến đổi là một căn cứ khoa học để quan sát
hiện tượng văn hóa hôn nhân và gia đình của người Khơ mú, giúp
NCS thấy được các yêu tố vận động bên trong và tác động từ bên
ngoài tạo ra những nét khác biệt so với các giá trị văn hóa truyền
thống mà nó vón có.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu, Luận án đã áp
dụng các phương pháp cơ bản: 1) Thu thập tài liệu thứ cấp; 2) Điền
dã dân tộc học/nhân học; 3) Điều tra, phỏng vấn các đối tượng cung
cấp thông tin bằng bảng hỏi.
1.4. Khái quát tộc người và điểm nghiên cứu
1.4.1. Khái quát về người Khơ mú ở Việt Nam và người Khơ mú ở
huyện Mai Sơn
“Khơ mú” là tộc danh chính thức, bên cạnh đó đồng bào còn có
nhiều tên gọi khác như Pu Thênh, Tày Hạy, Tềnh, Khmụ, Kừm mụ,
Xá cẩu.... Người Khơ mú có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ
7


Môn – Khơ me (thuộc dòng ngôn ngữ Nam - Á). Người Khơ mú di
cư từ Lào đến Việt Nam khoảng 100 - 200 năm, là cư dân làm nương
rẫy với nghề thủ công đan lát khá tinh xảo.

Vết tích tô tem giáo còn thể hiện khá rõ nét ở dòng họ của người
Khơ mú đều mang tên một loài vật, đồ vật hoặc cỏ cây. Hiện nay thì
người Khơ mú vẫn nhớ đến dòng họ của mình và nhận nhau là họ
hàng khi có cùng tổ tiên khi nói chuyện trong cùng tộc người, nhưng
trong giấy tờ nhân thân thì họ đã chuyển sang tên họ của người Thái
như họ Mè, Hoàng, Lò, Lường, Vi, Quàng…
Mai Sơn là một huyện thuộc tỉnh Sơn La, có 21 xã và 1 thị trấn Hát
Lót. Huyện lỵ đóng tại thị trấn Hát Lót. Khí hậu, thời tiết mang đặc
trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền núi Tây Bắc. Huyện Mai Sơn có
6 tộc người gồm Thái, Mông, Mường, Kinh, Khơ mú, Xinh mun sinh
sống xen cài đến tận xã, bản.
1.4.2. Đôi nét về điểm nghiên cứu

1.4.2.1. Bản Tra
Xã Chiềng Lương có 20 bản, trong đó 05 bản người Hmông,
1 bản người Xinh mun, 1 bản người Kinh, 1 bản người Khơ mú, 12
bản người Thái. Bản Tra của người Khơ mú cách Ủy ban nhân dân
xã 2,5 km. Hiện nay có 50 hộ gia đình (năm 2014) sinh sống và làm
nông nghiệp trồng ngô, mía, dong là chủ yếu.
1.4.2.2. Bản Co Chai
Xã Hát Lót có 5 dân tộc cư trú gồm 31 bản, trong đó có 9 bản
người Thái, 1 bản người Khơ mú còn lại các bản đều cư trú đan xen
giữa người Thái và người Kinh, Hmông.
Co Chai là bản người Khơ mú cư trú có tổng số 81 hộ (năm
2014), trong đó có 79 chủ hộ là người Khơ mú, 2 chủ hộ là người Thái
và người Dao. Trong 81 chủ hộ là người Khơ mú thì có 27 chủ hộ họ
Mè (Tmoong), 17 hộ họ Lò (Slooc), 14 chủ hộ họ Hoàng (Rvai), 10 chủ
hộ họ Quàng (Rvai), 8 chủ hộ họ Vì (Xi ôm), 3 chủ hộ họ Hùng (Cút), 1
chủ hộ họ Hà (người Thái), 1 chủ hộ họ Triệu (người Dao).
Kinh tế của người Khơ mú bản Co Chai chủ yếu làm nông

nghiệp nhưng đã thiên về xu hướng phục vụ thị trường nông sản.

8


CHƯƠNG 2
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI KHƠ MÚ
Ở HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
2.1. Hôn nhân truyền thống
2.1.1. Hôn nhân và những nghi lễ
2.1.1.1. Quan niệm về hôn nhân

Người Khơ mú quan niệm hôn nhân là quy luật của tạo hóa, mà
cái đích cuối cùng là nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh con duy trì nòi
giống của gia đình, họ hàng và xây dựng xã hội.
Trong gia đình người Khơ mú, khi có con đến tuổi trưởng thành,
ai cũng muốn kén được chàng rể hay cô dâu ưng ý. Đó là người có đủ
phẩm chất, những khả năng để chăm lo cho cuộc sống gia đình, dòng
họ. Cuộc sống chủ yếu là làm nông nghiệp nương rẫy, nên đối với
chàng trai là phải thạo các công việc tìm đất phát nương làm rẫy, săn
bẫy, đan lát, làm nhà...đây là tiêu chuẩn quan trọng đối với các chàng
trai đến tuổi trưởng thành. Tiêu chuẩn chọn một cô dâu hay người vợ
lý tưởng là người khéo léo lễ phép trong ứng xử, thạo việc nương rẫy,
chăm chỉ trong chăn nuôi, đảm đang trong nội trợ. Họ cho rằng, một
cô gái dù có thạo việc nương rẫy nhưng vụng không biết nội trợ thì
chưa đủ tiêu chuẩn là cô dâu tốt.
2.1.1.2. Các nguyên tắc trong hôn nhân

Trong hôn nhân người Khơ mú luôn coi trọng các nguyên tắc
truyền thống, đặc biệt là xem xét các huyết thống xa hay gần để

không phạm phải các điều cấm kỵ truyền thống tộc người đã đúc rút
truyền lại.
Nguyên tắc ngoại hôn dòng họ: Người Khơ mú nghiêm cấm
người cùng một dòng họ kết hôn với nhau, đây là nguyên tắc bất di
bất dịch. Nguyên tắc nội hôn tộc người, đồng bào cho rằng lấy người
khác tộc sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống gia đình cũng như
trong lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày, vì họ không biết
phong tục dân tộc mình, không biết thờ cúng ma nhà mình. Nguyên
tắc hôn nhân thuận chiều, đây là cơ sở hình thành ba mối quan hệ họ
hàng: Tai hem-mạ êm, dông êm-mạ cưn, dông quynh, tồn tại phổ biến
ở tất cả các bản của người Khơ mú. Theo phong tục, người nào vi
9


phạm nguyên tắc này sẽ bị dư luận chê cười, do phạm vào tục “quay
đầu lợn”, phá vỡ tập quán truyền thống.
2.1.1.3. Hình thức hôn nhân

Người Khơ mú tuân thủ theo chế độ hôn nhân một vợ một chồng
bền vững. Người chồng chỉ được phép lấy vợ lẽ khi người vợ cả chết
hoặc đôi vợ chồng này đã ly hôn. Trong bản Co Chai, bản Tra cho
đến nay chưa có trường hợp nào đa thê. Chỉ khi góa bụa thì người
còn sống được quyền đi bước nữa và được anh em họ hàng, dân bản
khuyến khích đi bước nữa hoặc đã ly dị thì việc lấy chồng, vợ tiếp
theo không cấm.
2.1.1.4. Tính chất hôn nhân

Hôn nhân truyền thống của người Khơ mú bị chi phối bởi tính
chất loại hình gia đình phụ quyền. Dù trai hay gái đến tuổi trưởng
thành đều được phép tự do tìm hiểu, yêu đương, nhưng cuộc hôn

nhân có thành hay không đều do cha mẹ quyết định. Nhằm đảm bảo
các nguyên tắc luật tục, tập quán pháp, trước khi quyết định hôn nhân
nên bố mẹ, họ hàng phải biết để xem xét vấn đề huyết thống xa hay
gần để tránh nhầm lẫn lấy phải họ hàng gần. Nếu phạm phải quy tắc
truyền thống sẽ không duy trì được nòi giống vì cận huyết.
2.1.1.5. Các trường hợp đặc biệt

Luật tục của người Khơ mú thừa nhận, nếu chồng chết, người vợ
được phép tái giá, vợ chết, chồng được phép lấy vợ kế. Ngoài việc
được thừa nhận hợp pháp, người ta còn khuyến khích người góa bụa
đi bước nữa. Theo quan niệm của họ, sở dĩ như vậy là khi vợ hoặc
chồng chết, “ma” sẽ quên hết việc trên trần gian, không ảnh hưởng
đến việc tái giá này.
2.1.1.6. Tục ở rể (rít veeh gut cămbrạ)

Người con rể phải ở bên nhà vợ sau lễ cưới ở rể. Thời gian ở rể tùy
thuộc vào thời gian bố vợ trước đây ở rể bao nhiêu năm thì rể cả cũng ở
tương đương, những người con rể thứ thì thời gian lùi đi 1 năm một theo
thứ tự lần lượt các con rể trong gia đình. Nếu thời gian ở rể quá lâu thì
nhà trai có thể thỏa thuận với nhà gái và ra quyết định trong lễ ăn hỏi.
Sau lễ cưới ở rể, chàng trai chính thức ở rể theo tập tục. Sau lễ cưới ở rể
10 ngày, nhà gái làm lễ nhập hồn chú rể vào gia đình nhà vợ. Trong thời
10


gian ở rể, nhà vợ đối xử bình đẳng và nhận được sự chú ý quan tâm của
nhà vợ.
2.1.1.7. Cư trú sau hôn nhân

Sau một thời gian ở rể như hai gia đình thỏa thuận, nhà trai tổ

chức lễ cưới đón dâu. Theo quan niệm của người Khơ mú, đây mới là
lễ cưới công nhận chính thức vợ chồng sau một thời gian chàng rể
được thử thách bên nhà vợ. Thời gian sống chung của đôi vợ chồng
trẻ bên nhà chồng không cố định thời gian cụ thể. Việc ở chung kết
thúc chỉ khi nào bố mẹ chồng cho rằng có đủ điều kiện kinh tế, nhà ở,
v.v…cho đôi trẻ ra ở riêng một cách thuận lợi nhất.
2.1.2. Các bước trong cưới hỏi
Đám cưới của người Khơ mú diễn ra trình tự theo các bước:Bước
tìm hiểu (Dụm), lễ dạm ngõ (Dông êm, mạ êm), lễ ăn hỏi (Dun thao
dun ke, lạ dông lạ mạ), lễ cưới ở rể (srông veech gút cămbrạ), lễ cưới
đưa dâu (Pưn đề glệ cămbrạ), lễ lại mặt (Gay hợp dông êm mạ êm)
2.2. Biến đổi trong hôn nhân của người Khơ mú ở bản Co Chai
và bản Tra
2.2.1. Thay đổi trong quan niệm, nhận thức về tìm hiểu và kết hôn
Độ tuổi kết hôn của người Khơ mú đã dần tuân theo Luật Hôn
nhân và Gia đình. Kết quả khảo sát năm 2014 cho thấy: Số người kết
hôn từ 18 tuổi đến 22 tuổi là 60%, từ 23 đến 30 tuổi là 22,2%, đây là
độ tuổi kết hôn tương đối muộn so với độ tuổi kết hôn trung bình của
các dân tộc thì người Khơ mú kết hôn độ tuổi này cũng chiếm con số
lớn. Nhưng kết hôn dưới 18 tuổi ở người Khơ mú hiện nay vẫn còn
và chiếm 17,8%.
Hiện nay, thời điểm tiến hành đăng ký kết hôn của người Khơ
mú thường diễn ra sau lễ ăn hỏi, trước khi cưới ở rể để chàng rể đến
ở nhà cô dâu, chung sống với cô dâu thì đã đăng ký kết hôn. Hôn
nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu tự nguyện của đôi trai gái có
sự tham khảo ý kiến của bố mẹ, họ hàng.
2.2.2. Lựa chọn bạn đời trong hôn nhân
Trước đây lựa chọn bạn đời của người Khơ mú chủ yếu trong
nội bộ tộc người, trong cùng bản. Hiện nay việc giao lưu, trao đổi
11



hàng hóa hằng ngày cùng với các phương tiện thông tin đại chúng
phát triển nên không gian giao tiếp nhất là lớp thanh niên mở rộng
hơn. Họ có nhiều bạn bè, trong, ngoài xã, cùng và khác dân tộc hơn
các lớp cao tuổi, thậm chí nhóm trung niên. Chính vì vậy, không gian
địa lý và đối tượng lựa chọn trong hôn nhân của thanh niên Khơ mú
ở địa bàn nghiên cứu được mở rộng hơn.
2.2.3. Quyền quyết định hôn nhân
Trước đây bố mẹ là người quyết định hôn nhân cho con cái, hiện
nay vai trò của bố, mẹ chỉ dừng ở mức độ góp ý khi con cái thưa
chuyện về việc họ tìm hiểu bạn đời của mình. Khi quyết định kết
hôn, các chủ thể của hôn nhân rất được tôn trọng. Trường hợp, do bố
mẹ giới thiệu nhưng cũng phải được sự đồng ý của con cái, nhưng
hiện nay ở cả hai bản là rất ít. Đa phần hiện nay, đôi trẻ quyết định.
Số liệu điều tra xã hội học cho thấy, 79/90 trường hợp là do đôi trẻ
quyết định là chính.
2.2.4. Nguyên tắc và hình thức kết hôn
Những người cùng họ, cùng chung ông tổ nhưng nhánh khác
được phép kết hôn. Nguyên tắc nội hôn tộc người đã có nhiều thay
đổi do kinh tế phát triển cùng với cư trú trong vùng người Khơ mú có
sự cộng cư của nhiều tộc người khác.
Tục ở rể giản tiện hơn so với truyền thống. Đa số các chàng rể,
sau lễ tiễn ở rể, chỉ ở lại nhà bố mẹ vợ vài ba tháng là xin phép tổ
chức đám cưới đón cô dâu về. Có trường hợp sau lễ tiễn ở rể, chàng
rể không ở hẳn bên nhà vợ, được bố mẹ vợ cho phép đi lại để giúp đỡ
hai bên gia đình đến khi tổ chức đám cưới.

12



CHƯƠNG 3
GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI KHƠ MÚ Ở HUYỆN MAI SƠN,
TỈNH SƠN LA
3.1. Gia đình truyền thống của người Khơ mú
3.1.1. Phân loại gia đình và cấu trúc gia đình
Loại hình gia đình phổ biến của người Khơ mú là gia đình phụ
hệ với 2 loại hình là Tiểu gia đình (gia đình hạt nhân) và Đại gia đình
(gia đình mở rộng).
Cấu trúc đơn giản nhất là gia đình gồm một cặp vợ chồng và con
cái hoặc bố mẹ, em trai, gái chưa lấy vợ hay lấy chồng. Dạng phức
tạp hơn gồm các cặp vợ chồng và con cái của các anh, em trai cùng
cha mẹ già yếu và các em trai chưa vợ, em gái chưa chồng sống trong
một mái nhà, các thành viên ứng xử theo quan hệ luật tục và cùng
làm chung, ăn chung.
3.1.2. Gia đình hạt nhân và quy mô

Gia đình hạt nhân hình thành sớm và tồn tại song song với gia đình
mở rộng. Tập quán truyền thống của người Khơ mú trong gia đình
không nhất thiết các con trai phải ở cùng bố mẹ. Họ quan niệm chỉ con
trai cả ở cùng bố mẹ để làm nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc bố mẹ khi
già yếu, thờ cúng tổ tiên khi bố qua đời nên con trai cả hay con trai duy
nhất trong gia đình sẽ ở cùng bố mẹ và được hưởng nhà cửa, ruộng
nương, ao cá, trâu bò của bố mẹ.
3.1.3. Gia đình mở rộng và quy mô

Gia đình mở rộng gồm từ 3 thế hệ trở lên. Đối với người Khơ mú,
gia đình mở rộng tuy không phải loại hình phổ biến nhưng luôn tồn tại
song song với gia đình hạt nhân. Bên cạnh đó, còn có trường hợp nhiều
thế hệ sinh sống trong một gia đình với thế hệ con cái có nhiều cặp gia

đình cùng chung sống.
Người Khơ mú muốn có nhiều con để có nhiều lao động và có
người nuôi dưỡng khi cha mẹ lúc già yếu. Họ muốn sinh được cả con
trai và con gái. Thực tế trong gia đình người Khơ mú, thái độ quan
tâm chăm sóc con trai con gái như nhau.
13


3.1.4. Chức năng của gia đình
Chức năng tái sản xuất con người: Đối với mỗi gia đình người Khơ mú,
sự mong muốn nhiều con là nhu cầu thực tế. Bởi vì, không chỉ là vấn đề
tăng nhân lực lao động mà sâu xa hơn, một đứa trẻ ra đời là sự kiện quan
trọng đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi thành viên trong gia đình
và cả cộng đồng, góp phần làm thay đổi quy mô gia đình về số lượng, vị thế
và uy tín gia đình đối với cộng đồng xã hội.
Chức năng kinh tế: Cơ sở kinh tế chủ yếu đảm bảo cho đời sống gia
đình của người Khơ mú là sở hữu nhiều đất canh tác nương rẫy. Diện tích
đất sở hữu nhiều hay ít phụ thuộc vào số thành viên và số lao động của gia
đình. Ngoài trồng trọt, các gia đình còn chăn nuôi gia súc, gia cầm. Sản
phẩm chăn nuôi là một trong những tiêu chuẩn đánh giá sự giàu có của mỗi
gia đình.
Chức năng giáo dục:Trong xã hội truyền thống của người Khơ mú, khi
mối quan hệ xã hội chưa rộng lớn, hệ thống giáo dục nhà trường chưa chiếm
vị trí quan trọng thì chức năng giáo dục của gia đình đối với con cháu gần
như độc tôn, khuôn mẫu ứng xử được uốn nắn theo luật tục được gia đình
truyền đạt lại. Như vậy, các thế hệ người Khơ mú trong gia đình được lĩnh
hội, kế thừa được những tri thức dân gian, truyền thống văn hóa quý báu của
tộc người.

3.1.5. Quan hệ trong gia đình

Người cha hoặc người con trai lớn luôn là người chủ gia đình,
điều hành mọi công việc trong nhà, trong sản xuất, phụ trách cúng tế
và cũng là người thay mặt gia đình trong quan hệ với dòng họ, làng
bản. Mọi tài sản trong gia đình như nhà cửa, ruộng nương, trâu bò...
đều do người chủ gia đình quản lý và chịu trách nhiệm. Trong gia
đình (trước hết là bố mẹ) thường bàn bạc với nhau để có quyết định
các vấn đề thuộc về đời sống gia đình.
Quan hệ giữa bố mẹ và con cái của người Khơ mú ở Co Chai và
bản Tra (huyện Mai Sơn) là quan hệ ứng xử giữa các thế hệ và vị thế
trong gia đình thân thiết, yêu thương, kính trọng, lễ phép. Con cái là
niềm an ủi, hạnh phúc và mong ước của bố mẹ.
3.1.6. Tập quán, nghi lễ gia đình
14


Tập quán sinh đẻ :Nếu phụ nữ có thai trong nhà bố mẹ đẻ, tức
trong thời gian chàng trai đang đi ở rể thì người phụ nữ đó kiêng
không được qua lại nhà chàng trai đến khi được tổ chức cưới đón
dâu. Chỉ có bố mẹ, họ hàng nhà trai muốn đến thăm và chăm nom
con dâu thì đến nhà bố mẹ cô gái để thăm. Thời gian ở cữ của sản
phụ họ sẽ kiêng không cho người lạ vào nhà.
Nghi lễ xin con nuôi :Hai bên thỏa thuận trước, đến khi đứa trẻ
lọt lòng mẹ thì bố mẹ nuôi đến nhận và đón về làm lễ đặt tên, lấy
theo họ bố nuôi, cúng ma nhà cho phép nhập hồn và họ của con vào
dòng họ.
3.2. Biến đổi gia đình của người Khơ mú
Theo số liệu điều tra năm 2012, gia đình hạt nhân và gia đình mở
rộng song song tồn tại, trong đó chủ yếu là gia đình hạt nhân nhưng
số lượng nhân khẩu trong gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng có
những thay đổi từ chính sách kế hoạch hóa gia đình. Quy mô gia đình

mở rộng không có tính duy trì lâu bền bởi có những gia đình mở rộng
là do tập quán trước khi con gái kết hôn thường có phong tục ở rể,
trước khi đến ở rể thì đôi trẻ phải đăng ký kết hôn, chính vì vậy mà
số cặp và số thế hệ trong gia đình tăng lên, nhưng sau khi hết thời
gian ở rể, cô dâu được cưới về nhà chồng thì gia đình đó lại trở lại
gia đình hạt nhân.
Quan hệ trong gia đình: Người chồng và họ nhà chồng luôn
được coi trọng ngay cả trong cúng tế, hay thờ cúng tổ tiên. Có nhiều
gia đình không có con nhưng họ vẫn sống với nhau hòa thuận và xin
con nuôi. Qua khảo sát, ở bản Co Chai tính đến thời điểm nghiên cứu
(năm 2014) có đến 10 gia đình không sinh được con hoặc không sinh
được con trai đã xin con về nuôi.
Người vợ trong gia đình không bị đối xử miệt thị mà còn có phần
tương đối bình đẳng trong hành xử thường nhật, nhưng trong chia tài
sản thì họ không được tham dự. Nguyên nhân người phụ nữ không
được tham dự trong chia tài sản có nhiều lý do, trong đó có lý do vì
15


những thủ tục trong cưới hỏi. Việc phải tốn một khối lượng của cải
trong nghi lễ hôn nhân để đưa người phụ nữ về nhà mình, khi về nhà
chồng thì đến khi chết cũng là ma ở nhà chồng.
Sự tiến bộ của xã hội đã làm địa vị người phụ nữ Khơ mú trong
gia đình rõ nét hơn nhưng bên cạnh đó cũng có những tác động làm
cho quan hệ gia đình khó bền chặt: Nếu trước kia bạo lực gia đình
người Khơ mú là hiếm thì ngày nay hiện tượng này nhiều hơn và
nguy hiểm hơn, do người chồng uống rượu, nghiện hút hoặc ghen
tuông.

16



CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
4.1. Kết quả nghiên cứu về hôn nhân và gia đình người Khơ mú
4.1.1. Về hôn nhân
Hình thức hôn nhân một vợ một chồng trên cơ sở tự nguyện
xuất phát từ tình yêu nam nữ là chủ đạo. Và người con trai sẽ là
người chủ động đầu tiên trong bước tìm hiểu và đặt vấn đề xây dựng
gia đình. Trai, gái đến tuổi trưởng thành được tự do tìm hiểu bạn đời,
và giữ vai trò quyết định. Bố, mẹ giữ vai trò định hướng cho con cái
trong tìm hiểu và nhắc nhở, hay xem xét đến quan hệ dòng họ của đôi
lứa để tránh những cấm kỵ liên quan đến luật tục.
4.1.2. Về gia đình
Gia đình người Khơ mú là gia đình phụ quyền với hai loại hình
hạt nhân và mở rộng song song tồn tại. Tuy tục ở rể là vẫn tồn tại ở
cả hai cộng đồng được nghiên cứu, nhưng không đậm nét. Ở gia đình
truyền thống, trước giải phóng (1954), thậm chí đến những năm trước
định canh định cư (1968), một số gia đình ở bản Co Chai không tồn
trại tình trạng khi chàng trai đi ở rể phải đổi họ mà chỉ làm lễ nhập
hồn để con rể thuần tính nết khi chung sống với nhà vợ và tổ tiên nhà
vợ sẽ phù hộ không ốm đau, tai nạn. Khi gia đình nhà trai tổ chức
cưới đón dâu về nhà chồng thì sau 10 ngày nhà trai cũng làm lễ nhập
vía cô dâu vào dòng họ nhà chồng và tập tục này tồn tại đến ngày
nay. Con cái sinh ra mặc dù khi thời gian bố còn ở rể vẫn lấy theo họ
bố. Gia đình hỗn hợp dân tộc, con cái cũng luôn lấy theo họ bố.
4.2. Bàn luận
4.2.1. Về hôn nhân của người Khơ mú

Đồng bào Khơ mú sống thành cộng đồng kết cấu thành bản với

nghề nghiệp chủ yếu trong một bản đa số cư dân sống bằng nông
nghiệp nương rẫy. Tuy phương thức canh tác so với truyền thống
trước đây không có nhiều biến chuyển vì cuộc sống dựa vào điều
kiện tự nhiên, lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế chính, nhưng nếu
trước đây nông nghiệp để phục vụ cuộc sống tự cung tự cấp thì nay
các sản phẩm thu hoạch chính của vụ mùa chủ yếu cung cấp hàng
hóa nông phẩm, nguyên liệu cho thị trường nhưng vẫn còn manh
17


mún, chưa đạt hiệu suất kinh tế cao. Nhưng đây cũng là điều kiện
đồng bào tiếp xúc với thị trường, xã hội và các thông tin đại chúng
rộng rãi hơn. Chính vì vậy, cách thức, nguyên tắc trong hôn nhân,
cách ứng xử, chức năng gia đình cũng có những biến đổi nhất định.
Hôn nhân là dấu mốc cho mỗi một con người bắt đầu cuộc sống
mới với một vai trò mới, vai trò làm chủ cuộc sống, làm chủ kinh tế.
Bên cạnh đó còn là dấu mốc bắt đầu trách nhiệm của mình đối với
bản thân, dòng họ và cộng đồng tộc người. Hôn nhân ngoài hai người
nam và nữ thỏa thuận chấp nhận nhau thì còn có sự công nhận của
người thứ ba là dòng họ và cộng đồng làng bản. Những niềm hạnh
phúc của hôn nhân mong cầu sự sinh sôi nẩy nở duy trì nòi giống,
liên minh họ hàng, mở rộng mối quan hệ, nên để đánh dấu sự kiện
này, mỗi tộc người đã vinh danh mối nhân duyên này bằng hệ thống
những nghi lễ vừa mang tính linh thiêng vừa mang tính cộng đồng.
Nhưng để phù hợp với mỗi hoàn cảnh, điều kiện cư trú, quan niệm
nên những nghi lễ hôn nhân của người Khơ mú có những nét độc đáo
riêng mà không bị Thái hóa khi sống xen cài với tộc người Thái là
tộc người đa số trong vùng.
4.2.2. Về gia đình người Khơ mú
Trải qua quá trình di cư, tụ cư, những biến đổi đó đang từng

bước góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú, mang đậm bản sắc đời
sống tinh thần của dân tộc Khơ mú, kết hợp hài hòa giữa đời sống vật
chất và tinh thần làm giàu thêm bản sắc của dân tộc Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2.3. Nhìn lại việc áp dụng thuyết chức năng và thuyết biến đổi trong
nghiên cứu
Sau hôn nhân, gia đình được thiết lập với tư cách một cấu trúc
chỉnh thể - tế bào của xã hội. Trong gia đình hay dòng họ, hôn nhân
luôn phải tuân thủ nguyên tắc là những người không cùng tô tem, vật
tổ để đảm bảo duy trì nòi giống (chức năng sinh học). Tập quán ướm
hỏi họ hàng trước khi cưới luôn duy trì là hoạt động loại trừ nhầm lẫn
của các cặp kết hôn liên quan đến cùng họ hàng và kiêng kỵ cùng tô
tem (cùng họ Tmoong nhưng tô tem khác vẫn lấy được nhau, như đã
dẫn dụ trường hợp bản Co Chai, ở chương 3).
18


Chức năng giáo dục và cố kết trong gia đình, dòng họ và cộng
đồng thể hiện trong văn hóa Khơ mú không đơn thuần là giáo dục về
quan hệ giao tiếp xã hội hay ngôn ngữ mà chính là trao truyền kiến
thức, tập quán, phong tục của tộc người cho thế hệ sau.
Chức năng tương trợ và bảo tồn văn hóa tộc người. Gia đình có
vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục nhân cách con người. Ở đó,
văn hóa gia đình (nhân cách và thói quen ứng xử, tập quán lễ nghi,
ngôn ngữ mẹ đẻ, v.v…) được vun đắp, nuôi dạy trong mối liên hệ
chặt chẽ khi con người đó trở thành thành viên chính thức của cộng
đồng, họ đã được tích nạp các yếu tố văn hóa tộc người. Cùng với
những hoạt động lễ nghi văn hóa, thực hành các hành vi văn hóa tộc
người đã góp phần bảo tồn văn hóa của người Khơ mú. Thông qua
các lễ nghi gia đình về chu kỳ đời người như: đám ma, đám cưới, làm

nhà, sinh đẻ, hay hoạn nạn thì việc tương trợ được thực thi. Đây
không chỉ là việc của gia đình mà của cả dòng họ và cộng đồng.
Tóm lại, có thể nói rằng, việc áp dụng thuyết chức năng luận
trong phân tích, nhận diện thực trạng và xu hướng hôn nhân, gia
đình của người Khơ mú qua các điểm nghiên cứu cụ thể là rất bổ
ích trong giải thích vai trò, ý nghĩa khoa học và thực tiễn đối với
quản lý xã hội và thực thi pháp luật trong bối cảnh mới, nhất là
luật hôn nhân và gia đình vùng dân tộc thiểu số.
Việc áp dụng thuyết biến đổi cho thấy một điểm nổi bật nhất đó
là sự tiếp nhận các yếu tố mới dựa trên sự kế thừa yếu tố truyền
thống. Các lễ nghi, sinh hoạt, hưởng thụ văn hóa và ứng xử của các
thế hệ trong gia đình tuy không nặng nề giữ nguyên cung cách xưa cũ
nhưng vẫn được gìn giữ.
4.3. Nguyên nhân của sự biến đổi hôn nhân và gia đình của người
Khơ mú
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước đã
quyết tâm xây dựng một mô hình gia đình mới phù hợp với cuộc
sống mới và chế độ xã hội mới. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa năm 1946 công nhận nam nữ bình quyền. Luật hôn nhân và
Gia đình năm 1960 thể hiện quyền bình đằng, dân chủ hơn trong lĩnh
vực hôn nhân, gia đình trong đó không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn
19


giáo và giai tầng xã hội. Dân tộc Khơ mú cũng như các dân tộc thiểu
số khác đã được hưởng lợi từ các chính sách phát triển kinh tế- xã hội
trong đó có chính sách hôn nhân và gia đình.
Những chính sách quan tâm của Nhà nước đối với vùng dân tộc
thiểu số, vùng miền núi. Những yếu tố đó đã tác động đến tư duy,
nhận thức của họ về quan niệm và nội dung liên quan đến hôn nhân

và gia đình.
Kinh tế hàng hóa, mối quan hệ được mở rộng nhờ cơ sở hạ tầng:
điện, đường, trường trạm được xây dựng. Mức độ hưởng thụ văn hóa
của người dân ở Co Chai và bản Tra qua các phương tiện thông tin
đại chúng được mở rộng dẫn đến những thay đổi trong hôn nhân của
người Khơ mú nơi đây, đặc biệt từ sau Đổi mới (1986) đến nay.
4.4. Một số kiến nghị
Về quan điểm nhận thức. Vấn đề thực hiện Luật Hôn nhân và
Gia đình ở các cộng đồng Khơ mú trong bối cảnh hiện nay phải có sự
cân nhắc cẩn trọng trong khâu tổ chức, thực hiện. Trước hết là tuyên
truyền, giải thích luật từ các kênh truyền thông đại chúng nhiều hơn
nữa, đồng thời, huy động, khai thác các đơn vị tư vấn pháp luật miễn
phí thông qua tổ chức Hội Luật gia địa phương đối với cộng đồng
Khơ mú. Vấn đề thủ tục đăng ký kết hôn theo Luật: Về độ tuổi của
các cặp đôi nam nữ khi đến thời điểm đăng ký phải có sự du di và
linh động, phần lớn do họ chưa đủ tháng. Vì phải so tuổi, cưới lấy
tuổi, hoặc để lấy ngày cưới cho đẹp theo phong tục. Đôi khi, đám
cưới tổ chức xong tháng này, sang tháng sau mới đến UBND xã đăng
ký kết hôn. Vì vậy, nếu phải chịu phạt hoặc gặp phải khó khăn trong
thủ tục sẽ gây tâm lý không tốt trong tuyên truyền, phổ biến luật.
Vấn đề thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ thuộc quan hệ gia
đình của các bên liên quan trong phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn
nhân và Gia đình. Ở đây theo chúng tôi, vấn đề chính sách an sinh xã
hội đối với người cao tuổi cần được đặc biệt quan tâm. Theo phong
tục, từ xưa đến nay người Khơ mú vẫn muốn sinh con trai hoặc nhận
con trai làm con nuôi để nương tựa tuổi già (ít khi ở cùng gia đình
con gái, trừ có rể đời). Đó là truyền thống tốt đẹp, khi hết sức lao
20



động, ốm đau “ già cậy nhờ đến con cái”. Qui định hiện hành người
ngoài 80 được ưu đãi đối với các dân tộc là chưa phù hợp. Vì thực tế,
điều kiện sống và lao động ngoài 60 tuổi phần nhiều là sức khỏe ốm,
yếu, bệnh tật. Do đó, trợ cấp xã hội cho người cao tuổi với các dân
tộc trong đó có người Khơ mú nên bắt đầu ở tuổi 70 hoặc 75 tuổi, và
chế độ được chuyển về gia đình nuôi dưỡng có người bảo lãnh.
Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và yếu tố văn hóa
truyền thống tốt đẹp trong quản lý xã hội đối với dân tộc Khơ mú.
Việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình nói riêng và các bộ luật
khác cũng như các chính sách sinh đẻ, kế hoạch hóa gia đình, thực
hiện chính sách an sinh xã hội,v.v… phải được nhìn trong mối quan
hệ mang tính hệ thống và tổng thể. Phát huy vai trò hệ thống chính trị
cơ sở, các ban ngành đoàn thể, mặt trận trong xây dựng nông thôn
mới ở các bản làng là hết sức quan trọng.

21


KẾT LUẬN
“ Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La” là một hiện tượng đặc trưng của văn hóa tộc người. F.
Ăng nghen khi đền cập đến “nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước” là một cách tiếp cận kinh điển để nhận diện sự
tiến hóa của xã hội loại người, trong đó ông phát hiện vai trò quan
trọng của hai quy luật đối với sự tiến hóa đó là: Quy luật được tao ra
bởi sự phát triển của sức sản xuất và Quy luật diễn tiến của các hình
thái hôn nhân và gia đình. Hôn nhân và gia đình của cộng đồng Khơ
Mú ởhuyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nước ta trước và sau năm 1986 đến
nay với những giá trị truyên thống và đổi mới là một bộ phận của văn
hóa Việt Nam, phản ánh nhiều giá trị lịch sử, xã hội, kinh tế, quan hệ

tộc người.
1. Cộng đồng Khơ mú được NCS chọn điểm nghiên cứu của
luận án ở các xã Chiềng Lương và Hát Lót, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La là hai nhóm cộng đồng có quan hệ gần gũi. Ngoài quan hệ về
dòng họ, hai nhóm cộng đồng Khơ mú còn có quan hệ hôn nhân và
các lễ nghi khác về mặt tộc người có nhiều nét tương đồng (các bước
hôn nhân, tục ở rể, vai trò ông cậu, và các qui định của luật tục). Bên
cạnh đó, so với các nhóm Khơ mú ở các địa phương trong và ngoài
tỉnh ở 2 cộng đồng Co Chai và bản Tra lại có những nét khác biệt
trong nghi lễ cưới xin và phạm vi quan hệ hôn nhân. Trước đây, quan
hệ hôn nhân ngoài dòng họ vẫn là chủ đạo, song do cư trú biệt lập và
áp lực dân số gia tăng, quan hệ hôn nhân không mở rộng với các dân
tộc Kinh, Thái, Xinh Mun tại địa bàn, nên việc hôn nhân của hai
nhóm cộng đồng đã phải chấp nhận giữa các chi khác trong cùng
dòng họ với tô tem chung.
2. Các hình thức, nguyên tắc, đặc điểm và tính chất mang dấu
ấn hôn nhân của hai nhóm Co Chai và bản Tra qua giai đoạn khác
nhau gắn liền với quá trình tộc người Khơ mú. Hôn nhân của người
Khơ mú ở hai nhóm cộng đồng nghiên cứu là dựa trên tự nguyện.
Hình thức hôn nhân một vợ một chồng bền chặt. Hôn nhân truyền
thống dựa trên qui định và sự điều phối của luật tục. Mặc dù là bất
22


thành văn, song việc thực hiện luật tục cộng đồng và dòng họ đối với
các thành viên của các quan hệ trong tổ chức phi quan phương này lại
rất nghiêm túc và chặt chẽ.
3. Cùng với quá trình giao lưu văn hóa, tác động của các chính
sách phát triển kinh tế- xã hội và các chính sách dân tộc khác nữa của
Đảng và Nhà nước, hôn nhân hỗn hợp tộc người được mở rộng trong

hơn 20 năm qua. Mối quan hệ hôn nhân Khơ mú – Khơ mú truyền
thống đã mở rộng sang quan hệ hôn nhân Khơ mú - Thái, Khơ mú –
Kinh, Dao – Khơ mú. Đây là xu hướng tất yếu của quá trình giao lưu
và tiếp xúc văn hóa giữa các tộc người trong bối cảnh mới.
4. Gia đình Khơ mú truyền thống là gia đình theo chế độ phụ
hệ. Quan hệ gia đình vẫn dựa trên sự điều phối các hoạt động văn
hóa, xã hội và kinh tế của loại hình gia đình này. Vai trò chủ gia đình
truyền thống vẫn chi phối mạnh trong các hoạt động điều hành quan
hệ xã hội - kinh tế và các chức năng khác. Nhưng sau chính sách định
canh, định cư (1968) và nhất là từ sau đổi mới (1986) đến nay, dưới
tác động của những biến đổi về kinh tế - xã hội, loại gia đình nhỏ phụ
quyền vẫn chiếm đa số. Sự biến đổi về chức năng xã hội, giáo dục
con cái, chức năng sinh sản cho thấy vai trò người phụ nữ, người vợ,
người mẹ và con gái của gia đình Khơ mú là rõ rệt. Phân công lao
động theo giới vẫn hiện hữu, nhưng việc chia sẻ các loại hình công
việc giữa người đàn ông với người vợ trong công việc của gia đình là
rất tích cực; sinh đẻ ít đi để đảm bảo sức khỏe và thời gian sinh hoạt
xã hội cho nữ giới là tiến bộ của xã hội mang lại cho người phụ nữ
Khơ mú, v.v…
5. Xu hướng hôn nhân khác tộc người mở rộng. Quan hệ giao
tiếp và chia sẻ văn hóa, ngôn ngữ diễn ra ngay trong gia đình mở
rộng hay gia đình hạt nhân hỗn hợp tộc người. Con cái trong gia đình
có các dòng máu khác tộc được hình thành qua các cặp hôn nhân hỗn
hợp tộc người.
Điều quan trọng hơn cả là ngay trong quan hệ hôn nhân, hình thức
hôn nhân và các quan hệ gia đình Khơ mú ở Co Chai và bản Tra đã có
sự điều phối hoàn toàn của Luật Hôn nhân và gia đình tiến bộ. Nói cách
khác, mặc dù vẫn có sự chi phối của các quan hệ luật tục trong hôn nhân
23



×