Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Là Một Quá Trình Phủ Định Biện Chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.81 KB, 16 trang )

I. Đặt vấn đề

Trong sự phát triển của thế giới ngày càng đa dạng và phức tạp hiện nay,
việc điều chỉnh nền kinh tế sao cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử thời đại là
nhiệm vụ hàng đầu của bất kỳ một quốc gia nào. Việt Nam không nằm ngoài
số đó.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế Việt Nam đã tự điều chỉnh bằng
cách đổi mới nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang kinh tế thị trờng. Để thực
hiện đợc điều đó chúng ta phải luôn luôn xác định vị trí thực sự, chỗ đứng
thực sự của mình, vị thế của mình trên thế giới. Nó không chỉ có tác dụng giúp
chúng ta nhận thức một cách rõ ràng mặt mạnh, mặt yếu của nền kinh tế mà
còn giúp ta luôn bổ sung, đổi mới, kiên quyết từ bỏ những kết luận đã lỗi thời,
thay thế chúng ta bằng những kết luận mới, bài học kinh nghiệm mới, thúc
đẩy sự đi lên của một nền kinh tế đang có nguy cơ tụt hậu xa so với kinh tế thế
giới. Đây là yêu cầu đòi hỏi chính phủ phải luôn luôn xuất phát từ thực tế
khách quan, từ yêu cầu thực tiễn, phải vận dụng phơng pháp duy vật biện
chứng mà điển hình là phép phủ định biện chứng để phân tích thực tế, tìm ra
quy luật vận động của nó. Trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp đúng đắn để
cải tạo nó.
Sự thay thế kinh tế bao cấp bằng kinh tế thị trờng định hớng XHCN là
một quá trình phủ định biện chứng bởi nó đã kế thừa và phát huy những mặt
mạnh của cơ chế cũ, tạo ra những điều kiện tiền đề và khả năng phát triển đất
nớc.

1


II. Giải quyết vấn đề

II.1. Nội dung lý luận: Khái niệm- phủ định biện chứng.
1.1. Khái niệm phủ định biện chứng


Lịch sử luôn luôn vận động theo hớng đi lên với những quy luật của nó.
Trong tiến trình, bớc đi, hình thức của những quá trình vận động, nó luôn trải
qua những giai đoạn hình thành một phơngthức mới, một bớc đi mới để luôn
đảm bảo phù hợp với quá trình phát triển. Đó là sự ra đời cái mới trên cơ sở
yêu cầu của cái cũ nhng bao giờ cũng có sự phát triển cao hơn và ngày càng
hoàn thiện hơn so với cái cũ.
Chính sự phát triển là sự phủ định biện chứng. Thực tế đã chứng minh
rằng không một lĩnh vực nào lại có sự phát triển nếu nh không có sự phủ định
những hình thức tồn tại trớc đó.
Vậy phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra những điều kiện, những
tiền đề, khả năng để thực hiện một sự phát triển.
Tuy nhiên không phải bất kỳ sự phủ định nào cũng là phủ định biện
chứng. Bởi vì khái niệm phủ định đợc hiểu là sự biến đổi từ một hình thái này
sang hình thái khác, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác cho nên nảy sinh hai
quan niệm khác nhau từ khái niệm phủ định. Đó là phủ định biện chứng và
phủ định siêu hình. Việc phân biệt rõ ràng hai khái niệm trên, tránh nhầm lẫn
là điều rất cần thiết không chỉ đối với t duy nhận thức mà còn đối voí vận
dụng vào đời sống thực tiễn. Nếu không sẽ gây hậu quả nghiêm trọng, đó là:
Phủ định siêu hình là sự phủ định chấm dứt hoàn toàn sự phát triển,
không tạo ra điều kiện tiền đề bằng sự thay thế còn phủ định biện chứng ra
điều kiện tiền đề cho sự phát triển. Đây là sự khác nhau cơ bản về mặt bản
chất. Mặt khác phủ định siêu hình không xuất phát từ nhu cầu phát triển của
bản thân mà thờng đo những nguyên nhân bên ngoài. Những ngời theo quan
điểm siêu hình đã coi phủ định là sự loại bỏ hoàn toàn cái cũ, phủ định sạch
trơn, chấm dứt sự vận động và phát triển của bản thân sự vật. Nhng khi cần
2


thiết, họ lại tiếp thu một cách rập khuôn máy móc. Đây là điểm khác biệt cơ
bản giữa phủ định siêu hình với phủ định biện chứng bởi phủ định biện chứng

diễn ra sự thay thế đều xuất phát từ nhu cầu bản thân, nằm trong nguyên nhân
tự thân của sự vật, hiện tợng.
Ví dụ: Sự thay thế nền kinh tế bao cấp bằng nền kinh tế thị trờng là một
phủ định biện chứng. Sự thay thế này xuất phát từ yêu cầu của bản thân nền
kinh tế bao cấp và kinh tế thị trờng ra đời trên cơ sở của cơ chế kinh tế cũ.
1.2.Những đặc trng của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng có hai đặc trng cơ bản:
Một là: Tính khách quan. Nó xuất phát từ nhu cầu phát triển của bản thân
sự vật quy định chứ không phải là do sự xuât phát từ bên ngoài hay do sự áp
đặt của bên ngoài đối với sự vật. Nhu cầu ấy nhằm giải quyết những mâu
thuẫn cố hữu và luôn luôn tồn tại trong bất kỳ một sự vật nào. Nó là kết quả
hoạt động của quy luật mâu thuẫn và quy luật lợng chất - hai trong3 quy luật
cơ bản của triết học MácLênin luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau khi
phân tích một sự kiện nào đó - trong đó luôn diễn ra sự chuyển hoá giữa các
mặt đối lập. Dẫn tới mâu thuẫn mới phủ định mâu thuẫn cũ, chất mới thay thế
chất cũ, sự thay đổi về lợng tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi chất. Tất cả đều từ
xu hớng vận động của hiện tợng sự vật, từ trong chính bản thân, nội lực.
Xét về điểm này, những ngời theo quan điểm siêu hình đã coi sự vật hiện
tợng là những cái cô lâp, tách rời nha, và phủ định, là phủ định siêu hình. Mà
đã là phủ định siều hình thì chấm dứt hoàn toàn sự phát triển chứ không thể
nào đem lại sự phát triển do yếu tố khách quan tác động đợc, Quan điểm này
hoàn toàn xa lạ, đối lập với quan niệm của Mác trong triết học duy vật biện
chứng.
Hai là: Tính kế thừa: Phủ định biện chứng là kết qủa của sự tự thân phát
triển trên cơ sở giải quyết những mâu thuẫn vốn có của các sự vật, hiện tợng.
Cho nên cái mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch trơn
đối với cái cũ mà là sự phủ định có tình kế thừa. Để diễn đạt t tởng này Lênin
viết:''Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy

3



nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi không phải sự do dự, cũng không phải
sự nghi ngờ là cái đặc trng và cái bản chất trong phép biện chứng... Vừa là sự
phủ định coi nh là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của phát triển với sự duy
trì cái khẳng định''. (V.I Lênin toàn tập T29. T245)
Do vậy là sự kế thừa các nhân tố của sự vật cũ còn cần thiết cho sự phat
triển. Những nhân tố ấy hoặc đợc giữ vững trong cơ cấu của sự vật mới bởi nó
có tác dụng cho sự vật mới hoặc có nhiều sự thay đổi tính chất trong cơ cấu sự
vật mới đó. Khôngcó cái mới nào ra đời từ h vô. Nhờ việc giữ lại nhân tố tích
cực của cái bị phủ định mà mới có tiền đề cho sự phát triển của mình. Tất cả
phải đợc đảm bảo sao cho quá trình phát triển của cái mới vẫn bảo tồn trong
nó những gì tích cực, hợp lý đợc tạo ra ở tất cả những giai đoạn phát triển trớc.
Sự kế thừa có chọn lọc theo nguyên tắc phủ định biện chứng không chỉ là
nhân tố khắc phục cái cũ mà còn là ''nhân tố gắn liền sự liên kết giữa cái cũ
với cái mới, tạo ra những vòng khâu tất yếu của sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau
trong quá trình phát triển'' (Bộ GD&ĐT - triết học Mác Lênin - tập II- NXB
chính trị quốc gia - Hà Nội - 1999 - trang81).
1.3 Tính đặc thù của sự phủ định biện chứng trong lĩnh vực kinh tế,
xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, sự vận động không ngừng và phát triển đi
lên là một xu hớng không đổi. Tất cả các sự kiện kinh tế đợc nảy sinh ra, phát
triển và mất đi cũng có thể tăng theo quy luật. Sự nảy sinh ra sự kiện, hiện tợng cũng xuất phát từ những mâu thuẫn có tính chất cố hữu tồn tại trong bản
thân chúng. Thông qua ý chí chủ quan của con ngời mà tác động vào mâu
thuẫn, xoay chuyển nó theo chiều hớng chủ quan.
Sự phủ định biện chứng chỉ ra rằng với bất kỳ một sự phát triển sự thay
đổi trong lĩnh vực kinh tế - xã hội cũng đều xuất hiện là thực trạng của mình
chứ không thể so bì với nền kinh tế của các quôc gia khác trong thế giới. Nếu
không thực hiện đợc yêu cầu đó, nó sẽ ngày càng suy yếu và cuối cùng sẽ bị
sụp đổ. Dù rằng thực trạng của nền kinh tế nh thế nào đi chăng nữa nhng xác

định chính xác điểm nào là điểm xuất phát, không xuyên tạc, bóp méo sự thật
thì càng tạo điều kiện khôi phục nền kinh tế đó.
4


Phủ định biện chứng không đòi hỏi xoá bỏ hoàn toàn những thành quả dù
chỉ là nhỏ nhoi. Nó cũng là cơ sở, là điểm tựa trong quá trình phát triển của
lĩnh vực kinh tế đó. Nó đợc lu giữ mang tính kế thừa u điểm. Đồng thời những
đặc điểm mới phát sinh trong nền kinh tế mới dựa theo những u điểm đựợc kế
thừa đó sẽ ngày càng đợc hoàn thiện, đáp ứng đợc yêu cầu đặt ra trong bản
thân nền kinh tế mới đợc thế.
II.2 Vận dụng lý luận vào việc phân tích quá trình đổi mới nền kinh
tế nớc ta: Từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa(XHCN).
2.1.Quá trình đổi mới mang tính khách quan, phù hợp với tính chất và
trình độ của nền kinh tế.
Nhìn tổng quát nền kinh tế nớc ta, quá trình đổi mới trên qua 15 năm(từ
1986 đến nay) đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn, đọng góp phần quan trọng
trong sự đi lên của đất nớc.
Quá trình đó trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1 từ 1986 đến 1990 với nội
dung chính là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý
của nhà nớc. Để đa đất nớc ta ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế. Giai đoạn 2 từ
năm 1991 đến năm 2001 là thực hiện chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế xã
hội, tiếp tục đổi mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, tiến theo con đờng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hoàn
thành các mục tiêu cơ bản về kinh tế - xã hội đến năm 2001.
Về cơ bản, đất nớc ta đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm
trọng trong năm 1986, đời sống nhân dân đợc cải thiện đáng kể, thoát khỏi thế
bao vây, cấm vận về kinh tế, xuất khẩu gạo đứng vị trí thứ 2 trên thế giới, tăng

cờng giao lu hợp tác quốc tế. ''Tổng sản phẩm trong nớc sau năm 2000 tăng
gấp đôi so với năm 1999. Kết qủa hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất
tăng nhiều. Nền kinh tế từ trạng thái hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay
sản xuất đã đáp ứng đợc các nhu cầu thiêt yếu của nhân dân. Và nền kinh tế từ
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trờng

5


định hớng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế là
nhà nớc và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần
trong đó nền kinh tế nhà nớc đóng vai trò chủ đạo''[ĐCSVN - văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB chính trị quôc gia trang 18,149].
Có đợc kết qủa lớn nh trên là do quá trình phát triển nền kinh tế nớc ta đã
đi đúng hớng, phát triển phù hợp với các quy luật khách quan. So với trớc năm
1986, đây chính là sự đổi mới vợt bậc. Điều này không phải theo xu hớng
chung của các nớc trong khu vực và trên thế giới mà là xuất phát từ nhu cầu
phát triển của đất nớc. Bởi vì trớc đó, trong nền kinh tế của nớc ta thì lực lợng
sản xuất cần phải có quan hệ sản xuất phù hợp. Có nh vậy mới đảm bảo sự
phát triển lâu dài đợc.
Thực tế rằng sau khi giành chính quyền về tay nhân dân, đất nớc ta đã
phát triển kinh tế theo mô hình XHCN của Liễn xô. Tuy nhiên ở Liên xô nó đợc xây dựng trên một hoàn cảnh đặc thù, sử dụng những biện pháp đặc thù tuy
rằng về bản chất không hoàn toàn phù hợp với lý tởng XHCN, nhng trong
hoàn cảnh đó lại là tất yếu. Vậy mà ta đã phỏng theo mô hình đó một cách rập
khuâ. Máy móc, coi đó là kiểu mẫu thần tợng, u việt về mọi phơng diện. Quốc
hội hoá, hợp tác hoá, công nghiệp hoá, kế hoạch hoá tâp trung..v..v.. Lối suy
nghĩ này còn mang nặng tính siêu hình. Do đó mặc dù bên cạnh những thành
tựu đã đạt đợc, sự giảm sút của sản xuất vào cuối những năm 70 cùng với
những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế. Nhất là bố trí đầu t và xây dựng cơ
bản của 5 năm 76 đều 80 đã để lại những hậu qủa nặng nề: lạm phát tăng

nghiêm trọng, sự mất cân đối giữa cung và cầu, hậu quả sản xuất và đầu t
thấp, lu thông không thông xuất, phân phối rối ren...v..v. Yêu cầu đặt ra là
phải đổi mới. Nếu không nó sẽ sụp đổ giống nh sự sụp đổ của một nhà bị lún
móng.
Mặt khác sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia đều phải phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành... Sự phát triển không động đều của các
điều kiện trên ảnh hởng rất lớn tới việc xây dựng mô hình nh thế nào để sao
cho có sự phù hợp giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất bị kìm hãm
không chỉ bởi quan hệ sản xuất chính sự tụt hậu. Yếu kém của nền kinh tế nớc

6


ta cũng do lực lợng sản xuất bị kìm hãm không chỉ bởi quan hệ sản xuất lạc
hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không động bộ có nhiều yếu tố đi
quá xa so với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Yêu cầu đặt ra là chúng
ta phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần để tận dụng đợc hết mọi tiềm
năng nội lực, hình thành nền kinh tế đồng bộ, đồng đều, không khập khiễng
hay lệch lạc. Tất nhiên để làm đợc nh vậy thì đổi mới là không thể không làm,
'' chỉ có đổi moí thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới
để phát huy, những sai lầm để sửa chữa'' [ĐCSVN - văn kiện đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI - Hà Nội - 1987 - T7].
Chính những điều kiện tạo điều kiện tiền đề cho quá trình đổi mới trên
Đảng ta đã xác định chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc.
Đồng thời xuất phát từ bản thân nền kinh tế bao cấp, mặc dù nó có đóng góp
nhiều trong thời kỳ chiến tranh. Nhng trong thời gian hoà bình, nó lại trở
thành yếu tố kìm hãm nền kinh tế, không có sự giao lu hợp tác quốc tế, không
tận dụng đợc những mặt mạnh của mỗi thành phần kinh tế riêng. Cho nên sự
thay thế đổi mới bằng nền kinh tế thị trờng là sự cần thiết khách quan, phù

hợp với điều kiện nội lực và trên thực tế đã diễn ra ở đó.
I.2.

Quá trình đổi mới kinh tế những kế thừa và đổi mới.

Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã làm nảy sinh nhiều tiêu cực, trì trệ.
Trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đổi mới
không chỉ đơn thuần là thay thế cái cũ bằng cái mới để làm gì? chính cái ''để
làm gì''này sẽ quyết định phải đổi mới cái gì và đổi mới nh thế nào.
Do vậy để tháo gỡ khó khăn, tạo ra động lực mới phải đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế với nội dung chủ yếu là ''xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp,
sửa đổi các chính sách, đòn bẩy kinh tế hình thành cơ chế kế hoạch hoá theo
phơng thức hạch toán kinh doanh, đú-ng theo nguyên tắc tâp trung dân chủ''
[ĐCSVN - văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - Hà Nội - 1987
-T152]. Phơng hớng cơ bản đó luôn đợc khẳng định trong các nhiệm kỳ đại
hội đại biểu lần thứ VII, VIII, IX. Sự chuyển đổi này chính là một quá trình
phủ định biện chứng không chỉ tạo điều kiện tiền đề để đẩy mạnh, nhanh nền
7


kinh tế đi lên mà còn kéo theo các vấn đề xã hội đợc giải quyết tốt. Đồng thời
trong kĩnh vực kinh tế, nhất là nền kinh tế thị trờng hiện nay thì nó đã phát
huy tác dụng tích cực to lớn, là một giải pháp có ý nghĩa chiến lợc góp phần
giải quyết và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lợng sản xuất và xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Tuy nhiên chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trờng không phải là
sự phủ định sạch trơn những gì đã đạt đợc. Sự chuyển đổi này vẫn bảo đảm ý
sao cho quá trình phát triển của nền kinh tế thị trờng bảo tồn trong lòng nó
những yếu tố tích cực, hợp lý đã đợc tạo ra trong cơ chế cũ. Đó là nhân tố kế
hoạch hoá và định hớng xã hội chủ nghĩa.

Kế hoạch hoá là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật
khách quan mà trớc hết là các quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị
trờng bảo tồn trong lòng nó những yếu tố tích cực, hợp lý đã đợc tạo ra trong
cơ chế cũ. Đó là nhân tố kế hoạch hoá và định hớng xã hội chủ nghĩa.
Kế hoạch hoá là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật
khách quan mà trớc hết là các quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị
trờng để xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Kế
hoạch hoá là phải luôn luôn gắn liền với việc ''sử dụng đúng đắn các đòn bẩy
kinh tế, nền kinh tế phải đợc quản lý bằng phơng pháp kinh tế là chủ yếu''
[ĐCSVN - văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - Hà Nội - 4987 Trang 64].Kế hoạch hoá giúp cho nhà nớc hớng sự phát triển sản xuất tới thoả
mãn nhu cầu của nhân dân. Nhân tố này đợc kế thừa sang kinh tế thị trờng bởi
nó tập trung đợc những tiềm năng phục vụ cho mục tiêu, định hớng nền kinh
tế phát triển trong một giai đoạn ngắn( 5 năm) hay một quá trình lâu dài.
Thông qua đó mà nha nớc từng bớc điều chỉnh đợc các thành phần kinh tế có
xu hớng sau lệch hay yếu kém phù hợp với định hớng đã vạch sẵn, với xu hớng chung của thị trờng trong va ngoài nớc. Nhờ vậy mà nâng cao đợc hiệu
quả kinh tế xã hội theo đờng lối mong muốn, phủ định biện chứng, sự kế thừa
không hề nguyên xi, rập khuôn sao chép mà nó có tính chọn lọc, từng bớc
điều chỉnh để phù hợp với thực trạng nền kinh tế. Trong cơ chế bao cấp cũ trớc
đây tình hình kế hoạch hoá chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà n-

8


ớc. Tất cả là mệnh lệnh hành chính chủ yếu. Sự chi tiết hoá các nhiệm do
trung ơng giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ chính phủ và cấp dới
chỉ rập khuôn làm theo mà không quan tâm giá cả trên thị trờng, nhu cầu thị
hiếu của ngời tiêu dùng hay biến động giá cả trên thị trờng. Vì vậy mà tính kế
hoạch hoá phần nào bị sai lệch. Để điều chỉnh hạn chế này, gạt bỏ hạn chế
này trong nền kinh tế thị trờng, tính kế hoạch hóa phải bao hàm tổng thể nền
kinh tế quốc dân với nhiều thành phần kinh tế đồng thời nhấn mạnh vấn đề

quy hoạch, chiến lợc phát triển kinh tế xã hội. ''Nhìn nhận kế hoạch hoá với t
cách là một chức năng cơ bản của quản lý kinh tế, thị trờng với t cách là một
chức năng cơ bản của quản lý kinh tế, thị trờng với t cách thị trờng vừa là đối
tợng, vừa là cơ sở của kế hoạch hoá'' [tạp chí cộng sản số 17 -9 / 2001]. Nghị
quyết hội nghị trung ơng Đảng lần thứ 6, khoá VI khẳng định '' trong nền kinh
tế hàng hoá có kế hoạch, thị trờng vừa là một công cụ, vừa là đối tợng của kế
hoạch hoá''. Bởi vì sự phát triển kinh tế hiện này lệ thuộc vào mong muốn của
chính phủ nh trớc kia. Ví dụ nh môi trờng khu vực, quốc tế, kinh tế... vì thế
các mục tiêu trong kế hoạch chỉ mang tính dự báo, tính định hớng và kế hoạch
không báo gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy
mà theo nghĩa rộng, kế hoạch hoá còn đợc hiểu '' gồm toàn bộ các hành vi can
thiệp một cách có chủ định của nhà nớc vào nền kinh tế''. Để đạt đợc mục tiều
đề ra [tạp chí cộng sản. Số 17 - 9 2001]. Có chủ định, có nghĩa là đ ờng lối
không chỉ là đờng lối không chỉ do nhà nớc mà còn do các xí nghiệp, cơ sở
sản xuất kinh doanh tham gia. Sự kế thừa này chứng tỏ sự phát triển của bất kỳ
lĩnh vực khoa học nào cũng không bao giờ là kết quả của sự phủ định sạch
trơn cái cũ mà ngợc lại, bào giờ có cũng diễn ra trên cơ sở kế thừa một cách
có phê phán những thành quả nghiên cứu khoa học trớc đó.
Đặc điểm của nớc ta là một nớc XHCN nên trong đờng lối đổi mới kinh
tế, tất nhiên phải dựa trên nhng nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trờng bị
chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với định hớng XHCN. Nó đợc bằng quản lý của nhà nớc. Nhà nớc là của dân, do dân và
vì dân. Nhà nớc quản lý sự phát triển của các thành phần kinh tế cũng nhằm
điều chỉnh có theo định hớng XHCN - con đờng mà Đảng đã chọn. Trong cơ
chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN thì sự can thiệp
9


của nhà nớc vào điều kiện kinh tế lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của
toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.

Cơ chế đó đảm bảo tính hớng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành
phần hớng tới đích XHCN theo phơng châm: Nhà nớc điều tiết vĩ mô, thị trờng hớng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản. Một là: nhà
nớc XHCN là nhân tố đóng vại trò ''nhân dân trung tâm, và điều tiết chỉ đạo
dới 1 góc độ nào đó nền kinh tế vĩ mô. Hai là cơ chế thị trờng là nhân tố trung
tâm của nền kinh tế, đóng vai trò trung gian giữa nhà nớc và doanh nghiệp.
Thông qua cơ chế thị trờng mà nhà nớc chi phối đợc doanh nghiệp.
Tất nhiên sự u việt của việc quản lý nhà nớc theo định hớng XHCN luôn
đợc gìn giữ kế thừa mãi mãi. Song sự kế thừa này có lọc bỏ dần sự độc quyền
của nhà nớc. Sh độc quyền gắn liền với sự tiêu vong của cạnh tranh. Nếu nh
trong cơ chế cũ, sự cạnh tranh của nền kinh tế bao cấp thì trong nền kinh tế
thì trờng này cạnh tranh chính là lẽ sống, là phơng thức tồn tại duy nhất. Nếu
có sự độc quyền kể cả của nhà nớc hay t nhân thì sự cạnh tranh của các xí
nghiệp cùng nhành sẽ dẫn đến phá sản. Mặc dù điều này đã đợc nhà nớc quan
tâm sửa đổi, thay đổi bằng quản lý độc quyền hoặc chỉ đạo ở một số nhành
then chốt nh: Dầu khí, điện lực, bu chính viễn thông.... Dẫn tới ảnh hởng của
tính kế hoạch hoá. Tức là kế hoạch kinh tế quốc dân vẫn có mối quan hệ gắn
bó với kế hoạch của những tổng công ty trên.
Không chỉ nh vậy dới sự quản lý của nhà nớc. Các thành phần kinh tế
luôn đợc quan tâm đúng mức. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể luôn giữ
vai trò chủ đạo bên cạnh các thành phàn khác. Kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài
mặc dù đợc hình thành càng rõ nét cũng đợc nhà nớc chú trọng tạo thêm việc
làm...v..v.. Tất cả đều đợc điều tiết hợp lý kết hợp một cách linh hoạt dới tác
động của '' bàn tay vô hình'' và ''bàn tay hữu hình'' của nhà nớc, trong nền kinh
tế thị trờng linh hoạt, mềm dẻo. Nhân tố quyết định nhất đảm bảo đợc định hớng XHCN trên con đờng đổi mới kinh tế luôn là quản lý của nhà nớc, dới sự
lãnh đạo của toàn Đảng và tham gia của các cơ sở thành phần kinh tế.

10


Trong phơng hớng của lãnh đạo các văn kiện đại hội Đảng gần đây xác

định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Chúng ta đều biết sản
xuất hàng hoá - ra đời từ lâu - gắn liền với thị trờng sản xuất hàng hoá là thành
tựu chung của nhân loại, có tồn tại trớc, trong các sau chủ nghĩa t bản
(CNTB). Trớc đây các nhà kinh tế XHCN thờng đối lập hàng hoá với thị trờng
vì cho rằng thị trờng là phạm trù riêng của CNTB nên có chấp nhận kinh tế
hàng hoá nhng không chấp nhận cơ chế thị trờng còn các nhà kinh tế học phơng tây lại đồng nhất hai khái niệm trên. Chính vì vậy khi nớc ta cải cách, đổi
mới theo hớng thị trờng thì có ý kiến cho rằng đó là từ bỏ XGCN chuyển sang
CNTB. Thậm chí có ngời cho rằng kinh tế thị trờng và định hớng xã hội chủ
nghĩa không bao giờ có thể tồn tại cùng nhau. Đây là một sự ngộ nhận bởi
hàng hoá chỉ thực hiện chức năng giá trị của nó thông qua lu thông. Địa điểm
của lu thông chính là thị trờng. Dó đó hàng hoá và thị trờng là hai phạm trù
gắn liền với nhau. Nền kinh tế hàng hoá là nền kinh tế do thị trờng hớng dẫn,
Đây là hạn chế trong suy nghĩ chủ quan của một số ngời dới công tác đổi mới
t tởng mà hạn chế này đã đợc gạt bỏ.
Nh vậy phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trờng ở nớc ta rất cần có sự quản lý của nhà nớc để nâng cao hiệu quả
kinh tế - xã hội, giữ vững định hớng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam - những hạn chế và giải pháp
khắc phục.
Quá trình đổi mới kinh tế ở nớc ta là một thắng lợi lớn biểu hiện trong
lĩnh vực kinh tế và xã hội" đời sống dân đợc tăng lên đáng kể, văn hoá giáo
dục, y tế đều phát triển ... Thị trờng càng đợc mở rộng trong và ngoài nớc,
chất lợng hiệu quả phát triển kinh tế tăng cao, tăng hêt sức cạnh tranh.... Đổi
mới kinh tế là cơ sở, là nền tảng, là điều kiện chủ yếu trong quá trình đổi mới
đất nớc. Tuy nhiên ngoài những yếu tố tích cục trong cơ chế thị trờng định hớng XHCN còn tồn tại nhiều mặt tiêu cực, ảnh hởng lớn tớn quá trình đổi mới
kinh tế. Đó là tính bất ổn, mất cân đối tự phát của thị trờng, vì chạy theo đồng
tiền, lợi ích cá nhân, quan liêu, tham nhũng... chính vì vậy mà phải có những

11



giải pháp phù hợp, xử lý hài hoà những mặt yếu kém đó nhng không quên
định hớng XHCN.
Để việc xử lý đợc hài hoà, tất cả những kết luận rút ra từ những sai lầm
trong đờng lối và phơng pháp lãnh đạo luôn đợc chú ý để tránh mắc lại trong
quá trình đổi mới. Những chính sách định hớng nền kinh tế theo đúng định hớng XHCN , thị trờng hàng hoá diễn ra theo lối cạnh tranh lành mạnh, có quan
hệ với các cơ sở khác trên thế giới giúp nhau cùng có lợi.Chính vì vậy một
trong những thành công của Đảng ta là đa nớc ta tránh khỏi cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ Đông Nam á - 1997, nhanh chóng khôi phục kinh tế sau
những ảnh hởng của biến động tài chính cuả các nớc khác cùng khu vực.
Những giải pháp đảm bảo nền kinh tế tị trờng định hớng XHCN cần giải
quyết tốt những nhân tố khách quan và chủ quan.
Một là: giải quyết tốt sự điều tiết phần phối thu nhập, lợi nhuận giữa các
chủ thể kinh tế thị trờng, tạo điều kiện chính trị - an ninh cho sự phát triển
kinh tế. Một mặt nâng cao thu nhập chính đáng của mọi ngời trong xã hội,
mặt khác giảm bớt sự chênh lệch, phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp, đảm
bảo không có mâu thuẫn nội bộ mà biều hiện ra bằng mâu thuẫn đối kháng.
Hai là: giữ vững ổn định chính trị , không ngừng hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Nhất là luật kinh tế để đảm bảo sự bình đẳng giữa các cơ sở khi
tham gia kinh doanh. Xoá bỏ triệt để cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, đổi
mới các chính sách tiền tệ, giá cả, tài chính.
Ba là: Đẩy mạnh công tác ngiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ.
Ưu tiên các phát minh, sáng kiến cơ lợi cho sự quản lý của nhà nớc đối với
các thành phần kinh tế đẩy mạnh quản lý của nhà nớc đối với các thành phần
kinh tế đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đa nền nớc ta cơ bản trở
thành một nớc công nghiệp trong 20 năm tới.
Bốn là: phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, không
ngừng đổi mới công tác t tởng đối với những cán bộ sao cho phù hợp với yếu
cầu đặt ra của nền kinh tế thị trờng. Xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch vững
mạnh, quản lý có hiệu quả.


12


Năm là: Xây dựng và kiện toàn hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo
đội ngữ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi nhằm đáp ứng yêu
cầu của nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
Mặc dù công cuộc đổi mới đã diễn ra đợc 15 năm tuy vẫn còn là bớc đột
phá song đã mang lại những hiệu quả khá to lớn, cải thiện tình hình kinh tế xã
hội, chuẩn bị đa đất nớc vào qúa trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Tổng kết những kinh nghiệm đổi mới đã qua, đi sâu vào quá trình đổi
mới ngày càng sâu rộng hơn là mang lại sự thúc đẩy mạnh mẽ.
Quá trình cách mạng mới, giải quyết đúng đắn những vấn đề mới cả về lý
thuyết lẫn thực hành phát sinh trong quá trình ấy. Vận dụng tốt lý luận triết
học Mác - lênin vào trong cuộc sống - nhất là phủ định biện chứng trong việc
phân tích hạn chế, tìm ra giải pháp của một hiện tợng kinh tế, vợt quá trình
kinh tế diễn ra trong một khoảng thời gian.

13


III. Kết luận

Chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng
theo định hớng XHCN là sự chuyển đổi hợp quy luật. Không thể coi đó là ''từ
bỏ lý tởng XHCN'' hay ''ngả sang chủ nghĩa t bản''. Thực tiễn qua 15 năm đổi
mới với mô hình ''kinh tế hàng hoà nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trờng cơ sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN''cũng chứng minh điều
đó. Nếu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã khới dậy đợc năng lực sáng tạo
chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất, kinh doanh. Thúc đẩy sản

xuất phát triển. Quan hệ sản xuất phù hợp với lực lợng sản xuất, tỷ trọng, cơ
chế giữa các nhành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đã có thay đổi theo xu
hớng công nghiệp hoá.
Bên cạnh những thành tựu đạt đợc nền kinh tế vẫn còn một số hạn chế
nhất định. Nền kinh tế phát triển cha vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp, công tác quản lý, điều hành lĩnh vực này còn nhiều vớng mắc và thiếu
sót, kinh tế nhà nớc cha đợc củng cố tơng xứng với vai trò chủ đạo. Song với
những thành tựu trên, công cuộc đổi mới đã phản ánh đợc tính đúng đắn trong
việc phân tích các quy luật kinh tế để định ra đờng lối phát triển. Từ quá trình
phân tích mà ta nhận thấy đợc nguyên nhân tự thân và tính kế thừa trong sự
chuyển đổi giữa hai cơ chế kinh tế''đối lập'' nhau, nó coi nh là một quá trình
phủ định biện chứng trong thực tiễn. Trong quá trình đó ta phải luôn luôn
tránh những quan điểm cực đoan, rơi vào chủ nghĩa siêu hình, hoặc là không
kiên quyết từ bỏ cái cũ, cái lỗi thời hoặc ngợc lại, phủ nhận mọi thành tựu đã
đạt đợc trong giai đoạn trớc, luôn tránh lối suy nghĩ chủ quan, duy trì chí, bảo
thủ trì trệ. Trên cơ sở đổi mới t duy thực hiện xác định mục tiêu, quá trình xây
dựng nội dung, kế hoạch cần đổi mới. Đồng thời phải nhận thức đầy đủ, cập
nhật thông tin về quá trình diễn biến các sự kiện kinh tế trên thế giới, mở rộng
hợp tác liên kết giữa thị trờng trong nớc và quốc tế. Các nhà hoạch định chính
sách luôn đặt ra những mục tiêu'' kế hoạch trong bối cảnh chung, trong môi trờng ''động'' và ''mở cửa'' [tạp chí cộng sản số 17 tháng 9 năm 2001]. Nếu
không chấp nhận những thách thức này chắc chắn nền kinh tế sẽ không tránh
khỏi nguy cơ tút hậu, dẫn đền bất ổn định trong xã hội. Dù sao ta vẫn luôn tin
tởng vào đờng lỗi lãnh đạo cuả Đảng. Tin tởng vào những thành viên trong
chính phủ - hết lòng hết sức phục vụ cho qúa trình đổi mới của đất nớc ngày
một thành công hơn.
14


Danh mục tài liệu tham khảo


1. Giáo trình:
Triết học Máclênin - tập II - NXB chính trị quốc gia.
2. Giáo trình:
Triết học Máclênin - tập I - NXB giáo dục.
3. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI , VII , IX.
ĐCSVN -NXB chính trị quốc gia.
4. Đổi mới kinh tế Việt Nam - thực trạng và triển vọng.
Đặng Đức Đạm
5. Tài liệu nghiên cứu ngị quyết hội nghị lần thứ sáu (lần 2)
Ban chấp hành trung ơng Đảng khoá VIII.
Ban t tởng văn hoá trung ơng - nhà xuất bản chính trị quốc
gia.
6. Triết học với sự nghiệp đổi mới - Phạm Thành
NXB sự thật.
7. Tạp chí Cộng sản số 9 tháng 5 năm 2001.
8. Tạp chí Cộng sản số 17 tháng 9 năm 2001.

15


16



×