Tải bản đầy đủ (.pdf) (200 trang)

Nghi lễ của người hà nhì ở huyện bát xát, tỉnh lào cai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7 MB, 200 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ LAN

NGHI LỄ CỦA NGƯỜI HÀ NHÌ
Ở HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY

Chuyên ngành
Mã số

: Nhân học
: 62.31.03.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.PGS.TS. NGUYỄN VĂN MINH
2.TS. TRẦN HỒNG HẠNH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận án tiến sĩ “Nghi lễ của người Hà Nhì ở huyện
Bát Xát, tỉnh Lào Cai hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả trong luận án là trung thực, các trích dẫn trong công trình
đầy đủ và chính xác. Nếu có gì sai phạm, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 5 tháng 4 năm 2016
Nghiên cứu sinh



Trịnh Thị Lan

i


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận án tiến sĩ với đề tài “Nghi lễ của người Hà Nhì ở
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai hiện nay”, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ to lớn và quý báu của tập thể giáo viên hướng dẫn:
PGS. TS. Nguyễn Văn Minh và TS. Trần Hồng Hạnh. Nhân dịp này, tôi xin
được bày tỏ sự kính trọng và biết ơn của mình tới hai thầy cô.
Tôi cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới tập thể các Giáo sư, Tiến sĩ
là giảng viên Khoa Dân tộc học, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam nói
riêng và các Giáo sư, Tiến sĩ, cán bộ, viên chức của Học viện Khoa học Xã
hội Việt Nam nói chung đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu
thời gian qua.
Để có thể hoàn thành luận án này, tôi cũng đã nhận được sự động viên,
khuyến khích, chia sẻ và góp ý của các đồng nghiệp Viện Dân tộc học, các
anh, chị, em, bạn bè và gia đình. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ quý báu đó.
Những lời tri ân sâu sắc cũng xin được dành cho các cán bộ và đồng
bào người Hà Nhì ở Lào Cai cũng như các địa phương khác đã giúp đỡ, cung
cấp những tư liệu quý báu để tôi có thể hoàn thành luận án này.
Một lần nữa, tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 5 tháng 4 năm 2016
Tác giả luận án

Trịnh Thị Lan


ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................... ii
MỤC LỤC ......................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................... v
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................... vi
MỞ ĐẦU ............................................ 1
Chương 1 ............................................ 5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ................. 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................... 5
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu.................. 12
1.3. Khái quát về địa bàn và đối tượng nghiên cứu ................ 21
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................ 38
Chương 2 ........................................... 40
NGHI LỄ TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƯỜI ................... 40
2.1. Nghi lễ trong sinh đẻ và chăm sóc trẻ nhỏ ................... 40
2.2. Nghi lễ trong hôn nhân ............................... 53
2.3. Nghi lễ trong tang ma ................................ 61
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................ 71
Chương 3 ........................................... 74
NGHI LỄ THỜ CÚNG TỔ TIÊN, NGHỀ NGHIỆP VÀ CẦU AN
TRONG GIA ĐÌNH ................................... 74
3.1. Nghi lễ thờ cúng tổ tiên ............................... 74
3.2. Nghi lễ nghề nghiệp ................................. 83
iii



3.3. Nghi lễ cầu an trong gia đình ........................... 92
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................ 97
Chương 4 ........................................... 99
NGHI LỄ CỘNG ĐỒNG ................................ 99
4.1. Công tác chuẩn bị ................................... 99
4.2. Các nghi lễ cộng đồng ............................... 102
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ............................... 125
Chương 5 .......................................... 126
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ............................. 126
5.1. Kết quả......................................... 126
5.2. Bàn luận ........................................ 130
5.3. Một số kiến nghị về bảo tồn, phát huy các giá trị của nghi lễ trong bối
cảnh hiện nay ....................................... 143
TIỂU KẾT CHƯƠNG 5 ............................... 145
KẾT LUẬN ........................................ 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................. 152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................ 161

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CP

Chính phủ

CT


Chỉ thị

BVHTT

Bộ Văn hóa Thông tin



Nghị định

TT

Thông tư

TW

Trung ương

Nxb

Nhà xuất bản

UBND

Uỷ ban nhân dân

v


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1:

Dân số và địa bàn cư trú của người Hà Nhì ở Việt Nam

Bảng 2:

Lịch 12 con giáp của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Hà Nhì là một trong 6 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng Miến ở nước ta hiện còn bảo lưu được nhiều nét văn hóa truyền thống tộc
người. Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, người Hà Nhì
có 21.725 người, cư trú chủ yếu ở dọc biên giới Việt - Trung và Việt - Lào,
thuộc 3 tỉnh Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên. Cho đến nay, đã có một số
nghiên cứu về người Hà Nhì, nhưng vẫn chưa có công trình nào đề cập tương
đối chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về nghi lễ của dân tộc này.
Nghi lễ là một bộ phận quan trọng của văn hóa tinh thần và đời sống
tộc người, thường biến đổi chậm hơn so với một số thành tố văn hóa khác.
Nghi lễ cũng là môi trường sản sinh, tích hợp, bảo tồn và trao truyền nhiều giá
trị văn hóa dân tộc. Thông qua các sinh hoạt của nghi lễ, một phần tri thức tộc
người được duy trì, sáng tạo, trao truyền giữa các thế hệ trong gia đình, cộng
đồng và lan tỏa sang những cộng đồng khác. Tính cố kết dân tộc, cộng đồng
và gia đình một phần cũng được thể hiện qua niềm tin và cách thức thực hành
nghi lễ của cộng đồng, dòng họ, gia đình hoặc cá nhân. Như vậy, nghi lễ là
một trong những thành tố văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa tộc người,
nghiên cứu về nghi lễ sẽ góp phần vào việc bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống tộc người còn phù hợp với xã hội hiện tại theo tinh thần

Nghị quyết TW 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Hiện nay, nhiều thôn bản của người Hà Nhì nằm trong khu vực biên
giới tiếp giáp với Trung Quốc và Lào. Do đó, đồng bào vẫn giữ mối quan hệ
đồng tộc ở bên kia biên giới thông qua các quan hệ thân tộc và trao đổi hàng
hóa. Qua đó, mối quan hệ liên và xuyên biên giới của tộc người này, đặc biệt
1


với những người đồng tộc, ngày càng trở nên chặt chẽ. Tuy nhiên, điều này
cũng làm nảy sinh một số yếu tố nhạy cảm có nguy cơ ảnh hưởng phức tạp
đến an ninh xã hội vùng biên giới và công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước ta ở vùng người Hà Nhì trong bối cảnh hiện nay. Do vậy, việc
nghiên cứu về người Hà Nhì ở Việt Nam hiện nay nói chung và nghi lễ nói
riêng có ý nghĩa quan trọng, góp phần nhận biết rõ hơn các mối quan hệ và
giao lưu văn hóa của tộc người này ở trong và ngoài nước; qua đó, góp phần
phát triển tốt hơn mối quan hệ tộc người đảm bảo sự ổn định an ninh chính trị
vùng biên cương Tổ quốc.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc giao lưu, tiếp biến văn hóa đã
và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến đời sống của các tộc
người. Cũng như các tộc người khác, văn hóa của người Hà Nhì nói chung và
nghi lễ nói riêng có sự biến đổi nhất định. Do vậy, cần thiết thực hiện những
nghiên cứu tương đối toàn diện và chuyên sâu nhằm tăng cường sự hiểu biết và
cung cấp những luận cứ khoa học cho việc tham khảo nhằm xây dựng các
chính sách, giải pháp để xây dựng đời sống văn hóa mới nói chung, văn hóa
tâm linh nói riêng phù hợp với thực tiễn của người Hà Nhì ở nước ta trong bối
cảnh mới hiện nay.
Trên những cơ sở nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Nghi lễ của người
Hà Nhì ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai hiện nay” làm luận án tiến sĩ ngành
Nhân học.


2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án này tập trung giải quyết một số mục tiêu nghiên cứu chính sau:
- Tìm hiểu một cách tương đối toàn diện, có hệ thống về nghi lễ của
người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Qua đó cung
cấp nguồn tư liệu khoa học mới, cập nhật để góp phần tăng cường sự hiểu biết
2


đầy đủ hơn về tộc người này và là cơ sở dữ liệu để so sánh với các dân tộc
khác thuộc ngôn ngữ Tạng - Miến.
- Phân tích những biến đổi của nghi lễ hiện nay, từ đó cung cấp những
luận cứ khoa học để các cơ quan chức năng tham khảo hoạch định và thực
hiện các chính sách, giải pháp phù hợp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị của
nghi lễ người Hà Nhì phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tộc người
này trong tình hình mới hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống nghi lễ của người Hà Nhì hiện nay.
Tuy nhiên, nghi lễ bao gồm nhiều thành tố, nội hàm rộng nên chúng tôi chỉ
tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực cụ thể tại địa bàn nghiên cứu gồm:
nghi lễ trong chu kỳ đời người; nghi lễ thờ cúng tổ tiên, nghề nghiệp và cầu
an trong gia đình và nghi lễ cộng đồng. Bên cạnh đó, luận án này cũng
bước đầu so sánh một số nghi lễ hiện tại với truyền thống (trước năm 1986)
trong giới hạn tham khảo các nguồn tư liệu đã công bố của các nhà khoa
học mà tác giả thu thập được, gồm các lĩnh vực: quan niệm và thực hành
nghi lễ; sự chuyển đổi trong tư duy và thực hành nghi lễ;
Địa bàn nghiên cứu chính của luận án tập trung vào cộng đồng người
Hà Nhì tại 3 xã Y Tý, Nậm Pung và Trịnh Tường thuộc huyện Bát Xát, tỉnh
Lào Cai. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của nhóm Hà Nhì Đen nên luận án
cũng chỉ tập trung vào nghi lễ của nhóm này là chính. Bên cạnh đó, chúng tôi

cũng tìm hiểu so sánh với người Hà Nhì Đen và Hà Nhì Hoa ở một số địa
phương khác trong nước dựa trên nguồn tư liệu các nhà khoa học đã công bố.
4. Nguồn tư liệu của luận án
Để thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài luận án,
chúng tôi đã sử dụng các nguồn tư liệu chính sau:
- Kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu đã công bố trên sách, tạp

3


chí, báo cáo khoa học và các nguồn tư liệu khác liên quan.
- Dựa vào nguồn tư liệu do chính tác giả thu thập được qua các đợt điền
dã tại địa bàn nghiên cứu trong thời gian 2010 - 2015. Đây là nguồn tư liệu
chủ yếu và được xử lý phân tích theo hệ thống gắn với các nội dung luận án.
5. Đóng góp mới của luận án
- Một là, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối chuyên
sâu, toàn diện và có hệ thống về nghi lễ của người Hà Nhì Đen ở địa bàn
nghiên cứu.
- Hai là, phân tích làm rõ những nét tương đồng và khác biệt trong nghi
lễ truyền thống và hiện tại của tộc người này cũng như đánh giá về các giá trị
của nghi lễ trong đời sống tộc người.
- Ba là, cung cấp các luận cứ khoa học và đề xuất một số kiến nghị, giải
pháp làm cơ sở cho việc tham khảo hoạch định và thực hiện chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, bảo tồn giá trị văn hóa của nhóm Hà Nhì Đen ở Lào Cai
trong bối cảnh hiện nay.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án
được bố cục thành 05 chương, gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cở sở lý thuyết, phương
pháp và địa bàn nghiên cứu

Chương 2: Nghi lễ trong chu kỳ đời người
Chương 3: Nghi lễ thờ cúng tổ tiên, nghề nghiệp và cầu an trong gia đình
Chương 4: Nghi lễ cộng đồng
Chương 5: Kết quả và bàn luận

4


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về người Hà Nhì
được công bố. Các tác phẩm này đã phản ánh một số lĩnh vực đời sống của
người Hà Nhì ở Việt Nam từ trước đến nay và mỗi công trình là một điểm khai
phá đối với văn hóa tộc người này. Tuy nhiên, các công trình đó còn ít, chưa
thực sự chuyên sâu và thiếu tính hệ thống. Đặc biệt, học giả nước ngoài nghiên
cứu về nghi lễ người Hà Nhì ở nước ta nói chung và nhóm Hà Nhì Đen ở Bát
Xát, Lào Cai nói riêng còn rất ít. Do vậy, trong phần này luận án tập trung đánh
giá về các công trình nghiên cứu về người Hà Nhì ở trong nước.
Trước tiên, phải kể đến tác giả Nông Trung với hai bài viết: Các dân
tộc thuộc ngữ hệ Hán Tạng, nhóm Tạng Miến ở Miền bắc Việt Nam (1970) và
Vài nét về sinh hoạt văn hóa và văn hóa vật chất của dân tộc thuộc nhóm
ngôn ngữ Tạng - Miến (1973). Hai ấn phẩm này đã đề cập sơ lược sinh hoạt
văn hóa, nhất là các yếu tố văn hóa vật chất của dân tộc Hà Nhì.
Năm 1978, Viện Dân tộc học công bố tác phẩm Các dân tộc ít người ở
Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) và tái bản có bổ sung vào năm 2014. Công trình
này đã khái quát những đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của các tộc người
thiểu số ở phía Bắc nước ta. Trong đó, các vấn đề của người Hà Nhì được

quan tâm nhiều gồm kinh tế nương rẫy, văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử tộc
người,... Đây là những tư liệu tham khảo quý cho các nghiên cứu tiếp sau về
người Hà Nhì cũng như các tộc người thiểu số ở phía Bắc Việt Nam.

5


Năm 1983, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á xây dựng báo cáo tư liệu
dày 102 trang về Người Hà Nhì. Báo cáo này đã giới thiệu cơ bản văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần của tộc người này ở hai huyện Mường Tè (tỉnh Lai
Châu) và Bát Xát (tỉnh Lào Cai).
Tác giả Nguyễn Văn Huy (1985) đã giới thiệu tới bạn đọc công trình
Văn hóa và nếp sống các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hà Nhì - Lô Lô. Tác phẩm
đã khắc họa nhiều nét đặc trưng trong nếp sống văn hóa, phong tục, tín
ngưỡng, văn nghệ dân gian tiêu biểu của các tộc người này trong cộng đồng
các dân tộc người Việt Nam. Đây là tài liệu quý được dùng để so sánh với
những tư liệu điền dã thu thập được trong hiện tại.
Bài viết Lễ hội K'hô.I già I.già (của dân tộc Hà Nhì Đen tỉnh Lào Cai)
của tác giả Xuân Mai (1997) đã miêu tả chi tiết các đồ vật dâng trong ngày lễ
và những điều cấm kỵ trong thời gian diễn ra lễ hội này. Năm 1999, Phan
Xương Hải và Lý Khai Phà cho ra đời Người Hà Nhì đón mừng năm mới,
miêu tả khá chi tiết các hình thức sinh hoạt văn hóa, trò chơi và món ăn dân
tộc trong dịp năm mới của người Hà Nhì. Nguyễn Đức Lân (2001) với Một
thoáng nét đẹp Hà Nhì đã miêu tả những nét đẹp của người Hà Nhì trong
khuôn khổ 1 trang tạp chí; do đó, tác giả mới dừng lại ở những cảm nhận và
đánh giá ban đầu mà chưa nêu bật được những giá trị văn hóa ẩn sau những
sinh hoạt văn hóa của tộc người Hà Nhì.
Năm 2001, Chu Thùy Liên cùng Lê Đình Lai sưu tập và biên dịch cuốn
Xa Nhà Ca: Trường ca dân tộc Hà Nhì. Trong tác phẩm này, các tác giả đã
phân loại thơ ca thành các chủ đề khác nhau như: lao động sản xuất, nghi lễ,

sinh hoạt... Dưới góc độ tiếp cận văn hóa học, công trình đã cho thấy nhiều
điểm mới và là một tài liệu tham khảo tốt cho những nghiên cứu về văn hóa
dân gian của tộc người này.

6


Mai Thanh Sơn (2001) có bài viết Nhà cửa của người Hà Nhì Đen ở
huyện Bát Xát - Lào Cai, nội dung chủ yếu mô tả cấu trúc kỹ thuật và mặt
bằng sinh hoạt trong ngôi nhà của người Hà Nhì. Tiếp đến, năm 2002, chính
tác giả này công bố bài viết Kinh nghiệm sử dụng đất trồng của người Hà Nhì
Đen (Khảo sát tại thôn Lao Chải, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), giới thiệu
kinh nghiệm sử dụng đất canh tác của người Hà Nhì thông qua việc chọn đất,
tính tương thích của các loại nông cụ, các loại giống cây trồng và nguồn nước.
Tác giả Lý Hành Sơn (2003) với hai bài viết Vài nét về thế giới quan
dân gian của người Hà Nhì và Lễ cúng bản của người Hà Nhì, đã đề cập một
cách khái quát về thế giới quan dân gian qua mảng tri thức tộc người về thế
giới tự nhiên, sự sống và cái chết cũng như các hình thức thờ cúng khác của
người Hà Nhì. Đây là một nghiên cứu khá công phu, chứa đựng nhiều tư liệu
quý cho những nghiên cứu về tộc người Hà Nhì nói chung, văn hóa tâm linh
của họ nói riêng.
Tác giả Đỗ Thị Hòa (2004) công bố cuốn Trang phục các tộc người
nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, giới thiệu khái quát về môi trường tự nhiên, xã
hội, nguồn gốc lịch sử và đặc trưng của các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ
Tạng - Miến; trong đó, mô tả, phân tích, giải mã về trang phục cổ truyền của
từng tộc người và các nhóm địa phương dưới cái nhìn đồng đại và lịch đại.
Tác giả Chu Thùy Liên với 2 công trình Tìm hiểu văn hóa dân tộc Hà
Nhì ở Việt nam (2004) và Văn hóa dân gian dân tộc Hà Nhì (2009) đã quan
tâm tới hầu hết các lĩnh vực như: địa bàn cư trú, nguồn gốc và lịch sử, kinh tế
truyền thống, đời sống vật chất, dòng họ và gia đình, tín ngưỡng, phong tục

và văn học - nghệ thuật dân gian dưới góc độ văn hóa dân gian. Bằng các
phương pháp nghiên cứu dân tộc học và văn hóa học, công trình đã khái quát
khá rõ những khía cạnh văn hóa cơ bản của tộc người Hà Nhì. Tuy nhiên, cả
hai cuốn sách chỉ mô tả các mặt trong đời sống của nhóm Hà Nhì Hoa mà
7


không đề cập đến những biến đổi của các vấn đề ấy. Dù vậy, đây vẫn là
nguồn tư liệu có giá trị được sử dụng để so sánh các lĩnh vực khác nhau giữa
những nhóm Hà Nhì.
Năm 2005, tác giả Trần Bình có bài viết Một số vấn đề về thủ công gia
đình của người Hà Nhì, giới thiệu nguồn nguyên liệu, kiểu cách đan, kỹ thuật
đan và các sản phẩm thủ công trong gia đình của tộc người này. Đây là nghiên
cứu về một trong những hoạt động kinh tế hiện không còn phát triển như
trước. Cùng năm, tác giả công bố cuốn Tập quán mưu sinh của các dân tộc
thiểu số ở Đông Bắc Việt Nam viết về các hoạt động sinh kế truyền thống của
một số dân tộc, trong đó có người Hà Nhì.
Tác giả Trần Văn Hà (2005) đã công bố bài viết Đời sống song ngữ của
người Cống và người Hà Nhì ở Tây Bắc, nội dung tập trung vào quá trình
hình thành trạng thái song ngữ và vai trò của tiếng Việt trong giao tiếp ở
những môi trường khác nhau, thực trạng đời sống song ngữ và thái độ của
đồng bào đối với tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ.
Năm 2007, tác giả Nguyễn Ngọc Thanh có bài Một số đặc điểm về thiết
chế làng bản của người Hà Nhì ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Đây là một
khảo cứu về xã hội và tổ chức xã hội của người Hà Nhì ở nước ta, trong đó đã
nêu rõ được các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng thôn bản người Hà Nhì.
Bài viết của Ngô Lệ (2007) về Người Hà Nhì và người Hà Nhì ở Lai
Châu tập trung nghiên cứu về lịch sử tộc người, các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của người Hà Nhì ở Việt Nam.
Năm 2008, tác giả Hoàng Sơn công bố tác phẩm Người Hà Nhì ở Huổi

Luông (huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai châu), chỉ ra điều kiện tự nhiên, dân tộc, dân
số; hình thái kinh tế; tổ chức xã hội làng bản; văn hóa. Đây cũng là công trình
nghiên cứu khá công phu của tác giả, là tư liệu tham khảo quan trọng trong
quá trình tìm hiểu về người Hà Nhì ở Việt Nam.
8


Một nghiên cứu khác về Tri thức ứng xử với nguồn nước của người Hà
Nhì ở xã Huổi Luông, Phong Thổ, Lai Châu của Đặng Thị Oanh (2008) đã
giới thiệu tri thức ứng xử của người Hà Nhì với nguồn nước. Từ đó, tìm ra tác
dụng tích cực và tiêu cực của nó đối với phát triển bền vững tại địa phương.
Cũng về tri thức địa phương, tác giả Trần Hữu Sơn (2008) có bài Tri thức bản
địa của người Hà Nhì với vấn đề bảo vệ rừng, giới thiệu về cách ứng xử của
người Hà Nhì ở Lào Cai đối với việc bảo vệ rừng trước kia và hiện nay.
Tác giả Vũ Quốc Khánh và cộng sự (2010) đã công bố tác phẩm Người
Hà Nhì ở Việt Nam (The Hà Nhì in Việt Nam). Đây là ấn phẩm ảnh có phần
giới thiệu chung bằng song ngữ Việt - Anh. Cuốn sách giới thiệu những nét
văn hóa tiêu biểu, đặc sắc của người Hà Nhì ở hai tỉnh Lai Châu và Lào Cai
thông qua những hình ảnh và nhận xét của các tác giả.
Tác giả Dương Tuấn Nghĩa (2010) với Vài nét về cách đặt tên theo phụ
tử liên danh với vấn đề nghiên cứu lịch sử người Hà Nhì Đen đã giới thiệu
hình thức kết cấu cách đặt tên của tộc người này. Năm 2011, tác giả này tiếp
tục giới thiệu cuốn Tri thức dân gian và nghi lễ truyền thống trong sản xuất
nông nghiệp của người Hà Nhì Đen ở thôn Lao Chải, Lào Cai, cung cấp cho
bạn đọc thấy rõ những tri thức dân gian trong canh tác nông nghiệp và những
nghi lễ truyền thống liên quan đến sản xuất nông nghiệp của người Hà Nhì
Đen ở địa bàn nghiên cứu.
Trong báo cáo Đề tài cấp bộ năm 2011 về Một số vấn đề cơ bản về
dân tộc dưới tác động của sự phát triển vùng biên giới Việt - Trung
(Nghiên cứu người Hà Nhì ở một làng của tỉnh Lào Cai và một làng thuộc

châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc) do Vương Xuân Tình làm chủ
nhiệm đã nhận diện và đánh giá các chiều cạnh quan hệ dân tộc của người
Hà Nhì với đồng tộc bên kia biên giới, phân tích tác động của mối quan hệ
dân tộc xuyên biên giới đến phát triển kinh tế - xã hội của người Hà Nhì ở
Lào Cai, đề xuất một số kiến nghị liên quan đến quản lý mối quan hệ đó...
9


Năm 2012, Bùi Quốc Khánh giới thiệu Sử thi - Há pà P'hùy ca Na ca
của người Hà Nhì ở Mường Tè, khái quát tình hình nghiên cứu sưu tầm sử thi
P'hùy ca na ca; qua đó, góp phần tìm hiểu giá trị của sử thi này, phản ánh lịch
sử, phong tục tín ngưỡng cổ truyền và những đặc điểm thẩm mỹ. Dưới góc
nhìn văn hóa học, công trình cũng cho thấy nhiều điểm mới, có thể được tham
khảo để nghiên cứu văn hóa dân gian của tộc người này.
Năm 2013, nhóm tác giả Chu Chà Mè, Chu Thùy Liên, Lê Đình Lai
giới thiệu những câu chuyện kể của người Hà Nhì qua cuốn Truyện cổ Hà
Nhì. Đây là tập hợp những câu chuyện kể của người Hà Nhì về quá trình hình
thành trời đất, truyền thuyết về các cuộc đấu tranh, xây dựng làng bản của tộc
người này.
Năm 2013, Đặng Thị Oanh cùng các cộng sự công bố cuốn Lễ hội dân
gian các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên. Công trình này đã giới thiệu các lễ
hội truyền thống của những dân tộc cư trú trên địa bàn tỉnh Điện Biên; trong
đó, có một số lễ hội tiêu biểu của người Hà Nhì.
Quan tâm đến tộc người Hà Nhì, tác giả của luận án này đã có ba bài
viết: i) Nghi lễ tang ma của người Hà Nhì; ii) Nghi lễ và kiêng kỵ trong sinh
đẻ truyền thống của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai; và iii)
Một số biến đổi trong hôn nhân của người Hà Nhì ở xã Y Tý, huyện Bát Xát,
tỉnh Lào Cai (đều xuất bản năm 2015). Nội dung các bài viết đề cập đến các
quan niệm, kiêng kỵ và cách thức thực hành các nghi lễ trong chu kỳ đời người
cũng như sự biến đổi của chúng trong bối cảnh hiện nay. Đây là một phần cơ

sở để luận án hoàn thiện các nội dung tương ứng liên quan đến các chủ đề này.
Có thể nói, từ tổng quan những công trình nghiên cứu đã công bố cho
thấy, các ấn phẩm được nêu ở trên đã phác họa những nét cơ bản nhất về bức
tranh đa sắc thái của văn hóa Hà Nhì từ trước đến nay. Trong đó, tập trung
vào một số hướng nghiên cứu và vấn đề trọng tâm sau:
10


- Nhóm tác phẩm nghiên cứu khái quát về người Hà Nhì ở Việt Nam
gồm vị trí địa lý, dân tộc, dân số, quá trình tộc người, xã hội, nguồn gốc... chủ
yếu phác họa những nét cơ bản mang tính nhận diện tộc người mà chưa đi sâu
phân tích và làm sáng rõ các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên,
chúng chỉ ra những nhận biết chung nhất về người Hà Nhì trong sự so sánh
với 53 tộc người ở nước ta.
- Nhóm tác phẩm viết về văn hóa vật thể thường đi sâu tìm hiểu và
phân tích những thành tố cấu thành nền văn hóa Hà Nhì, những đặc trưng tiêu
biểu của văn hóa tộc người này trong bối cảnh giao thoa văn hóa với các tộc
người khác cư trú cùng địa bàn. Nhóm tác phẩm này cũng phân tích và chỉ ra
những nguyên nhân của quá trình biến đổi, so sánh đặc điểm văn hóa truyền
thống còn tiếp tục được lưu giữ. Các tác phẩm này tuy nghiên cứu từ nhiều
góc nhìn khác nhau, nhưng phần lớn đều tập trung làm sáng tỏ những giá trị
văn hóa vật chất, như: nhà cửa, trang phục, sản xuất kinh tế...
- Nhóm tác phẩm về thơ ca, truyện cổ tập trung nghiên cứu đời sống
tinh thần của người Hà Nhì nhằm phản ánh sự thăng hoa của con người trước
tự nhiên, giải tỏa sự căng thẳng trong cuộc sống. Với việc sưu tầm, biên dịch
và công bố những bài thơ ca, truyện cổ, các tác giả đã cho thấy đời sống tinh
thần của người Hà Nhì rất phong phú, đa dạng cho dù cuộc sống của họ còn
rất khó khăn, thiếu thốn.
- Nhóm tác phẩm về các phong tục, tập quán, nghi lễ có xu hướng đi
sâu tìm hiểu và phân tích đời sống tinh thần của người Hà Nhì ở Việt Nam đã

bước đầu làm rõ thế giới thiêng và thế giới tục của họ. Nhóm đề tài này cũng
chỉ rõ những giới hạn của sự sống và cái chết, con người và siêu nhiên, ranh
giới của mỗi sinh vật tồn tại trong vụ trụ... Các tác phẩm này cũng phân tích
những khía cạnh kinh tế - xã hội đã và đang ảnh hưởng tới việc bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa tinh thần của tộc người Hà Nhì trong điều kiện hiện
11


nay. Đây cũng là nhóm chủ đề được quan tâm và khai thác tương đối nhiều
trong các tác phẩm đã công bố từ trước tới nay, nhưng lại ít tác phẩm tập
trung vào nghi lễ như đề tài luận án chúng tôi đang quan tâm.
Như vậy, nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về nghi lễ của người Hà
Nhì, nhất là nhóm Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai đến nay vẫn
chưa được thực hiện. Chủ yếu mới là những công trình giới thiệu sơ lược về
một số nghi lễ truyền thống, khá rải rác và nhất là ít đề cập đến những biến
đổi của nghi lễ trong những điều kiện mới cũng như sự so sánh với các nhóm
Hà Nhì khác và các tộc người cư trú trong cùng địa bàn. Do vậy, đây chính là
một trong những nội dung trọng tâm luận án cần tập trung làm sáng rõ.

1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
- Nghi lễ: Nghi lễ rất đa dạng và phát triển theo nhiều con đường khác
nhau, vì thế hiện có rất nhiều định nghĩa về nghi lễ. Theo nhà nhân học Victor
Turner, “nghi lễ là hành vi được quy định có tính chất nghi thức dành cho
những dịp không liên quan đến các công việc có tính chất kỹ thuật hàng ngày
mà có quan hệ với các niềm tin vào đấng tối cao hay các sức mạnh thần bí…”
Theo một nghĩa hẹp, nghi lễ chỉ những hoạt động mang tính bắt buộc, chính
thức diễn ra trong bối cảnh thờ cúng tôn giáo. Các nhà nhân học sử dụng thuật
ngữ “nghi lễ” để bao hàm bất kỳ hoạt động nào có mức độ chính thức cao và
có mục tiêu không vị lợi [25, tr. 242, 477].

Từ điển Nhân học khẳng định: “Nghi lễ là những hành động nghi thức
diễn ra trong bối cảnh thờ cúng tôn giáo - ví dụ một đại lễ Thiên Chúa giáo
hay một buổi hiến tế tổ tiển. Thông thường các nhà nhân học sử dụng “nghi
lễ” để nói về bất kỳ một hành động nào có nhiều nghi thức và với mục đích
phi bình quân chủ nghĩa. Theo nghĩa rộng nhất, nghi lễ liên quan không chỉ
đến một loại sự kiện cụ thể đặc biệt nào mà cả với khía cạnh thể hiện của toàn
12


bộ hoạt động của con người. Trong chừng mực nhất định nó chuyển tải các
thông điệp về địa vị văn hóa và xã hội của các cá nhân, của bất kỳ một hành
động con người nào có khía cạnh nghi lễ” [75, tr. 682]. Theo Từ điển Tiếng
Việt, “Nghi lễ là nghi thức và trình tự tiến hành của một cuộc lễ” [77, tr. 866].
Có thể nói, “nghi lễ là mối quan hệ của các thực thể ở thế giới bên kia
với cuộc sống trần gian của cộng đồng và cá nhân, nó làm cho nội dung giáo
lý tôn giáo trở nên sống động, phổ quát qua thực hành hành vi tôn giáo” [84,
tr. 121-122]. Mỗi hình thức tôn giáo đều có những nghi lễ thể hiện ở các dạng
khác nhau mang tính đặc thù và bắt buộc, nghi lễ gắn liền với hoạt động xã
hội, nó ra đời như một hiện tượng tất yếu không thể thiếu trong đời sống con
người. Hình thức biểu hiện của tôn giáo đa dạng và phong phú tùy theo phong
tục, tập quán, lối sống của mỗi cộng đồng cư dân, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia,
mỗi khu vực.
- Phong tục: Là thói quen, tục lệ ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi
người công nhận và làm theo [76, tr. 783]. Phong tục sinh ra do nhu cầu cuộc
sống, phát triển và định hình theo sự phát triển của xã hội, tạo nên truyền
thống. Phong tục có sức sống bền vững, một phần quan trọng là nhờ sự hình
thành hệ thống. Các sinh hoạt phong tục cho thấy rõ rệt tâm thức folklore và
ứng xử folklore của quần chúng qua sự bền vững và biến đổi của nó
[18, tr. 25].
- Tập quán: Là thói quen hình thành từ lâu đời và đã trở thành nếp

trong đời sống xã hội của một cộng đồng dân cư được mọi người công nhận
và tuân theo [76, tr. 901].
- Phong tục tập quán: Là toàn bộ những hoạt động sống của con người
hình thành trong quá trình lịch sử, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác và ai cũng phải tuân theo tùy thuộc vào mỗi địa phương
nhất định.
13


- Kiêng kỵ: Là hành động nể sợ hoặc gìn giữ không vi phạm phải những
điều không hay có thể mang lại cho mình hoặc những người xung quanh điều
không tốt. Kiêng kỵ không tới mức cấm đoán không được làm hoặc ăn một
thứ gì đó mà chỉ ở mức tránh, không nên làm theo. Ở một số trường hợp cụ
thể vẫn có thể tiến hành dù biết đó là phạm vào những điều kiêng kỵ với điều
kiện sẽ cúng hoặc bùa để yểu trừ [76, tr. 168].
- Nghi lễ trong chu kỳ đời người: Là những nghi lễ liên quan đến quá
trình sống của một con người từ lúc phôi thai cho đến lúc chết. Mỗi một cá
nhân đều trải qua những nghi lễ nhất định chứa đựng đầy ý nghĩa với mong
muốn sau này con người sẽ có được cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Nghi lễ gia đình: Là những nghi lễ được thực hành trong phạm vi một
gia đình, do gia đình đứng ra tổ chức, chủ lễ là người trong gia đình hoặc thầy
cúng được gia đình mời về. Nghi lễ gia đình gồm hệ thống các nghi lễ liên
quan đến từng cá nhân hoặc một tập thể sinh sống trong cùng một mái nhà.
Mục đích của các nghi lễ đó là cầu xin sự bình an, no dủ, phát triển và ngăn
chặn, hạn chế những điều xấu xảy ra với mỗi cá nhân hoặc gia đình.
- Nghi lễ cộng đồng: Là những nghi lễ được thực hành trong phạm vi
một cộng đồng tộc người, cụ thể quy mô là làng bản, do cộng đồng đó tổ
chức, chủ lễ là người trong cộng đồng và do những người trong cộng đồng đó
bầu ra hay ủy quyền. Nghi lễ cộng đồng là những nghi lễ liên quan đến những
thành viên cùng sống trong cộng đồng đó với mục đích cầu mong những điều

tốt đẹp cho cả cộng đồng.
1.2.2. Cơ sở lý thuyết
- Lý thuyết chức năng (Functionalism): Thuyết chức năng nổi lên vào
những thập kỷ 20 của thế kỷ XX như một sự phá bỏ về mặt phương pháp luận
khỏi những so sánh hời hợt bên ngoài và không theo bối cảnh như đã được thể

14


hiện trong nhân học tiến hóa thế kỷ XIX. Thuyết chức năng gắn liền với tên
tuổi của Bronislaw Kasper Malinowski (1884 - 1942), sau đó là Alfred
Reginald Radcliffe Brown (1881 - 1955) và những đại diện tiêu biểu khác
theo trường phái này.
Theo Malinowski - nhà nhân học người Anh gốc Ba Lan, bất kỳ văn
hóa nào trong tiến trình phát triển của nó đều tạo ra một hệ thống cân bằng,
ổn định, trong đó mỗi bộ phận của chỉnh thể đều thực hiện chức năng của nó.
Nếu triệt tiêu một yếu tố nào đó trong văn hóa thì toàn bộ hệ thống văn hóa
tộc người sẽ lâm vào tình trạng suy thoái và hủy hoại [11, tr. 25]. Vì vậy,
nghiên cứu nhân học là tìm hiểu bất kỳ một thiết chế hoặc niềm tin nào liên
quan tới các thiết chế hay niềm tin khác và tới một mức độ mà nó góp phần
vào việc duy trì các hệ thống xã hội như là một tổng thể hoặc là các bộ phận
của nó. Vì vậy, đòi hỏi phải có một phương pháp so sánh phức tạp hơn, quan
tâm tới các thiết chế và tín ngưỡng có ý nghĩa đối với những người tham gia
của một xã hội cũng như những mối tương quan và mối quan hệ tương hỗ của
chúng. Trong khi những mối tương quan như vậy không thể xác lập nên được
bởi nghiên cứu các xã hội đơn lẻ mà cần phải có sự nghiên cứu so sánh giữa
các xã hội [50, tr. 13].
Trong khi đó, Radcliffe Brown đã xem nhân học như là xã hội học so
sánh liên văn hóa mang tính toàn cầu. Ông lý giải, cơ cấu xã hội (bao gồm
những vai trò, các trách nhiệm pháp lý và các chuẩn mực đạo đức) là phạm vi

cơ bản cho sự phân tích so sánh. Bất kỳ một hệ thống nào cũng được xác định
bằng các đơn vị (yếu tố) cấu thành nó và các quan hệ giữa chúng.
Áp dụng lý thuyết chức năng vào nghiên cứu luận án này sẽ góp phần
làm rõ chức năng, mục tiêu và vai trò của tín ngưỡng và văn hóa tâm linh của
tộc người Hà Nhì, mà nghi lễ là một trong những yếu tố cấu thành và biểu
hiện rõ nét các chức năng đó trong văn hóa tộc người này. Trong đó, chức
15


năng của nghi lễ đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đề cập đến gồm:
chức năng văn hóa, chức năng xã hội, chức năng tâm lý, chức năng tái sản
sinh trật tự xã hội,… Ở mỗi khía cạnh nghiên cứu, các học giả lựa chọn những
chức năng phù hợp và phân tích để làm nổi bật giá trị của nghi lễ. Trong luận
án này, chúng tôi quan tâm đến hai chức năng cơ bản của nghi lễ là tái sản
sinh trật tự xã hội và tâm lý.
- Chức năng tái sản sinh trật tự xã hội được Émile Durkheim (1915)
nhìn nhận trong nghi lễ như một nguồn lực xã hội được hình thành qua việc
người nguyên thủy kinh qua vai trò thành viên của mình trong xã hội và cảm
thấy “sự sôi nổi tập thể” để duy trì tính cố kết cộng đồng. Ông cũng ghi nhận
nghi lễ tạo ra một tuyên bố kịch tính về huyền thoại của xã hội. Trong nghi lễ,
con người thường hành động giống như các huyền thoại của họ về nguồn gốc
xã hội và tuyên thệ tính hợp pháp của trật tự được thiết lập đối với các đồ vật
được coi là linh thiêng. Dường như nghi lễ là nơi để con người bằng các hành
động và đạo cụ trở lại với các truyền thuyết về tộc người của mình. Thậm chí,
ở nơi các nghi lễ không gợi ra những huyền thoại một cách rõ ràng, cấu trúc
của chúng vẫn có xu hướng phản ánh và tăng cường sự khác biệt xã hội. Hơn
thế nữa, vì các nghi lễ cho thấy trật tự xã hội, chúng tạo thành một diễn đàn
quan trọng cho những ai muốn thay đổi xã hội đó. Trong các nghi lễ truyền
thống các nhóm nghèo khổ và bị thiệt thòi có thể bày tỏ sự bất mãn của mình
đối với hệ thống quản lý mà họ vẫn chịu đựng, họ có thể làm vậy một cách

công khai, bằng cách trình bày sự hiểu biết của mình về chính bản thân và về
xã hội (Jean Comaroff, 1985) hay công khai sử dụng các nghi lễ cộng đồng
như một động lực phát động những mong muốn cải tổ hoặc ý định nổi loạn
(Dirks, 1994) [51, tr. 17].
- Chức năng tâm lý: Malinowski đưa ra nhận định, chức năng tâm lý
của nghi lễ là tạo ra một khung lý thuyết cho các khía cạnh bất định hướng
16


trong cuộc sống loài người, như: ốm đau, nguy hiểm và các biến đổi trong
cuộc sống. Nó tạo cho con người một ý nghĩ kiểm soát đối với việc phân chia
và đe dọa các sự kiện như một câu thần chú có thể xua đuổi bất kỳ một vị thần
nào, nhưng lại có thể bất lực trước bệnh tật. Thêm vào đó, các nghi lễ tạo ra
cách thể hiện tình cảm. Chẳng hạn, các nghi lễ trong đám ma thường tạo ra
các cơ hội để bày tỏ nổi đau khổ đối với người thân (Goldchmidt, 1973).
Trong một số trường hợp, các nghi lễ cho phép con người thể hiện tình cảm
của mình mà trong những dịp bình thường thể hiện như thế lại là không phù
hợp hay đe dọa đến trật tự xã hội [51, tr. 17].
Như vậy, khi con người cảm thấy không an toàn thì họ sẽ thực hiện
nghi lễ để trấn an bản thân và cầu mong để có thêm lòng tin. Malinowski đưa
ra một giả thuyết là môi trường càng bất trắc và kết quả càng bấp bênh thì con
người càng cần đến lễ nghi phù phép. Ông đưa ra ví dụ cụ thể khi nghiên cứu
về đời sống của người Trobriand tại một đảo ở Thái Bình Dương. Malinowski
phân tích, khi họ đánh cá ở trong đầm lầy, không có gì nguy hiểm, thì họ cũng
không làm những lễ nghi phù phép, họ chỉ dựa vào kiến thức và tay nghề của
chính họ. Tuy nhiên, khi ra biển đánh cá, mức độ nguy hiểm cao hơn và kết
quả thu được cũng bấp bênh hơn, lúc này họ cần đến lễ nghi và phù phép để
trấn an tâm lý và cầu mong bình an [11, tr. 174].
- Lý thuyết về giao lưu tiếp biến văn hóa (Acculturation): Là khái niệm
do các nhà nhân học Anglo - Saxon đưa ra vào cuối thế kỷ XIX để chỉ sự tiếp

xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn hóa khác nhau và hậu quả của sự tiếp
xúc này là sự thay đổi hoặc biến mất của một số loại hình văn hóa hoặc của cả
hai nền văn hóa đó. Theo các nhà nhân học Mỹ, giao lưu tiếp biến văn hóa là
quá trình trong đó một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng từ một nền văn hóa
khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy. Sự giao
lưu tiếp biến văn hóa là sự trao đổi những đặc tính văn hóa nảy sinh khi các
17


cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục. Thông qua quá trình tiếp xúc này mà
các hình mẫu văn hóa nguyên thủy của một cộng đồng hoặc của cả hai cộng
đồng đều có thể bị biến đổi [11, tr. 107].
Giao lưu tiếp biến văn hóa là quá trình biến đổi văn hóa diễn ra do tiếp
xúc của hai hệ thống văn hóa riêng rẽ mà kết quả là làm cho chúng ngày càng
trở nên giống nhau hơn. Tiếp biến văn hóa bao gồm một số quy trình khác
nhau: khuếch tán, thích nghi mang tính ứng phó, các loại hình tái tổ chức xã
hội và văn hóa khác nhau tiếp sau tiếp xúc và phân giải văn hóa. Kết quả của
tiếp biến văn hóa thể hiện ở việc có được sự tự trị đáng kể về văn hóa, là sự
đồng hóa của nhóm tiếp xúc yếu hơn bởi nhóm tiếp xúc mạnh hơn và sự hỗn
dung văn hóa nhờ hai văn hóa đó có thể trao đổi đủ các yếu tố để sau đó tạo ra
một văn hóa riêng [50, tr. 54]. Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa có thể
diễn ra theo hai cách: ép buộc thông qua sự thống trị về quân sự và chính trị
hoặc tự nguyện thông qua quá trình buôn bán, truyền đạo, cận cư, xen cư...
Luận án áp dụng Thuyết giao lưu tiếp biến văn hóa để lý giải sự tồn tại
và biến đổi của các nghi lễ trong đời sống văn hóa tộc người Hà Nhì hiện nay
dưới tác động của các yếu tố: điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, văn hóa,
xã hội và môi trường. Vận dụng thuyết này trong nghiên cứu nghi lễ của
người Hà Nhì trong bối cảnh hiện tại đặc biệt quan trọng và phù hợp khi môi
trường sống của người Hà Nhì hiện nay ngày càng có sự đan xen về tộc người
và kéo theo đó là sự đan xen văn hóa giữa các cộng đồng tộc người cùng chia

sẻ môi trường sống. Thêm nữa, mối quan hệ trên nhiều phương diện của
người Hà Nhì tại các điểm nghiên cứu không chỉ bó hẹp trong phạm vi làng
bản của họ ở Việt Nam như trước đây mà còn có sự kết nối với những người
đồng tộc của họ ở vùng biên giới và liên/xuyên quốc gia.
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Quan điểm tiếp cận của luận án dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
18


×