Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận môn triết học vai trò của khoa học công nghệ đối với công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.76 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU

Lý luận hình thái ý thức xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử do C. Mác xây dựng lên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác –
Lê Nin. Lý luận đó đã được thừa nhận lý luận khoa học và là phương pháp
luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận của hình thái
ý thức xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc,
động lực bên trong, nội tại và sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của
từng chế độ xã hội. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và
khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như
tiến trình vận động lịch sử nói chung của xã hội loài người.
Sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội liên quan mật thiết tới quá
trình nhận thức của con người. Tri thức, hiểu biết của con người về thế giới
càng nhiều bao nhiêu thì ý thức xã hội càng sâu sắc bấy nhiêu. Tri thức là một
yếu tố cơ bản nhất, là phương thức tồn tại của ý thức xã hội. Trong đó có tri
thức khoa học đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, là đặc điểm nổi
bật nhất của sự phát triển điều kiện hiện đại. Khoa học ngày nay phát triển theo
khuynh hướng vừa phân ngành mạnh mẽ vừa xâm nhập vào nhau và kết hợp
với kỹ thuật thành một sức mạnh trí tuệ thống nhất để nhận thức và cải tạo hiện
thực.
Ngày nay không chỉ có khoa học tự nhiên và kỹ thuật, mà cả khoa học
xã hội cũng phát triển mạnh mẽ, có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát
triển. Đất nước ta bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội khi mà nền sản
xuất chưa vận động theo con đường bình thường của nó. Lịch sử đã để lại cho
chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, lực lượng sản xuất rất thấp kém. Nhưng ngày nay khi độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai cấp
công nhân đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng dân
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page




tộc dân chủ cũng là lúc bắt đầu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh
thành tựu đã đạt được, chúng ta còn nhiều khó khăn, hạn chế cần khắc phục.
Chính vì vậy việc áp dụng khoa học công nghệ vào công cuộc đổi mới nền
kinh tế nước ta là tất yếu. Chỉ có như vậy mới đưa nước ta thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, trở thành một nước có nền kinh tế phát triển “ Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “ Khoa học công nghệ phải trở
thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” (Văn kiện ĐH
đại biểu toàn quốc lần VIII).
Để hiểu rõ được vấn đề này hơn chúng ta sẽ đi sâu vào xem xét vai vai
trò của khoa học công nghệ đối với công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam bằng những lý luận của hính thái ý thức xã hội của
chủ nghĩa Mác – LêNin.

Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page


CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm hình thái ý thức xã hội và ý thức khoa học
1.1. Khái niệm hình thái ý thức xã hội
Đời sống xã hội gồm hai lĩnh vực là đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, trong đó đời sống vật chất là tồn tại xã hội, đời sống tinh thần là ý thức
xã hội. Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội, bao
gồm điều kiện địa lý tự nhiên; dân số, mật độ dân số và phương thức sản xuất
trong đó phương thức sản xuất có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
của toàn bộ xã hội.
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là kết quả của sự
phản ánh ý thức con người đối với một tồn tại xã hội nhất định. Cho nên không

thể tìm nguồn gốc hoặc giải thích một hiện tượng của ý thức xã hội từ bản thân
ý thức xã hội mà phải từ tồn tại xã hội. Chẳng hạn sự đối lập về ý thức giai cấp
là do sự đối lập về lợi ích kinh tế đẻ ra.
Ý thức xã hội gồm hai cấp độ khác nhau là tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Tâm lý xã hội là các hiện tượng ý thức như tình cảm, tâm trạng, thói quen, ước
muốn, động cơ, thái độ và những xu hướng tâm lý các nhóm người khác nhau
được hình thành một cách tự phát trên cơ sở những điều kiện sinh sống hàng
ngày của con người. Hệ tư tưởng là những quan điểm, những học thuyết lý
thuyết về kinh tế, chính chị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, khoa học…phản
ánh và bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định trong xã hội.
1.2. Khái niệm hình thái ý thức khoa học
Ý thức xã hội phản ánh nhiều mặt khác nhau của đời sống xã hội, do đó
biểu hiện thành nhiều hình thái: hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, đạo
đức, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo. Ý thức khoa học là một trong những hình
thái ý thức xã hội đặc biệt. Nó phản ánh bản chất và tính quy luật của thế giới
khách quan bằng những khái niệm, phạm trù lý luận. Đương nhiên trước khi
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page


đạt được trình độ đó thì ý thức khoa học của loài người thường tồn tại dưới
dạng kinh nghiệm; phải làm như thế này, như thế kia nhưng không hiểu sao
phải làm như vậy. Chẳng hạn như người nông dân rất thành thạo và dày kinh
nghiệm về đoán thời tiết, mùa vụ, về phân loại đất đai để cấy trồng, về chăn
nuôi gia súc…nhưng không giải thích được về mặt lý luận những kinh nghiệm
đó.
Do sự thôi thúc của cuộc sống, do đòi hỏi của cuộc đấu tranh với thiên
nhiên để tồn tại và do cuộc đấu tranh với các thế lực xã hội lỗi thời, phản động
mà tri thức khoa học của loài người không ngừng phát triển. Ngày nay khoa

học đã và đang có những khuynh hướng mới như vừa phân ngành sâu, vừa tích
hợp mạnh, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do đó ranh giới
giữa các lĩnh vực khoa học: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học
nhân văn, khoa học tư duy đã trở nên rất tương đối, giữa chúng có sự xâm
nhập vào nhau. Trong xu hướng ấy chủ nghĩa Mác-Lênin tỏ ra là đỉnh cao về
tri thức khoa học cách mạng của loài người hiện nay.
Nhận thức được vị trí và vai trò của khoa học trong sự phát triển xã hội,
Đảng ta đã đề cập đến vấn đề này từ Đại hội III Đến đại hội VIII. Đại hội III
nhấn mạnh’ Cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt’. Đại hội VIII coi” Sự
nghiệp giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Quan
điểm này tiếp tục được khẳng định lại trong Đại hội IX: “ Phát triển khoa học
và công nghệ cùng với sự phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Cách đây trên 160 năm, C.Mác đã đưa ra nhận định về xu thế nhất thể hóa giữa
khoa học và sản xuất bằng luận điểm nổi tiếng: “ Khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp”. Điều này đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và trở thành xu
thế tất yếu trong sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trên thế giới. Khoa học
và công nghệ hiện đại ngày càng đóng vai trò quan trọng, to lớn trong nền sản

Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page


xuất xã hội và trong đời sống nhân loại, đồng thời là một đặc điểm nổi bật của
thời đại ngày nay và là yếu tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Nghị quyết TW7 Khoá VII Đảng ta đã đưa ra khái niệm công nghiệp
hóa, hiện đại hóa như sau: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý

kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến
hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ,
tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Khái niệm công nghiệp hoá trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn
những quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất, kinh doanh, cả
về dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và
các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như
vậy, công nghiệp hoá theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình
độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động
thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ
nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang
nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại
hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt
là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn. Công
nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết học hoặc sự thay đổi
thái độ trong nhận thức tự nhiên.

Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page


CHƯƠNG II - CƠ SỞ THỰC TIỄN – VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC CÔNG
NGHỆ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM

1. Thực trạng việc áp dụng khoa học công nghệ ở Việt Nam
Có thể chia quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta thành hai

giai đoạn lớn: 1960 – 1986 và 1986 đến nay:
1.1 . Giai đoạn 1960 – 1986:

Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất
quán được xác định từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) và có điều
chỉnh, bổ sung chút ít trong các Đại hội IV (12/1976); V (1981) và các hội nghị
Trung ương. Đại hội Đảng lần thứ III chỉ rõ: “Muốn cải tiến tình trạng nông
nghiệp lạc hậu hiện nay của nước ta, đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ
yếu lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác
ngoài con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá
độ ở nước ta” và chủ trương của Đảng và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
miền Bắc là: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại,
kết hợp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành một nước công nghiệp và nông nghiệp hiện đại”.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi (1961-1964) công nghiệp hóa ở miền
Bắc đã được tiến hành với nhịp điệu khẩn trương trong điều kiện hòa bình và
thu được kết quả đáng ghi nhận. Năm 1965 so với năm 1955 vốn đầu tư xây
dựng cơ bản trong công nghiệp tăng 6 lần: Giá trị tổng sản lượng công nghiệp
tăng 9,2 lần, trong khi đó đầu tư cơ bản cho nông nghiệp chỉ tăng 1,96 lần và
giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 1,6 lần.
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page


Trong thời kỳ 1961-1965: Tốc độ tăng bình quân giá trị tổng sản lượng
công nghiệp là 13,4%, của nông nghiệp 4,1%. Do vậy tỷ trọng của công nghiệp

trong thu nhập quốc dân tăng từ 16% (1957) lên 18,2% (1960) và 22,2%
(1965); Còn tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 44,3% (1957) xuống 42,3% (1960)
và 41,7% (1965). Đến năm 1964 nước ta về căn bản giải quyết được vấn đề
lương thực và đáp ứng được 90% nhu cầu hàng tiêu dùng đồng thời bắt đầu tạo
nguồn tích lũy từ trong nước.
Năm 1975 đất nước thống nhất. Sự hợp nhất hai miền có cơ sở kinh tế
rất khác nhau về nguyên lý, mục tiêu cơ cấu kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện trong
nước và quốc tế có nhiều thay đổi so với đầu những năm 60 cho phép và đòi
hỏi phải có chiến lược công nghiệp hóa thích hợp hơn. Nhưng trên thực tế
đường lối công nghiệp hóa mà đại hội Đảng lần thứ 3 đã được xác định vẫn giữ
nguyên và được thực hiện trên phạm vi cả nước. Đại hội Đảng lần thứ 4 (tháng
12/1976) chỉ rõ: “Điều đó có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện công nghiệp
hóa – hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, tạo ra một cơ cấu kinh tế công - nông
nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, phát huy năng lực sẵn có và xây dựng
thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí”.
Do có chủ trương nôn nóng, chủ quan duy ý chí như trên, cộng với sai
lầm trong tổ chức lãnh đạo, trong cơ chế và chính sách nên trong thời kỳ 19761980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế
ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông nghiệp yếu
kém, không đáp ứng nhu cầu trong nước, công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng
không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 1976-1980, tổng sản phẩm xã hội chỉ
tăng bình quân 1,4%, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4% trong khi đó dân số tăng
2,24%/năm, sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm chỉ tăng 0,6%, trong đó
công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng 1,9%/năm.
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page



Nền kinh tế nước ta vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp
còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ
thuật chưa xây dựng được bao nhiêu, kinh tế tuy có phát triển khá nhưng năng
suất chất lượng và hiệu quả còn rất thấp, còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, khả
năng cạnh tranh còn quá thấp so với nhiều nước xung quanh. Thực tế này cho
thấy nguy cơ tụt hậu xa hơn còn rất nhiều.
Trước tình hình đó và từ hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) năm 1979 và
tiếp đó là Đại hội lần thứ 5, Đảng ta đã nhận thấy cần phải nhận thức đúng hơn
vị trí của nông nghiệp và phải bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lại cơ cấu
đầu tư. Đại hội Đảng lần thứ 5 (1981) đã xác định: “ Nội dung chính của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong 5 năm (1981-1985) và những năm 80 là tập
trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu
dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng”. Sự điều chỉnh thay
đổi bước đầu trong nhận thức và chủ trương đã có tác động nhất định đến phát
triển kinh tế- xã hội và công nghiệp hóa. Bình quân hàng năm thời kỳ 19811985 sản xuất tăng 9,5%, sản xuất nông nghiệp tăng 5,3%; cơ cấu công nghiệp
trong thu nhập quốc dân sản xuất vẫn được tăng từ 20% (1980) lên 30%
(1985).
1.2. Giai đoạn 1986 đến nay:
Đây là giai đoạn có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức và
quan điểm về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ
những quan điểm, chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế xã hội ở nước ta
trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội
chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp
hóa – xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” và “trước mắt là trong kế
hoạch 5 năm 1986-1990 phải thật sự tập trung sức người, sức của vào thực hiện
cho ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page



hàng xuất khẩu…”. Thực hiện ba chương trình mục tiêu thực chất đó cũng là
chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa – hiện đại hóa từ ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng sang lấy công nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu làm trọng tâm.
Từ những quan điểm và chủ trương đổi mới trên Đảng và Nhà nước đã
cụ thể hóa bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện đáng kể
nhất là chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối
ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính, tiền tệ kiềm chế
lạm phát, chuyển cơ cấu kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Sự phát triển của công nghiệp trong những năm đổi mới không chỉ thể
hiện ở tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở việc chú trong hơn đổi mới
công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của công nghiệp ở sự chuyển
dịch cơ cấu theo hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát
triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành tác động tích cực đối với
sự phát triển chung của nền kinh tế quốc tế, khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế và đa dạng hóa các loại hình thức tổ chức kinh doanh.
2. Vai trò của khoa học công nghệ đối với công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước
Các-Mác đã dự đoán rằng: đến giai đoạn công nghiệp, việc sản sinh ra
sự giàu có thực sự không phụ thuộc nhiều vào thời gian lao động, mà lại phần
lớn phụ thuộc vào tình trạng chung của khoa học và sự tiến bộ của kĩ thuật hay
sự vận dụng của khoa học vào sản xuất. Đến ngày nay, sự tiên đoán ấy của
Các-Mác đã trở thành sự thật.
Ở từng quốc gia, khoa học công nghệ được coi là một trong những nhân
tố hàng đầu quyết định đến sự phát triển kinh tế. Khoa học công nghệ không
những chỉ giúp cho việc mở rộng khả năng sản xuất, chuyển từ phát triển nền
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014


Page


kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu, thông qua đó
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế mà còn thúc đẩy quá trình hình thành
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế thích hợp và ổn
định. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn góp phần tăng sức cạnh tranh của
hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường. Do đó, có thể nói chắc chắn
rằng khoa học công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát
triển kinh tế nói chung, Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nói riêng của các quốc
gia và Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội Phổ biến khoa học kỹ
thuật Việt Nam, ngày 18/5/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Chúng ta đều
biết rằng trình độ khoa học, kỹ thuật của chúng ta hiện nay còn thấp kém. Lề
lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng
suất lao động còn thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều.
Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến những cái đó. Khoa học là
tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc
lột, giữa con người với thiên nhiên. Ở đây chỉ nói riêng về khoa học tự nhiên
và khoa học kỹ thuật.
Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục
vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện
đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi…”.
Quan điểm khẳng định mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa khoa học công
nghệ với sản xuất và đời sống trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự phát
triển luận điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin về khoa học và công nghệ trong điều
kiện cụ thể của nước ta. Từ thế kỷ 19, trong bộ Tư bản, C.Mác đã từng nêu vai
trò của khoa học –công nghệ: “Kỹ thuật học vạch rõ thái độ tích cực của con
người đối với tự nhiên, vạch trần quá trình sản xuất trực tiếp ra đời sống của

con người và những điều kiện của đời sống xã hội”. C.Mác đã tiên đoán khoa
học - công nghệ sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Còn Ph.Ăngghen,
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 10


khi đánh giá về động lực phát triển của khoa học - công nghệ đã từng nhận xét:
“Khi xã hội có nhu cầu về kỹ thuật thì nhu cầu này thúc đẩy khoa học hơn
mười trường đại học”.
Như vậy có thể thấy quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học
và công nghệ là sự phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về khoa
hoc và công nghệ trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khoa học công nghệ làm cho sản xuất phát
triển nhanh. Ngược lại, sản xuất cũng chính là động lực thúc đẩy quá trình phát
triển của khoa học công nghệ. Ngoài ra, khoa học công nghệ còn có nhiệm vụ
phục vụ sự phát triển của xã hội, cải biến xã hội nhằm gìn giữ, phát triển bản
sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thụ tinh hoa văn hóa thế giới. Tư tưởng đó
của Người không thuần túy là lời chỉ dẫn cho việc giải quyết một vấn đề lý
luận đặt ra từ thực tiễn, mà còn là định hướng cho sự phát triển của khoa học.
Vai trò của khoa học công nghệ ngày càng thể hiện rõ là lực lượng sản
xuất trực tiếp quan trọng hàng đầu, hay nói một cách khác là nền tảng, động
lực phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò động lực của khoa học công nghệ chỉ có
thể thực hiện được một khi hoạt động khoa học công nghệ gắn liền với hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế -xã hội.
Khoa học và công nghệ liên kết chặt chẽ với sản xuất, nhất là của một
nước còn nghèo, phục vụ sản xuất phát triển, đồng thời sản xuất lại cũng là
động lực thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển. Điều này có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với nước ta là nước chậm phát triển lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề. Chúng ta phải hết sức tranh thủ áp dụng các thành tựu từ thấp đến

cao của khoa học và công nghệ trên thế giới, đồng thời từng bước xây dựng
tiềm lực khoa học và công nghệ của nước ta hướng tới khoa học và công nghệ
hiện đại. Khoa học và công nghệ làm cho sản xuất phát triển nhanh, tạo điều
kiện nâng cao đời sống của nhân dân lao động, trước hết là đảm bảo các nhu
cầu căn bản, xóa đói giảm nghèo.
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 11


Khoa học và công nghệ có nhiệm vụ phục vụ sự phát triển xã hội, “cải
biến” xã hội nước ta, nghĩa là phát triển toàn diện văn hóa, vừa giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, xóa bỏ các phong tục
tập quán lạc hậu, tiến tới một xã hội văn minh.
Khoa học công nghệ cũng là một bộ phận của văn hóa, có ảnh hưởng
quan trọng tới lối sống, đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng
nền văn minh, tinh thần tiến bộ của đất nước.
Khoa học công nghệ phải góp phần bảo vệ đất nước. Khoa học công
nghệ phải gắn chặt với quốc phòng, cung cấp cho quân đội các phương tiện
chiến đấu, hậu cần… Đối với các chế độ của giai cấp bóc lột thì khoa học công
nghệ được sử dụng tối đa một cách sáng tạo để chiến thắng. Hơn nữa, đối với
những nước mà kinh tế còn thấp kém như nước ta, vừa thoát khỏi chế độ thực
dân lại phải huy động lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến để bảo vệ độc
lập dân tộc, thì sự phát triển khoa học công nghệ lại từ quốc phòng, an ninh mở
rộng ra kinh tế xã hội.
Đúng là khoa học công nghệ ở các nước tư bản phát triển rất cao và
được giai cấp tư sản triệt để lợi dụng để củng cố chế độ bóc lột, nâng cao lợi
nhuận. Nhưng chủ nghĩa xã hội cũng đã chứng tỏ tiềm năng phát triển nhanh
khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (VD: sự
phát triển ngành năng lượng nguyên tử và hàng không vũ trụ, các ngành công

nghiệp nặng của Liên Xô trước đây và của Trung Quốc hiện nay). Ngày nay
khi chuyển sang kinh tế tri thức thì vai trò của khoa học công nghệ bảo đảm sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội càng quan trọng.
Vai trò của khoa học công nghệ trong việc xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở các mặt:
Khoa học công nghệ gắn với sản xuất bảo đảm thỏa mãn các nhu cầu về vật
chất tinh thần ngày càng cao của nhân dân; Khoa học công nghệ bảo vệ môi
trường thiên nhiên, trước mắt phải bảo vệ môi trường hạn chế hậu quả của
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 12


thiên tai và chiến tranh trước đây, của công nghiệp hóa hiện nay; Khoa học
công nghệ phục vụ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của mọi người.
Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức được rằng
khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát
triển. Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu được trông đời sống kinh
tế – văn hoá của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở
lên đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn giai đoạn
phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt đầu tiến hành
công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định khoa học và công nghệ là cái
giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình
độ quản lý, bản đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh
xã hội công bằng, văn minh, khoa học và công nghệ phải trở thành “quốc sách
hàng đầu”. Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nghị quyết Trung ương II của Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá VIII đã xác định rõ :” công nghiệp hóa – hiện đại

hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ”, “khoa học và
công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa – hiện đại
hóa”. Chỉ bằng con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển khoa học
và công nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước
giàu mạnh văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là phổ cập
những tri thức khoa học và công nghệ cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội
là một nhu cầu cấp thiết của xã hội ta hiện nay. Nghị quyết Trung ương II cũng
đã nhấn mạnh phải thật sự coi “Sự phát triển khoa học và công nghệ là sự
nghiệp cách mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần
chúng. Bởi lẽ dù chúng ta có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, có đưa trang thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình công nghệ
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 13


hiện đại nhất vào nước ta thì cũng không có gì để có thể bảo đảm đẩy mạnh
được công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nếu không có được những con người am
hiểu và sử dụng chúng. Do đó, xã hội hoá tri thức khoa học và công nghệ là
một trong những nhu cầu thiết thực và cấp bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình phát triển và nâng
cao trình độ công nghệ. Việc nâng cao trình độ công nghệ được thực hiện
trong quá trình điện khí hoá, cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá
và sinh học hoá. Trong các ngành lĩnh vực kinh tế quốc dân, các thành phần
kinh tế, các vùng kinh tế của đất nước trong đó cần ưu tiên đưa ngành công
nghệ hiện đại thích hợp vào các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế,
các vùng lãnh thổ mũi nhọn trọng điểm, đạt hiệu quả kinh tế cao, tích luỹ
nhanh và lớn. Có như vậy mới tạo khả năng thu hút và thúc đẩy công nghiệp
hóa – hiện đại hóa các ngành, các lĩnh vực và các thành phần kinh tế.

* Khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển kinh tế
Nhiều nhà kinh tế đồng ý rằng sự tiến bộ về công nghệ là nhân tố chính
cho tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, các hoạt động nghiên cứu và chuyển
giao là động lực chủ yếu cho các tiến bộ về công nghệ. Mặt khác, nhiều nhà
kinh tế còn nhấn mạnh hơn và cho rằng các lí thuyết về tăng trưởng cổ điển
với việc cho rằng lao động và vốn thì chưa đủ để đóng góp cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế. Nhà kinh tế học Robert Solow, người đã đọat giải Nobel về
kinh tế năm 1987 với lí thuyết về vai trò của công nghệ trong tăng trưởng kinh
tế chứng minh rằng sự thay đổi về công nghệ bao gồm cả công nghệ được cải
thiện, và nâng cao trình độ lực lượng lao động là nhân tố chính trong tăng
trưởng dài hạn.
Một số lí thuyết kinh tế đề cập nhiều đến mối quan hệ giữa tiến bộ về
công nghệ và phát triển kinh tế. Lí thuyết tăng trưởng mới nhấn mạnh tốc độ
tăng trưởng do nguồn vốn con người, bao gồm các tri thức hay các ý tưởng
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 14


sáng tạo từ khu vực doanh nghiệp, trường học và chính phủ. Cách tiếp cận này
như thế cho rằng các ý tưởng mới là nguồn gốc dẫn đến sự cải tiến về công
nghệ và do đó dẫn đến sự cải thiện về năng suất.
Trong một nền kinh tế toàn cầu cạnh tranh như hiện nay, các quốc gia
cần duy trì sự phát triển về công nghệ trong hầu hết các khu vực kinh tế. Hàn
Quốc và Đài Loan là những ví dụ điển hình về sự đầu tư vào phát triển công
nghệ, để từ đó chuyển các doanh nghiệp nội địa thành các công ty toàn cầu.
Trong khi đó, Singapore thì thực hiện việc thương mại hóa công nghệ để đạt
được sự tăng trưởng kinh tế.
Từ những điều trên, ta thấy rằng, khoa học công nghệ có tác động rất
lớn tới nền kinh tế ở mỗi một quốc gia. Những tác động này được thể hiện ở

những mặt cơ bản sau:
- Mở rộng khả năng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển
kinh tế: dưới tác động của khoa học công nghệ, các nguồn lực được mở rộng,
điều này đã tạo điều kiện chuyển từ nền kinh tế theo chiều rộng sang phát triển
kinh tế theo chiều sâu.
- Thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế (tỉ trọng
trong GDP của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng dần còn ngành
dịch vụ thì ngày càng giảm.)
- Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế thị
trường.
Vai trò nền tảng, động lực và then chốt của khoa học – công nghệ đối
với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nói riêng, đối với sự phát triển của
xã hội Việt Nam nói chung được biểu hiện trên các mặt cụ thể sau:
Khoa học – công nghệ có vai trò quyết định trong việc trang bị và trang
bị lại các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại tiên tiến cho các
ngành kinh tế quốc dân nói chung, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 15


lượng sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị
trường thế giới với mục tiêu không ngừng cải thiện và nâng cao mức sống của
người dân, sự phồn vinh và sức mạnh của Việt Nam. Đó là nhiệm vụ đầu tiên,
quan trọng nhất cuả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay.
Khoa học – công nghệ còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là
nguồn lực trí tuệ - một nguồn lực to lớn, có tính chất quyết định trong sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta. Có nhiều cách thức để chúng

ta trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại, tiên tiến cho các ngành kinh tế
quốc dân. Tuy nhiên dù bằng hình thức nào đi chăng nữa điều quan trọng và có
tính chất quyết định nhất ở đây là cần phải có những con người có đủ trí tuệ và
năng lực để có thể khai thác và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị hiện đại.
Văn kiện đại hội Đảng IX đã chỉ rõ “ Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo khoa học –
công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa ”.
Khoa học – công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi trường
thông tin và thị trường thông tin – huyết mạch của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và của cả nền kinh tế. So với giai đoạn phát triển trước đây thì ngày nay
thông tin có một vị trí cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định đối với hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cả những hoạt động tinh thần. Thông tin
trong lĩnh vực khoa học – công nghệ có liên quan rất chặt chẽ đến việc nắm bắt
các bí mật, bí quyết công nghệ nằm trong các phương pháp, các thiết bị, các dữ
liệu khoa học – công nghệ mới nhất. Trong xã hội hiện đại, trình độ phát triển
của công nghệ thông tin có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của hàng
loạt công nghệ hiện đại.

Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 16


Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học – công nghệ là cung cấp các trang
thiết bị hiện đại thông qua các công nghệ cao, công nghệ sạch để con người
khắc phục được những hậu quả tiêu cực do chính các phương tiện kỹ thuật
chưa hoàn thiện trước gây ra.
3. Thành tựu và hạn chế của khoa học - công nghệ góp phần thúc
đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta

3.1. Thành tựu
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự ủng hộ của các cơ quan quản
lý, các tổ chức cá nhân và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, những
năm qua ngành Khoa học và công nghệ Việt Nam đã có một số thành tựu nổi
bật, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ nhất, nền tảng pháp lý cho hoạt động khoa học và công nghệ về cơ
bản được hoàn thiện : Nghị quyết số 20 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Trung ương khóa XI, Luật Khoa học và công nghệ 2013 và hàng loạt cơ chế
chính sách mới đã được ban hành, tạo điều kiện cho khoa học và công nghệ đổi
mới mạnh mẽ và ngày càng hiệu quả. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành đồng
bộ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình phát triển khoa học và
công nghệ quốc gia đến năm 2020, gắn kết mục tiêu phát triển khoa học và
công nghệ với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành, lĩnh vực, địa
phương và cả nền kinh tế.
Cơ chế quản lý tổ chức và hoạt động khoa học và công nghệ được đổi
mới đã bước đầu giải phóng sức sáng tạo của cộng đồng khoa học và công
nghệ, hy vọng sẽ tạo ra nhiều kết quả nghiên cứu nổi bật, thúc đẩy ứng dụng
kết quả khoa học và công nghệ trong các ngành, lĩnh vực phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân.

Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 17


Thứ hai, khoa học và công nghệ đã thực sự có đóng góp quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các công trình khoa
học của chúng ta đã cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoạch
định đường lối, chủ trương của Đảng; bước đầu làm rõ cơ chế của nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiêu chí của một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; khẳng định các hệ giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam;
khẳng định chủ quyền quốc gia đối với các quần đảo Hoàng sa, Trường sa và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Chúng ta có quyền tự hào về nền toán học, vật lý của Việt Nam đã đạt
được thứ hạng cao trong khu vực, với các nhà khoa học trẻ tài năng như GS
Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Vũ Hà Văn, đã tạo tiền đề hình thành một số
lĩnh vực khoa học và công nghệ mới về vũ trụ, y sinh, hạt nhân. Chúng ta đã
tiệm cận trình độ các nước trong khu vực về công nghệ nano, tế bào gốc, giải
mã gen cây trồng, vật nuôi và giải mã bộ gen người. Trong các lĩnh vực kinh tế
: Việt Nam đã tự lực xây dựng nhà máy thủy điện Sơn La 2400 MW lớn nhất
Đông Nam Á, trong đó có thiết bị cơ khí thủy công và thiết bị nâng hạ 1200
tấn; Việt Nam là 1 trong 3 nước ở Châu Á và 1 trong 10 nước trên thế giới làm
chủ thiết kế và chế tạo giàn khoan dầu khí tự nâng 90m nước, 120m nước...
Ngành công nghiệp công nghệ thông tin và viễn thông phát triển vượt
bậc với việc chúng ta đang chuẩn bị sản xuất vi mạch điện tử, thị trường viễn
thông Việt Nam đã được xếp thứ 13 Châu Á về cả quy mô và tốc độ phát triển
trên 3 lĩnh vực: cố định, di động và Internet, sản phẩm phần mềm của BKAV
được sử dụng ở 106 quốc gia, sản phẩm của Tosy được trình diễn ở nhiều triển
lãm công nghệ quốc tế. Việt Nam đã đưa lên quỹ đạo các vệ tinh viễn thông
Vinasat1 và Vinasat2, vệ tinh viễn thám VNREDSAT và đã chế tạo thành công
vệ tinh siêu nhỏ Pico. Chúng ta cũng đã làm chủ công nghệ tiên tiến trong thiết
kế, thi công các công trình giao thông, xây dựng có trình độ công nghệ cao :

Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 18


cầu bê tông đúc hẫng khẩu độ trên 150m, cầu dây văng nhịp lớn, cầu Pá Uôn

trụ cao gần 100m.
Các kết quả nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ đã
đóng góp tới 30% giá trị gia tăng trong nông nghiệp, Việt Nam trở thành quốc
gia hàng đầu thế giới về năng suất và sản lượng xuất khẩu lúa gạo, hạt tiêu, hạt
điều, cao su, cá tra, hải sản... Việt Nam là quốc gia tự nghiên cứu, sản xuất
được nhiều loại vắc xin phòng các bệnh hiểm nghèo và tiêm chủng mở rộng,
mới đây là vắc xin Rotavin; đã thành công trong lĩnh vực ghép tạng và đa tạng
trên người, dẫn đầu khu vực về phẫu thuật nội soi, giải trình tự gen; đã làm chủ
quy trình phân lập, bảo quản tế bào gốc. Chúng ta cũng đã làm chủ công nghệ
thiết kế, chế tạo và sử dụng vũ khí, khí tài, phương tiện hiện đại, bảo đảm quốc
phòng, an ninh trong tình hình mới. Và mặc dù còn nhiều khó khăn, xếp hạng
thứ 132/142 trên thế giới về GDP, nhưng Việt Nam được Tổ chức sở hữu trí
tuệ thế giới WIPO xếp hạng 76/142 quốc gia trên thế giới, và xếp thứ 7/37
quốc gia có thu nhập trung bình thấp về trình độ đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, tiềm lực khoa học và công nghệ có bước phát triển nhanh. Cho
đến nay cả nước có khoảng 4,28 triệu người có trình độ từ cao đẳng, đại học
trở lên, trong đó có 24,3 nghìn tiến sỹ, 101 nghìn thạc sỹ, trên 62 nghìn người
làm R&D chuyên nghiệp.
Các tổ chức khoa học và công nghệ công lập trong những năm gần đây
được chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Nguồn lực tài chính dành
cho khoa học và công nghệ được duy trì mức 2% tổng chi ngân sách nhà nước
và tổng đầu tư của toàn xã hội cho khoa học và công nghệ năm 2013 đạt
khoảng 1,2% GDP, đã có hơn 20 tỉnh, thành phố và hàng trăm doanh nghiệp
lớn thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt có doanh nghiệp
dành tới 20% thu nhập sau thuế cho hoạt động khoa học và công nghệ.

Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 19



Hệ thống các khu công nghệ cao cũng đã được đầu tư phát triển, với 3
khu công nghệ cao quốc gia, 8 khu công viên phần mềm tập trung, 12 khu nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại các địa phương. Hạ tầng thông tin khoa học
và công nghệ đã có bước phát triển về chất trên cơ sở ứng dụng rộng rãi mạng
Internet, mạng Vinaren và các thư viện điện tử.
Thứ tư, thị trường khoa học và công nghệ và các dịch vụ khoa học và
công nghệ đã bước đầu hình thành, hứa hẹn tiềm năng lớn. Các quyền về tài
sản trí tuệ, quyền giao dịch và mua bán công nghệ được Nhà nước bảo hộ.
Hàng năm có trên 100 sáng chế của người Việt Nam được xác lập, hàng vạn
nhãn hiệu hàng hóa Việt Nam được bảo hộ. Dịch vụ tư vấn, giám định, định
giá tài sản trí tuệ và công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa được tăng
cường. Các chợ công nghệ và thiết bị Techmart, hoạt động trình diễn, kết nối
cung cầu công nghệ đã được triển khai, hoạt động hỗ trợ sáng kiến của người
dân được quan tâm.
Thứ năm, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ được đẩy mạnh.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên
70 nước, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ; là thành viên của 100 tổ chức quốc
tế và khu vực về khoa học và công nghệ; Bộ khoa học và công nghệ có bộ phận
đại diện ở 12 nước có trình độ phát triển cao; đã có hơn 80 hiệp định, thỏa
thuận hợp tác khoa học và công nghệ cấp Chính phủ và cấp Bộ đã được ký kết
và đang thực hiện. Mới đây ngày 6/5/2014 Việt Nam đã ký chính thức Hiệp
định hợp tác hạt nhân dân sự (Hiệp định 123) với Hoa Kỳ góp phần nâng cao
năng lực ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, phục vụ
chương trình điện hạt nhân của Việt Nam.
Để đạt được những thành tựu nổi bật nêu trên, trước hết phải kể đến sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Nhà nước, mà biểu hiện
cụ thể trong suốt chặng đường đổi mới vừa qua là Nghị quyết Trung ương 2
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014


Page 20


khóa VIII, Kết luận Trung ương 6 khóa IX, Thông báo của Bộ Chính trị khóa
X, Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI, các
bộ Luật về khoa học và công nghệ và Luật khoa học và công nghệ năm 2013,
cùng hàng loạt cơ chế chính sách của Chính phủ. Đó cũng là sự nỗ lực không
mệt mỏi trong lao động sáng tạo của các thế hệ trí thức khoa học và công nghệ
Việt Nam và những người dân say mê sáng tạo, đã vượt qua nhiều khó khăn,
gian khổ, lập nên những kỳ tích về khoa học, kỹ thuật trong các cuộc kháng
chiến cũng như trong xây dựng và phát triển đất nước.

3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, khoa học công nghệ nước ta vẫn
còn nhiều hạn chế:
• Tiềm lực khoa học – công nghệ vẫn còn ở mức thấp so với khu
vực và thế giới, chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhu cầu phát triển. Tỷ lệ cán
bộ khoa học – công nghệ trên tổng số dân chưa cao so với các nước khác. Đặc
biệt còn thiếu nhiều chuyên gia đầu ngành, việc đào tạo và đào tạo lại tiến
hành chậm, nguy cơ hụt hẫng trong đội ngũ rất lớn, nhất là trong ngành mũi
nhọn như công nghệ thông tin, sinh học, cơ khí chế tạo máy. Cơ chế quản lý
kinh tế chưa thực sự gắn kết các hoạt động khoa học – công nghệ với kinh tế
xã hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho hoạt động khoa học –
công nghệ phát triển.
• Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực
khoa học công nghệ tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học công
nghệ cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
• Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu:
Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh

Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 21


vực như bưu chính – viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất
điện, xi măng, nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta
hiện lạc hậu khoảng 2 – 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực.
Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh
tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
• Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang
nặng tính hành chính: Quản lý hoạt động khoa học công nghệ còn tập trung
chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất
lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các
nhiệm vụ khoa học công nghệ chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội. Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa
tương hợp với chuẩn mực quốc tế. Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học công
nghệ không phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
• Thị trường khoa học công nghệ chậm phát triển. Hoạt động mua, bán
công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ còn bị hạn chế
do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định pháp lý cần thiết, đặc
biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ. Tóm lại, công tác quản
lý của Nhà nước về khoa học công nghệ còn chưa đổi mới kịp so với yêu cầu
chuyển sang kinh tế thị trường.
• Doanh nghiệp còn thờ ơ với việc nâng cao trình độ công nghệ. Đối với
các doanh nghiệp Nhà nước lớn cũng ít quan tâm đến đổi mới công nghệ vì
thường có vị thế độc quyền nên không chịu sức ép cạnh tranh và có tâm lý dựa
dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước.
• Cơ chế bảo hộ cho các đối tượng sở hữu công nghệ còn yếu. Thể chế

bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp chưa tạo đủ lòng tin cho các nhà đầu tư
thành lập và phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ. Điều này liên
quan đến hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực chuyển
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 22


giao công nghệ. Hệ thống luật pháp liên quan đến lĩnh vực này đang trong quá
trình hoàn thiện cho nên khó có thể nói đến tính chuẩn mực của các qui định
pháp luật theo hướng tương thích với các nước trong khu vực và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
4. Một số biện pháp tiếp tục ứng dụng khoa học công nghệ nhằm
đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện
đại hóa, chỉ còn 5 năm để hoàn thành mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đại hội Đảng XI
đã đề ra, là một giai đoạn nước rút, cần có chủ trương lớn thể hiện một hệ quan
điểm và tư duy mới, tháo gỡ các điểm nghẽn cản trở, dành ưu tiên và tập trung
mọi nguồn lực để phát triển khoa học – công nghệ. Khoa học công nghệ cần
đáp ứng yêu cầu, cần tiếp tục có các biện pháp thể hiện trên những quan điểm
lớn sau đây:
* Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách pháp luật về khoa học và công
nghệ
Hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến khoa học và công nghệ
thông qua việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật triển
khai các Nghị định hướng dẫn Luật khoa học và công nghệ 2013, bao gồm các
Nghị định về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
khoa học và công nghệ; hoạt động thông tin khoa học và công nghệ; sử dụng,
trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; đầu tư và cơ chế tài

chính cho hoạt động khoa học và công nghệ; điều lệ tổ chức và hoạt động của
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia. Trình Chính phủ Dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ. Trình Chính
phủ Đề án tái cơ cấu ngành khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa –
hiện đại hóa.
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 23


Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về khoa
học và công nghệ, chú trọng đồng bộ, thống nhất giữa hệ thống pháp luật
chuyên ngành với các lĩnh vực khác có liên quan tạo môi trường pháp lý thuận
lợi thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học và công
nghệ.
* Đẩy mạnh ứng dụng nghiên cứu khoa học, đổi mới và chuyển giao
công nghệ trong công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ, chuyển giao
ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã
hội.
Tiếp tục tập trung triển khai thực hiện các chương trình quốc gia về khoa
học và công nghệ: Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình
Phát triển sản phẩm quốc gia, Chương trình quốc gia về công nghệ cao và các
chương trình quốc gia khác về khoa học và công nghệ.
Thúc đẩy việc khai thác các Quỹ về khoa học và công nghệ như Quỹ
Phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp,
Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia nhằm hỗ trợ nghiên cứu trong nước, chuyển
giao các công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, hỗ trợ hoạt động
nhập khẩu công nghệ, chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp để nâng cao
chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm, hàng hóa đáp ứng nhu cầu

công nghiệp hóa - hiện đại hóa các ngành, các lĩnh vực trong nước và hướng
tới xuất khẩu.
Đối với các vùng kinh tế trọng điểm: Tăng cường hỗ trợ các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương đẩy nhanh tốc độ đổi
mới công nghệ. Hình thành một số khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
khu công nghệ thông tin tập trung. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học,
công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Hình thành các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung. Chú trọng phát triển sản xuất sản phẩm nông nghiệp sạch
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 24


với quy mô công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng
nông thôn mới.
Thúc đẩy hoạt động ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống. Hỗ trợ các doanh
nghiệp đầu tư nghiên cứu đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ để nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Triển khai các giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả của hệ thống bảo
hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn quốc. Hỗ trợ phát triển tài
sản trí tuệ của doanh nghiệp giai đoạn đến năm 2015; hỗ trợ, hướng dẫn doanh
nghiệp, địa phương đăng ký xác lập quyền và bảo vệ tài sản trí tuệ cho hàng
xuất khẩu, đặc biệt ở các thị trường tiềm năng của Việt Nam. Tiếp tục nâng cao
nhận thức của toàn xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp về sở hữu trí tuệ; đẩy
mạnh việc nghiên cứu những vấn đề cấp thiết hiện nay về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ; tăng cường công tác đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ trong hệ
thống sở hữu trí tuệ.
* Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia
Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước năm 2015

cho khoa học và công nghệ thông qua việc đặt hàng thực hiện nhiệm vụ khoa
học và công nghệ và cơ chế khoán trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công
nghệ. Từng bước đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để phát triển tiềm lực khoa
học và công nghệ quốc gia.
Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư từ xã hội cho khoa học và công nghệ.
Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án về cơ
chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho hoạt
động nghiên cứu khoa học, đổi mới và phát triển công nghệ. Trình Thủ tướng
Chính phủ Quyết định về việc ban hành chính sách khuyến khích tư nhân thành
Tiểu luận Triết học-Nhóm 4 Lớp QTKD đợt 2 -2014

Page 25


×