Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tiểu luận môn triết học phép biện chứng duy vật với đường lối tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.71 KB, 37 trang )

Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Đề tài: Phép biện chứng duy vật với đường lối tăng
trưởng kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội của Đảng
CSVN
Chương I. Lý luận chung về chủ nghĩa duy vật biện chứng
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện
chứng
Triết học duy vật cồ đại (Duy vật chất phác thời cổ đại)
Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ,
xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI
trước công nguyên với những thành tựu rục rỡ như ở Ân Độ, Trung Hoa, Hy lạp
- La Mã. về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm
của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận thì chưa có
cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức
kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa
học của bản thân tri thức triết học. Vì, quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật,
vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể cụ thế, v.v... còn ý thức là
linh hồn, là cảm giác nhưng nó phụ thuộc vào vật chất.
Anghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thuỷ, ngây thơ,
nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cố, và
người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn
tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không
ngừng thay đối, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học
duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất
của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số dạng vật chất cụ thể hoặc thuộc
tính của nó. Những kết luận của chủ nghĩa duy vật cổ đại còn mang nặng tính
trực quan, ngây thơ, chất phác. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật


chất phác cố đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tụ’ nhiên đế giải thích về
giới tự’ nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế.
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức
Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của triết
học duy vật tù' thời kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn được gọi là triết học tự
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

1


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

nhiên. Xét về mặt thế giới quan là duy vật, nhưng về phương pháp luận lại ảnh
hưởng bởi phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên (phương pháp thực
nghiệm) của thời kỳ này, nhất là khoa học vật lý.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình xuất hiện từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và
đỉnh cao ở thế kỷ XVII - XVIII. Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học
còn là một bộ phận trực tiếp của triết học. Đen thời kỳ này nảy sinh nhu cầu các
ngành hoa học cụ thế tách ra khởi triết học trở thành các ngành khoa học cụ thế,
độc lập; dùng phương pháp nghiên cứu thật chi tiết nhằm phát hiện các thuộc
tính, những qui luật của vật chất như tính năng, tác dụng, độ bền vật liệu...
Từ đó làm xuất hiện phương pháp mới trong khoa học tự nhiên - phương
pháp thực nghiệm và cũng trên cơ sở đó xuất hiện sự thống trị của phương pháp
tư duy siêu hình trong triết học duy vật. Phương pháp siêu hình xem xét sự vật
trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, không vận động, không biến đổi.
Triết học duy vật thời kỳ này đại diện cho những tư tưởng của giai cấp tư
sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung
cổ. Trong số các đại biếu cơ bản của triết học duy vật thời kỳ này là triết học duy

vật Pháp với những quan điểm của Metri (La Mettrie), Điđơrô (Diderot Denis),
Hônbách (Holbach Paul Henri), chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa
duy vật, do Mác - Anghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó
được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước
đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật
biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ
nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII,
đồng thời phát triển CNDV lên một tầm cao mới, nó đã thế hiện được sự thống
nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa
học.Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà
còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện
thực đó.
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triến những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc
xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp
biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

2


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

nghĩa duy vật trở nên triệt đế và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học.
Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự’ nhiên, xã hội

và tư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn
là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điếm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở
thành những nguyên tắc xuất phát điếm của phương pháp luận.
Triết học Mác - Lênin còn được coi là hệ thống các nguyên lý, phạm trù,
quy luật cơ bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu
lịch sử và nghiên cứu con người. Cho nên triết học Mác - Lênin còn được gọi là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Nghiên cứu triết học Mác - Lênin thực chất là việc khẳng định ý nghĩa
bước ngoặt cách mạng do Mác thực hiện trong lịch sử triết học và được Lênin bố
sung phát triến thêm.
Triết học Mác - Lênin không chỉ giải thích về thế giới vật chất và vai trò
con người về mặt lý luận mà chủ yếu là sự vận dụng nó trong hoạt động thực
tiễn xã hội để khẳng định vai trò của triết học đối với đời sống xã hội.
Sự hình thành và phát triến của phép biện chứng duy vật Mác - Lênin đã
bao hàm sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa
học.
Sự hình thành những quan điếm duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin
được coi là cơ sở lý luận về mặt thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa
học đế nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu con người. Đó cũng là việc khắng định
sản xuất vật chất được coi là cơ sở đối với sự tồn tại, vận động phát triển của xã
hội, khắng định con người là chủ thế của lịch sử, khắng định quần chúng nhân
dân là lực lượng sáng tạo chân chính của lịch sử, đồng thời nhấn mạnh vai trò
quyết định tồn tại của xã hội, ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội.
Triết học Mác - Lênin giải quyết mối quan hệ triết học và khoa học hiện
đại trên cơ sở nghiên cứu của triết học. Song, nó cũng là hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho sự hoạt động của đảng cộng sản trong
quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, và quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

Triết học Mác ra đời đã làm thay đối mối quan hệ giữa triết học và khoa
học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học.
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

3


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phương pháp luận
đúng đắn cho sự phát triến khoa học.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa
triết học Mác - Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết
học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành.
Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư
duy biện chứng thì trước những phát hiện mới, người ta dễ mất phương hướng
và đi đến những kết luận sai lầm về mặt triết học.
Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đối sâu sắc; việc nắm vững
triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trao dồi phấm chất
chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo của mình, tránh những sai lầm do
chủ nghĩa chủ quan và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể
giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn cần tránh cả hai khuynh hướng sai lầm: hoặc xem thường triết học hoặc
là tuyệt đối hoá vai trò của triết học. Neu xem thường triết học sẽ rơi vàotình
trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất
phương hướng, thiếu chủ động và sáng tạo.
Còn nếu tuyệt đối hoá vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều,

áp dụng máy móc những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến tình hình
cụ thể trong những trường hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.
1.2 Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
1.2.1 Hai nguyên lí của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và
ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố,
các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Nội dung của nguyên lý
- Các sự vật, hiện tượng trong thế giới có mối liên hệ với nhat không? Nếu có
thì tính chất của các mối liên hệ đó như thế nào và ý nghĩa của việc nghiên cứu
vấn đề này như thế nào?
- Phép siêu hình cho rằng: các sự vật, hiện tượng trong TGKQ không có liên hệ
gì với nhau, chúng tồn tại một cách biệt lập nhau. Do đó, không có sự tác động
qua lại, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Đây là một quan niệm sai lầm, không
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

4


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

phản ánh đúng bản chất của thế giới.
VD: Trong tự nhiên: Giới tự nhiên là một thể thống nhất, nó phụ thuộc lẫn nhau.
Nếu một loài sinh vật tuyệt chủng thì mắt xích của sự sống trên thế giới
sẽ bị tổn thương.
Trong xã hội, các sự kiện kinh tế - chính trị ở một quốc gia nào đó
không chỉ ảnh hưởng đến quốc gia đó mà còn lan tỏa khắp thế giới.

Về tư duy, các truyền thống, phong tục tập quán ảnh hưởng rất mạnh mẽ
trong cộng đồng. Hay như ông cho có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”
- Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng cũng như cá bộ phận của chúng không
tồn tại biệt lập với nhau mà có sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
Phép biện chứng duy vật sử dụng phạm trù mối liên hệ phổ biến để khái quát
thực trạng trên.
- Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Trên cơ
sở đó, phép biện chứng duy vật xem xét thế giơi như một chỉnh thể. Theo đó, các
sự vật, hiện tượng dù có phong phú, đa dạng thế nào thì cũng chỉ là những dạng
cụ thể của một thế giới duy nhất và thống nhất – thế giới vật chất.
- Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
thể hiện ở các luận điểm cơ bản sau: Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới hay
giữa các mặt, các bội phận, yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tượng luôn tồn tại
trong những mối liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau; bản chất, tính
quy luật trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng chủ yếu được bộc
lộ thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng. Để thấy rõ hơn nội dung
này, hãy xem xét các khía cạnh sau:
- Về sự tồn tại của các mối liên hệ:
+ Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan cho rằng, cái
quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là
một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay ở ý thức, cảm giác của con người.
+ Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại
biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ
thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy
định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
Tuy nhiên cũng có một số người cho rằng, các sự vật hiện tượng có mối
liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, song các hình thức liên
hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau.
+ Những người theo quan điểm biện chứng duy vật cho rằng: các sự vật, hiện
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân


5


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua
lại, chuyển hóa lẫn nhau; Tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối
liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù
có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những
dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có
tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại
trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
- Về vai trò của các mối liên hệ:
+ Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng trong thế giới
chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn
nhau.
+ Do sự tồn tại cũng như bản chất của sự vật hiện tượng cũng chỉ bộc lộ qua các
mối quan hệ, cho nên, trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thưc, chúng
ta không được tuyệt đối hóa, hay xem nhẹ một mối quan hệ nào, cũng không nên
tách rời các mối qaun hệ với nhau mà phải tính đến tổng thể các mối liên hệ
trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Tính chất của mối liên hệ:
Gồm 3 tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng
phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi
sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức con người.
- Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở

bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những
sự vật hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một
thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần,
những yếu tố khác.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện
tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ
biểu hiện khác nhau. Phát triển có thể từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: sự học tập phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn; sự sống phát triển từ đơn giản (đơn bào) đến phức tạp (động vật)
Nguyên lý về sự phát triển
Nội dung nguyên lý:
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

6


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng cũng như các bộ phận của chúng
không tồn tại một cách tĩnh tại, bất biến mà luôn vận động, chuyển hóa lẫn nhau,
sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Phép biện chứng duy vật sử dụng phạm
trù phát triển để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật, hiện tượng.
- Cơ sở của nguyên lý này là quan niệm về vật chất vận động, theo đó, vật chất
luôn luôn vận động, không có vận động nào lại không phải là vận động của vật
chất; vận động là thuộc tính của sự vật, là phương thức tồn tại của vật chất.
- Nội dung cơ bản của nguyên lý về sự phát triển được thể hiện ở những điểm

sau:
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động, phát triển, trong
đó phát triển được xem như trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá
trình phát triển, sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới cao hơn, hoàn thiện
hơn. Phương thức của sự phát triển là sự thay đổi về chất trên cơ sở những thay
đổi về lượng. Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là những mâu thuẫn và giải
quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng, khuynh hướng của sự phát triển
diễn ra theo đường “xoáy ốc”
- Để hiểu rõ nội dung này, chúng ta hãy xem xét cá khía cạnh sau:
+ Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn
thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có
sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng
tròn khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới.
+ Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoắn
ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lập lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao
hơn.
+ Quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển, họ cho rằng mọi sự vật, hiện
tượng từ lúc sinh ra cho đến lức mất đi không hề phát triển
Tính chất của sự phát triển :
Ba tính chất cơ bản : Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú.
- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, theo quan điểm duy
vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó
là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận
động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn phát triển.
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

7



Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

- Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là
nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng
nào của thế giới khách quan.
- Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có
quá trình phát triển không giống nhau.
1.2.2 Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
- Nguyên nhân và kết quả
- Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Nội dung và hình thức
- Bản chất và hiên tượng
- Khả năng và thực hiện
1.2.3. Một số quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất và quy luật phủ định. Trong đó:

Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển

Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển

Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động.
Những kết luận về mặt phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam"
cho hoạt động cách mạng của những người cộng sản.
1.2.3 Bản chất của CN duy vật biện chứng

a. Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điếm
thực tiễn.
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy tồn tại. Ở đây, mối
quan hệ này được hiểu là mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, vấn đề này, trong
khi chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, coi ý thức là nguồn gốc
của vật chất, sản sinh ra vật chất thì việc khẳng định bản chất của thế giới là vật
chất, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại
chủ nghĩa duy tâm, đặt nền móng cho sự phát triến của chủ nghĩa duy vật sau
này. Song, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là duy vật không
triệt đế (duy vật về tự’ nhiên nhưng duy tâm về xã hội) và không thấy được sự
tác động trở lại của ý thức đổi với vật chất.
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

8


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên, song nguyên nhân chủ
yếu và cũng là "khiếm khuyết chủ yếu" là các nhà duy vật trước Mác thiếu quan
điếm thực tiễn.
Thực tiễn, với tư cách là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo hiện thực mà những dạng cơ bản
của nó là hoạt động thực nghiệm khoa học, được các nhà duy vật biện chứng coi
là hoạt động bản chất của con người. Hoạt động này là mắt khâu trung gian trong
mối quan hệ ý thức của con người với thế giới vật chất.
Thông qua thực tiễn, ý thức con người được vật chất hoá, tư tưởng trở
thành hiện thực. Thông qua thực tiễn, ý thức con người đã không chỉ phản ánh

thế giới mà còn "sáng tạo thế giới". C.Mác cho rằng thực tiễn là nơi con người
chứng minh sức mạnh, chứng minh tính hiện thực và tính trần tục của tư duy.
Bằng việc đưa quan điểm thực tiễn vào hoạt động nhận thức, đặc biệt việc
thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội, các nhà duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ
nghĩa duy vật trước đó đế giải quyết thoả đáng vấn đề cơ bản của triết học. Ở
đây, trong khi khắng định vai trò quyết định của các yếu tố vật chất, các nhà duy
vật biện chứng đã "không loại trừ việc các lĩnh vực tư tưởng, đến lượt chúng, lại
có tác động trở lại, nhưng là tác động cấp hai lên những điều kiện vật chất ấy...";
không loại trừ việc các lĩnh vục tư tưởng"... cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất,
một khi nó thâm nhập vào quần chúng".
b. Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phép biện
chứng
Trước Mac, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về cơ bản bị tách rời
nhau. Chủ nghĩa duy vật tuy có chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất
định, nhưng nhìn chung phương pháp siêu hình giữ vai trò thống trị, đặc biệt
trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII.
Trong khi đó, phép biện chứng lại đạt đến trình độ đỉnh cao ở chủ nghĩa
duy tâm với quan niệm về sự phát triến của "ý niệm tuyệt đối" trong triết học cố
điển Đức.
Việc tách rời giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng đã không chỉ
làm các nhà duy tâm mà ngay cả các nhà duy vật trước Mác không hiếu về mối
quan hệ phố biến, về sự thống nhất và nối tiếp nhau của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới vật chất.
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

9


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD


Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Với việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó, với
việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đương thời, C.Mác và
Ph.Angghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu
phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí đế hình thành nên chủ nghĩa duy
vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép
biện chứng. Sự thống nhất này đã đem lại cho con người một quan niệm hoàn
toàn mới về thế giới - quan niệm thế giới là một quá trình với tính cách là vật
chất không ngừng vận động, chuyến hoá và phát triến.
c. Quan niệm duy vật triệt để
Bất kỳ một học thuyết triết học nào cũng phải thế hiện quan niệm của
mình về tự' nhiên xã hội.
Khi giải quyết những vấn đề tụ’ nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác đứng
trên quan điểm duy vật vì các nhà duy vật đều khẳng định sự tồn tại của thế giới
vật chất và thừa nhận tính thứ nhất của vật chất. Song, vì không hiếu đúng về vật
chất, không hiếu đúng về nguồn gốc, bản chất của ý thức, thiếu quan điếm thực
tiễn, thiếu phương pháp tư duy biện chứng và một số hạn chế về xã hội, các nhà
duy vật trước Mác đã lấy các yếu tố tinh thần như tình cảm, ý chí, nguyện vọng,
v.v... làm nền tảng. Vì vậy, chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật
không triệt đê.
Khẳng định nguồn gốc vật chất của xã hội; khẳng định sản xuất vật chất là
cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt
xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và
coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được tính không triệt đế đế chủ nghĩa
duy vật cũ. V.I.Lênin nhận định rằng: "Trong khi nhận thức sâu và phát triển chủ
nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng
học thuyết ấy tù’ chồ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loại

người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mac là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng
khoa học".
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử là cuộc cách mạng đối với quan
niệm về xã hội, nó đem lại cho con người một công cụ vĩ đại trong việc nhận
thức và cải tạo thế giới.
d. Tính thực tiễn - cách mạng
Tính thực tiễn - cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết thể
hiện ở:
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

10


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản
Giai cấp vô sản là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại; nó
có lợi ích, có mục đích phù hợp với lợi ích cơ bản, mục đích cơ bản của nhân
dân lao động và sự phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã
được giai cấp vô sản tiếp nhận như một công cụ định hướng cho hành động, như
vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể
nhân loại. Công cụ định hướng này, vũ khí lý luận này đã tạo nên bước chuyển
biến về chất của phong trào công nhân từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác.
C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định: giống như chủ nghĩa duy vật biện chứng thấy
giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy chủ nghĩa
duy vật biện chứng là vũ khí tinh thần của mình nên ngay từ đầu, khuynh hướng
mới, coi lịch sử phát triến của lao động là chìa khoá đế hiếu toàn bộ lịch sử của
xã hội, đã chủ yếu hướng về giai cấp vô sản và đã được giai cấp vô sản dành cho

một sự hưởng ứng mà nó không tìm thấy và không mong chờ có được ở một nơi
nào khác.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng
vai trò cải tạo thế giới.
Bất kỳ một học thuyết triết học nào cũng không trực tiếp làm thay đổi thế
giới, mà thông qua tri thức về thế giới, con người hình thành mục đích, phương
hướng, biện pháp, v.v... chỉ đạo hoạt động của mình tác động vào thế giới.
Bất kỳ học thuyết triết học nào cũng phải giải thích thế giới, song đế thực
hiện được vai trò cải tạo thế giới học thuyết phải phản ánh đúng thế giới, phải
định hướng hoạt động con người phù hợp với quy luật, phải được quần chúng
nhân dân tin và hành động theo. Nội dung và bản chất của chủ nghĩa duy vật
biện chứng đáp ứng được yêu cầu này.
Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện ở
mối quan hệ mật thiết với hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, với
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên mọi lĩnh vục.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới Theo
chủ nghĩa duy vật biện chứng, trong quan niệm về tính hợp lý của cái hiện tồn đã
bao hàm cả quan niệm về sự phủ định, sự diệt vong tất yếu của cái hiện tồn đó.
Ph.Ăngghen cho rằng không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng
cả. Trên cả sự vật và trong mọi sự vật đều mang dấu ấn của sự suy tàn tất yếu
bởi không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự hình thành và tiêu
vong, của sự tiến triển vô cùng từ thấp đến cao.
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

11


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông


Tính cách mạng sâu sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng thế hiện qua
việc nó phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự vận động và phát triển; qua
đó, quá trình xoá bỏ cái cũ, cái lỗi thời để xác lập cái mới, cái tiến bộ là tất yếu.
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng thế hiện phong phú,
đa dạng qua mồi luận điểm của nó song có thế khái quát thành tư tưởng cơ bản
Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất; trong thế
giới vật chất, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức song ý thức có
thế tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là kết
quả của sự tư biên mà là thành tựu hoạt động thực tiễn, thành tựu tư duy khoa
học của nhân loại trong quá trình phản ánh thế giới. Trên tinh thần ấy có thế
khẳng định chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa
học.
Song, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ thống mở nên chúng ta không
coi nó như một cái gì đó đã xong xuôi hẳn, bất khả xâm phạm mà coi nó luôn
cần được bố sung, phát triến trên nền tảng phát triến của hoạt động thực tiễn và
hoạt động nhận thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam
cho hành động, nó đặt ra những yêu cầu có tính nguyên tắc phương pháp luận
mà từ những nguyên tắc ấy con người phải vận dụng sáng tạo sao cho phù hợp
với tùng hoàn cảnh lịch sử cụ thế.

GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

12


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD


Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Chương 2: Phép biện chứng duy vật với đường lối tăng trưởng kinh
tế và đảm bảo công bằng xã hội của Đảng CSVN
2.1 . Phép biện chứng duy vật với đường lối tăng trưởng kinh tế của Đảng
CSVN
2.1.1. Vài nét về lý luận tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế đó là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng thực tế được
tính cho toàn bộ nền kinh tế (của một quốc gia, một vùng hay một ngành) trong
một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Tăng trưởng kinh tế, xét ở đầu vào là do 3 yếu tố: Số lượng vốn đầu tư, số
lượng lao động và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) mà chủ yếu là: Tiến bộ
công nghệ, kỹ thuật, hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào là lao động, vốn đầu
tư. Tăng trưởng kinh tế dựa vào 2 yếu tố đầu là sự tăng trưởng theo bề rộng
(tăng trưởng về số lượng), còn dựa vào yếu tố thứ 3 đó là tăng trưởng về chất
lượng (phát triển theo chiều sâu). Do đó, tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới
2 góc độ: Số lượng và chất lượng.
Trong nền kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế về mặt lượng được đánh
giá chủ yếu thông qua các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thống tài
khoản quốc gia (SNA) bao gồm: Tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản phẩm quốc
nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng thu nhập quốc dân (GNI),
trong đó, GDP thường là chỉ tiêu quan trọng nhất và được sử dụng phổ biến nhất.
Tăng trưởng kinh tế về mặt chất lượng, đó là sự biến đổi về quy mô, cơ
cấu, chất lượng của nền kinh tế gắn với việc đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội,
sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường ... Đây cũng là 3
nhóm chỉ tiêu trụ cột của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Chất
lượng tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững của nền kinh tế, thể hiện trên các mặt sau: (1) Tốc độ tăng trưởng cao và
được duy trì trong một thời gian dài, (2) Nền kinh tế phát triển có hiệu quả thể
hiện ở năng suất lao động cao, hiệu quả sử dụng vốn cao, sức cạnh tranh của nền

kinh tế cao, (3) Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, hiện đại; (4)
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái…
Ngày nay nhiều quốc gia trên thế giới đã lựa chọn mô hình tăng trưởng
chú trọng cả lượng và chất của quá trình tăng trưởng.
2.1.2. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

13


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Một nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm, phát triển cân đối, bền vững
hay không ổn định nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố quản lí của nhà nước có vai trò
quan trọng nhất, quyết định đến sự phát triển của thị trường và toàn bộ nền kinh
tế. Nước ta đang trong thời kì quá độ đi lên CNXH, nhiệm vụ hang đầu hiện nay
là phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Chúng ta đang xây dựng và
hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên nền kinh tế thị
trường có nhiều khuyết tật không thể khắc phục được như khủng hoảng, lạm
phát, thất nghiệp, đặc biệt khủng hoảng chu kì ngày càng bị rút ngắn đã đặt ra
cho nền kinh tế những hậu quả mà nó không tự giải quyết được. Những hậu quả
đó buộc nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế để khắc phục những khuyết tật
do nó gây ra.
Một số thành tựu đạt được:
* Tăng trưởng kinh tế ở nước ta có tầm quan trọng hàng đầu không chỉ do
nước ta có điểm xuất phát thấp (kinh tế - kỹ thuật, xã hội ...) đi lên CNXH, phải
tăng trưởng nhanh để sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, rút ngắn khoảng

cách tụt hậu về kinh tế, khoa học – công nghệ so với các nước trong khu vực và
thế giới, mà chỉ có tăng trưởng nhanh mới có thể thực hiện được các mục tiêu
phát triển xã hội như, tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư, xóa đói giảm
nghèo, phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa ... thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.
* Trong gần 25 năm qua (1986-2011), nền kinh tế Việt Nam đã có số tăng
trưởng liên tục, tốc độ cao, khá ấn tượng và rất đáng tự hào. Thể hiện thời kỳ
Chiến lược 1991-2000 đạt 7,4%/năm và thời kỳ 10 năm 2001-2010 đạt
7,2%/năm. Tính từ năm 1976 đến nay, thời gian tăng trưởng liên tục của nền
kinh tế Việt Nam là gần 30 năm, vượt kỷ lục 23 năm của Hàn Quốc.
Nhờ có sự tăng trưởng liên tục và cao trong nhiều năm:
+ Quy mô của nền kinh tế đã lớn lên đáng kể. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp 2 lần so với năm 2000, theo giá thực tế
gấp 3,4 lần. Kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 4 lần/năm 2000. Năm 2010,
GDP/người/năm đạt 1.200 USD (năm 1990 là gần 100 USD).
+ Tăng trưởng kinh tế ngay sau khi đổi mới đã đưa Việt Nam thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất
đã đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển và bước vào nhóm
nước đang phát triển có nhu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của WB.
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

14


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

+ Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.

+ Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh Vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá
nhanh, vượt mức dự kiến trên 30% so với kế hoạch.
+ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng
bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định.
+ Hội nhập kinh tế và kinh tế quốc tế có nhiều bước chuyển biến quan
trọng.
+ Tăng trưởng kinh tế đã góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức
xúc: Lao động, việc làm, thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống, xóa đói giảm
nghèo, thực hiện an sinh xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội từng bước được
thực hiện ...
+ Nền kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập sâu, đầy đủ vào nền kinh tế
khu vực và thế giới. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, thế và lực của nước ta
vững mạnh thêm nhiều, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Ngoài ra vẫn tồn tại các mặt yếu kém như:
* Tuy nhiên, nhìn nhận một các khách quan có thể thấy rằng tốc độ phát
triển kinh tế chưa thật tương xứng với tiềm năng và cơ hội mà đất nước đã có
được. Tăng trưởng kinh tế trong những năm qua vẫn chủ yếu theo bề rộng, chưa
chú trọng phát triển theo chiều sâu, chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả của
tăng trưởng hạn chế, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản
phẩm hàng hóa còn thấp kém... Cụ thể:
(1) Tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên,
tăng vốn đầu tư và lao động rẻ. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các ngành tăng
trưởng thuần túy dựa vào khai thác, sử dụng tài nguyên như các ngành nông,
lâm, thủy sản, khai thác... luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn khoảng 30% GDP trong
giai đoạn 1991-2009. Động lực của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp có tỷ lệ chi phí trung gian cao, phụ
thuộc vào nhập khẩu tiêu tốn ngoại tệ, thường gây ô nhiễm môi trường và khu
vực dịch vụ chưa có tăng trưởng rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng nhanh,
nhưng cơ cấu xuất khẩu thay đổi chậm, chủ yếu là xuất hàng thô, sơ chế, khoáng
sản, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu thấp.

(2) Hiệu quả và chất lượng đầu tư thấp (chất lượng tăng trưởng thấp)

GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

15


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

+ Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế ngày
càng dựa nhiều và vốn FDI, nhưng nguồn vốn này phân bổ không đều, chất
lượng chưa cao và cũng chưa đóng góp nhiều vào chất lượng tăng trưởng.
+ Đầu tư dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả sử dụng các nguồn
vốn đầu tư thấp, nhất là nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Hiệu quả đầu tư thể
hiện ở chỉ số ICOR (tỷ lệ vốn đầu tư/GDP) có xu hướng tăng cao trong thời kỳ
1991-2009. Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê, giai đoạn (19911995), bình quân là 3,5; giai đoạn (1996-2000) là 4,8; giai đoạn (2001- 2005):
5,1; trong hai năm 2008, 2009 là 8,0. Chỉ số ICOR cao đồng nghĩa với hiệu quả
đầu tư thấp và sụt giảm, năng lực cạnh tranh giảm. Theo khuyến cáo của WB hệ
số ICOR 3,0 là hệ số phản ánh đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo
hướng bền vững đối với các nước đang phát triển. Điều muốn nói là ở khu vực
đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước hệ số ICOR rất cao, năm
2009 có thể lên đến 12,0, trong khi đó ICOR chung của nền kinh tế là 8,0.
(3) Những nền tảng cơ bản của tăng trưởng (ổn định kinh tế vĩ mô, thể chế
kinh tế - xã hội, giáo dục và y tế cơ bản, cơ sở hạ tầng) còn nhiều bất cập, năng
lực cạnh tranh chậm được cải thiện. Các yếu tố đóng góp vào việc gia tăng chất
lượng tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (chất lượng
nguồn nhân lực, hiệu quả các thị trường nhân tố sản xuất: lao động, đất đai, công
nghệ; năng lực đổi mới, sáng tạo công nghệ) còn thiếu và yếu.

Theo Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) khi khảo sát 133 vùng
lãnh thổ và quốc gia thì Việt Nam có chỉ số rất thấp về chất lượng cơ sở hạ tầng
(111/133), chất lượng đường sá (120/133), chất lượng cung cấp điện
(103/133), chi phí cho giáo dục cơ sở (103/133), chất lượng các trường đào tạo
và quản lý (11/133).
Theo Báo cáo của WEF về năng lực cạnh tranh toàn cầu, năng lực cạnh
tranh của Việt Nam từ 2001 đến nay hầu như không được cải thiện, thậm chí
Việt Nam còn bị tụt hạng về năng lực cạnh tranh trong năm 2008, 2009. Năm
2009 xếp thứ 75/133 nước tham gia xếp hạng; năm 2008: 70/134 nước. Như vậy
năm 2009 năng lực cạnh tranh bị tụt 5 hạng so với năm 2008.
(4) Trên thực tế, việc gắn kết giữa tăng trưởng với tiến bộ, công bằng xã
hội còn chưa chặt chẽ. Tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chưa bền vững, tăng
trưởng chưa gắn chặt với giảm nghèo, tăng trưởng cũng làm phát sinh nhiều vấn
đề xã hội bức xúc: việc làm cho người lao động, phân hóa giàu nghèo gia tăng,
sự chênh lệch về trình độ phát triển, về thu nhập... giữa các vùng, miền ngày
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

16


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

càng lớn, môi trường bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng, tệ nạn xã hội vẫn
diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng, đặc biệt là tệ nạn ma túy, mại dâm.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X và Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) Đảng ta đã rút ra bài học
kinh nghiệm: ... Phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát
triển bền vững, nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc

độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô ...
2.1.3. Đề xuất một số biện pháp xây dựng đường lối tăng trưởng
kinh tế VN dựa trên phép biện chứng duy vật
2.1.3.1 Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là xu hướng phát triển hiện đại bảo đảm sự hài hòa
giữa kinh tế - xã hội- môi trường, giữa các ngành, lĩnh vực, các vùng lãnh thổ,
giữa trước mắt và lâu dài và giữa các thế hệ... Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới
về phát triển xã hội, họp tại Côphahaghen, Đan Mạch (tháng 3-1995), các
nguyên thủ quốc gia đã đưa ra mục tiêu phát triển không chỉ là phát triển kinh tế
đơn thuần mà phải phát triển xã hội, phát triển con người trong sự cân đối hài
hòa giữa đời sống vật chất và phát triển con người vừa an toàn, vừa bền vững.
Phát triển bền vững ngày càng trở nên cấp thiết mang tính toàn cầu, trở
thành xu thế khách quan của thế giới ngày nay, và cũng là thách thức lớn đối với
các quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Việc lựa chọn con đường, biện pháp và thể chế, chính sách đảm bảo sự
phát triển bền vững luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia (trong
đó có Việt Nam) trên con đưòng phát triển.
Ở nước ta, từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng đến Đại hội lần thứ XI đều đã
nhất quán đường lối phát triển bền vững. Trong đường lối phát triển của Việt
Nam, khái niệm ''định hướng XHCN” chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi mang ''nội
hàm'' phát triển bền vững, vì sự tiến bộ xã hội, sự phát triển tự do và toàn diện
của mỗi cá nhân. Đảng và nhà nước ta đã đưa ra định hướng Chiến lược phát
triển bền vững, với mục tiêu cơ bản... đảm bảo sự hài hòa giữa con người và tự
nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa 3 mặt: Phát triển kinh
tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Với nguyên tắc: Con người là trung
tâm của sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân.
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu ra quan điểm phát triển có tính hàng đầu là
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

17



Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu
xuyên suốt trong Chiến lược.
2.1.3.2. Đổi mới mô hình tăng trưởng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, phát triển kinh tế tri thức và trong
điều kiện nước ta đã hội nhập sâu, đầy đủ vào nền kinh tế thế giới thì tư duy phát
triển phải có sự thay đổi một cách cơ bản là: Chủ yếu dựa và tri thức, công nghệ
mới, lấy tri thức làm cơ sở, dựa vào hội nhập quốc tế để phát triển và kết hợp hài
hòa giữa yêu cầu ''theo tiếp thời đại'' với yêu cầu giữ vững định hướng XHCN
trong quá trình phát triển.
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: ''Đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hài hòa giữa
chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng chất lượng, hiệu
quả''.
Có thể hiểu và cụ thể hóa như sau:
(1) Bảo đảm sự hài hòa giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
- Phấn đấu ổn định kinh tế vĩ mô, giữ tốc độ tăng GDP hợp lý, cao và ổn
định trong dài hạn.
- Chú trọng đến chất lượng tăng trưởng.
+ Nâng cao hiệu quả các nguồn vốn đầu tư: Giảm chỉ số ICOR, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động xã hội, tăng mức
đóng góp của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)...
+ Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm.
+ Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đây là một nội dung của chất
lượng tăng trưởng. Phát triển giáo dục - đào tạo và y tế - Hai lĩnh vực thể hiện rõ

tiến bộ xã hội. Đồng thời tạo điều kiện cơ hội đảm bảo sự bình đẳng cho mọi
người tiếp cận giáo dục - đào tạo và y tế ...
(2) Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp phụ
trợ.
Phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng,
sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp theo hướng; Tăng hàm
lượng khoa học - công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm; ưu tiên,
chọn lọc phát triển các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ cao để đến năm
2015, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 35% trong tổng giá trị
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

18


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

sản xuất công nghiệp, và các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, có khả
năng tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nông thôn, từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp
môi trường…
(3) Đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn, và phát triển mạnh các ngành
dịch vụ có giá trị gia tăng cao và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật.
- Đẩy mạnh CNH nông nghiệp, phát triển nông nghiệp toàn diện theo
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
+ Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất
hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao.
+ Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công

nghiệp, đảm bảo chất lượng và an toàn dịch bệnh.
+ Phát triển lâm nghiệp bền vững. Khai thác có hiệu quả và bền vững các
nguồn lợi hải sản gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường
biển.
- Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có lợi thế cạnh
tranh, có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng như: du lịch, hàng
hải, hàng không, tài chính - ngân hàng (kể cả bảo hiểm), các dịch vụ kinh doanh
khác (Maketing, dịch vụ pháp lý, tư vấn đào tạo, các dịch vụ phần mềm máy tính
...).
- Phát triển nhanh, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật đồng bộ với
một số công trình hiện đại, trước hết là hệ thống giao thông (nhất là giao thông
đô thị), cung cấp năng lượng (điện), thủy lợi đảm bảo sử dụng tiết kiệm các
nguồn lực và hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường.
(4) Phát triển và khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng thời mở rộng
thị trường xuất khẩu.
+ Đẩy mạnh phân công lao động xã hội; phát triển nhu cầu nâng cao thu
nhập, đời sống nhân dân; tiếp tục thực hiện chủ trương ''người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam”. Phát triển đồng bộ và quản lý vận hành có hiệu quả các
thị trường cơ bản (hàng hóa và dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường bất động
sản, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường dịch vụ kinh doanh).
+ Tiếp tục hình thành phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, mũi nhọn
trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời lựa chọn mặt hàng xuất
khẩu trọng điểm, phát huy lợi thế so sánh động. Cải thiện chất lượng hàng hóa
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

19


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD


Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

xuất khẩu... Củng cố thị trường nước ngoài đã được thiết lập, nhất là thị trường
lớn, giàu tiềm năng, đồng thời mở các thị trường mới có triển vọng phát triển ...
(5) Gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao là tiền đề, điều kiện vật chất
để giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Ngược lại, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường là động lực, nhân tố đảm bảo tăng
trưởng kinh tế cao, bền vững.
Tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã
hội và không tự nó dẫn đến tiến bộ xã hội, mà phải có sự điều tiết của xã hội
thông qua Nhà nước đề phân phối và phân phối lại kết quả sản xuất theo hướng
đảm bảo công bằng xã hội. Vì thế, phải gắn phát triển nhanh và bền vững trong
quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện như sau:
- Gắn kết, tăng trưởng với xóa đói giảm nghèo bền vững, tức là tiếp tục
thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo theo
hướng bền vững do Đại hội lần thứ IX của Đảng đề ra và được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt năm 2002.
- Tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm, tạo nhiều việc làm cho
người lao động, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn, vùng bị thu hồi đất để phát triển đô
thị, công nghiệp và dịch vụ ...
- Chiến lược phát triển của Việt Nam luôn luôn xuất phát từ con người, coi
con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển; Do đó, tăng trưởng
kinh tế phải đưa đến kết quả là nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI).
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn với mục tiêu phát triển hài hòa, bền vững
giữa các vùng trong nước và bảo vệ, cải thiện chất lượng môi trường.
+ Điều chỉnh mô hình đô thị hóa đảm bảo đô thị hóa trải rộng trên phạm vi
cả nước, gắn phát triển kinh tế đô thị với xây dựng nông thôn mới.

+ Gắn mục tiêu bảo vệ môi trường với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội;
Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường ... Chú
trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và
tiêu dùng bền vững; Thực hiện có hiệu quả các giải pháp chống thiên tai và
Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu nhất là nước biển dâng.
Ngoài ra cần:
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

20


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

- Tập trung xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho thu hút đầu tư và các thành phần kinh tế phát triển, hoàn
thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là giao thông và hạ tầng đô thị, xác
định đây là giải pháp trọng tâm xuyên suốt của tỉnh trong 5 năm tới.
- Hoàn thành và triển khai thực hiện có hiệu quả các quy hoạch phát
triển ngành, địa phương.
- Chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương để triển khai hoàn
thành đúng tiến độ, chất lượng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu, nhất
là các công trình giao thông trọng điểm trong quy hoạch phát triển giao thông
đường bộ Việt Nam đến năm 2020 đã có nguồn vốn, các công trình thủy lợi và
hạ tầng đô thị.
-Kịp thời kiểm tra, tháo gỡ khó khăn vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ
triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm và tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho nhà đầu tư đến tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn.
- Duy trì chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh thuộc nhóm khá của cả

nước.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân phát triển.
- Khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, đẩy nhanh tốc
độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
* Để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế
thời kỳ 2011-2020, cần có những điều kiện sau đây:
Một là, huy động các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, thông qua: thị
trường chứng khoán, hoạt động huy động vốn của các trung gian tài chính, phát
triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI và
ODA). Đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là vốn đầu tư nhà nước, nguồn
vào của các doanh nghiệp nhà nước.
Hai là, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, với biện pháp hàng đầu là
phát triển giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục, đào tạo đại học và sau đại học và
phát triển mạnh khoa học và công nghệ (nhất là công nghệ cao) làm động lực
then chốt của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

21


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Ba là, cải cách hành chính và cải thiện môi trường thể chế kinh tế xã hội.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, ngăn chặn và

xoá bỏ sự chi phối của lợi ích nhóm, sự cố kết bất minh giữa nhà kinh doanh với
những người có vai trò quyết định chính sách trong việc sử dụng “vận động hành
lang” (Loppy) dưới nhiều hình thức khác nhau méo mó, gây trở ngại cho lợi ích
của cộng đồng, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước và làm suy giảm lòng tin
của dân đối với nhà nước.
Bốn là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Mở rộng và phát huy dân chủ trong
xã hội. Tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân.

. Phép biện chứng duy vật với đảm bảo công bằng xã hội của Đảng
CSVN
2.2.1 Vài nét về lý luận về công bằng xã hội
Trong các thời đại khác nhau của lịch sử xã hội loài người dù ở phương
Đông hay phương Tây con người đều quan tâm đến công bằng xã hội và thực
hiện công bằng xã hội đã trở thành một vấn đề trung tâm thu hút sự quan tâm
của xã hội. Có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều cách hiểu và nhiều hướng giải quyết
khác nhau về vấn đề công bằng xã hội, và họ chỉ thống nhất được với nhau ở
một điểm đó là tầm quan trọng của nó, nhất là trong xã hội hiện đại, có thể khái
quát rằng : “công bằng xã hội là quá trình định hướng để con người thoả mãn
những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong mối quan hệ phân
phối sản phẩm xã hội tương đối hợp lý giữa cá nhân và nhóm xã hội, phù hợp
với sự cống hiến của mỗi người với khả năng hiện thực của các kinh tế xã hội
nhất định”.
Nghĩa là công bằng xã hội là mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ
nguyên tắc của công bằng lfa sự đối xử ngang nhau với những người có đóng
góp hay cống hiến như nhau. Con người muốn tồn tại được phải lao động và
trong quá trình lao động con người luôn có những nhu cầu đòi hỏi, những đòi
hỏi đó ngày càng nhiều, càng đa dạng phong phú và khi đạt được nhu cầu này
rồi thì lại nảy sinh nhu cầu khác cao cấp hơn.

Nếu những đóng góp của con người được trả đúng với sức lao động họ bỏ
ra nghĩa là họ đã thực hiện được nhu cầu, họ sẽ thoả mãn và cống hiến tiếp tục.
2.2

GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

22


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Nếu không được hưởng thụ đúng với sức lao động mà họ đã bỏ ra thì sẽ dẫn đến
tiêu cực mất ổn định Xã hội: Như vậy cống hiến và hưởng thụ là những hoạt
động, nhu cầu tất yếu trong đời sống của mỗi người mà thời nào trong chế độ
cũng có. Cái khác nhau cơ bản giữa các chế độ xã hội chính là ở chỗ giải quyết
những mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ như thế nào. Thông qua các
mức độ giải quyết mối quan hệ này đánh giá công bằng xã hội. Đã thực hiện đến
mức độ nào.
Với vai trò quan trọng như trên, công bằng xã hội là ước mơ là khát vọng,
là sự phấn đấu của con người cho hạnh phúc của mình.
Vì vậy từ lâu con người đã tìm tòi nghiên cứu để chỉ ra những nguồn gốc
của sự bất công và tìm kiếm giải pháp để khắc phục sự bất công đó nhằm mục
đích xác định mục tiêu xây dựng các chính sách kinh tế xã hội của đất nước
trong từng thời kỳ nhất định. Cần khẳng định rằng không bao giờ có thể đạt tới
công bằng xã hội tuyệt đối, lý tưởng trong chừng mực và mâu thuẫn giữa nhu
cầu của con người và khả năng đáp ứng hiện thực của xã hội còn chưa giải quyết
được.
Công bằng xã hội không phải là một khái niệm, bất dịch mà nó có tính

tương đối, nó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể tuỳ thuộc vào các quan hệ
kinh tế. Do đó mỗi thời đại lại có những đòi hỏi riêng về công bằng xã hội, tiêu
chủân của công bằng xã hội, thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của xã hội.
Nếu tách rời các yếu đó thì cái được gọi là công bằng nhiều lúc không hợp lý và
ít có khả năng trở thành hiện thực.
2.2.2 Thực trạng về công bằng xã hội ở Việt nam
Nhìn chung, vấn đề công bằng xã hội tuy gắn với sự phân phối theo lao
động, gắn với các chuẩn mực pháp luật và đạo đức, gắn với hàng loạt chế độ,
chính sách, nhưng điểm tập trung của nó là vấn đề quyền lực, vấn đề chế độ xã
hội. Cách đây 30 năm, ông Frank Scarpatti – một nhà xã hội học Mỹ, trong tác
phẩm Những vấn đề xã hội(Social Problems) đã nhận xét rằng, “mục tiêu của
công bằng xã hội chỉ có thể thực hiện thông qua một chính sách làm giảm sự tập
trung quyền lực và những nguồn tài nguyên kinh tế trong tay một tầng lớp nhỏ
đặc quyền của xã hội”.
Ở Việt Nam hiện nay, nhiều người đã nhận thức được rằng, cơ chế thị
trường, dù là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng chỉ giải quyết
GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

23


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

được một phần, một bộ phận của công bằng xã hội. Sức mạnh của cạnh tranh
trong cơ chế thị trường, dù đã có sự can thiệp của nhà nước, nhưng hiệu quả
kinh doanh vẫn là chủ yếu. Các vòng quay lợi nhuận không tạo ra sự công bằng
tuyệt đối. Lợi nhuận là một nguyên tắc cứng trong cơ chế thị trường. Do lợi
nhuận, có thể các lực lượng ngang nhau trên sân chơi phải tạo được thế quân

bình để duy trì được sự vận động của các lợi ích. Tuy nhiên, cuối cùng, vẫn có
người được, người mất. Và, trong cơ chế thị trường, người ta mong được lớn,
được tối đa, do đó không dễ xác lập sự công bằng toàn diện.
Vẫn biết rằng, dù cơ chế thị trường nào thì cũng không thể có tự do vô hạn
độ, song chiều sâu nhất của cơ chế thị trường vẫn phải chấp nhận sự bất bình
đẳng, sự bất công, chấp nhận kẻ mạnh thì được, kẻ yếu thì thua
Rõ ràng là, vấn đề công bằng xã hội hiện nay không chỉ là năng suất lao
động, sự giàu sang, thu nhập bình quân tính theo đầu người cao, mà chủ yếu là
liên quan đến chế độ xã hội.
Chênh lệch giàu nghèo
Chênh lệch giàu nghèo là biểu hiện rõ nhất của bất công xã hội, nếu
khoảng cách chênh lệch này ngày càng giãn ra trong khi kinh tế đất nước vẫn có
tốc độ tăng trưởng khá, song mức độ cải thiện thu nhập của lớp người nghèo
không được bao nhiêu, thì đây là một vấn đề rất đáng được báo động.
Theo Báo cáo phát triển con người 2007-2008 của UNDP, ở nước ta, 10%
dân số nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập và chi tiêu quốc gia; 10% giàu nhất
chiếm 28,8% thu nhập và chi tiêu quốc gia; 20% dân số nghèo nhất chiếm 9%
thu nhập và chi tiêu quốc gia, còn 20% dân số giàu nhất chiếm 44,3% thu nhập
và chi tiêu quốc gia. Chênh lệch giữa 10% dân số giàu nhất với 10% dân số
nghèo nhất là 6,9 lần.
Còn theo chỉ số Gini (chỉ số chênh lêch giàu nghèo) ở Việt Nam là 34,4
lần. Theo số liệu thống kê của nước ta, nếu như năm 1993, thu nhập của 20% số
hộ có thu nhập cao nhất gấp 4,43 lần số hộ có thu nhập thấp nhất, thì năm 1996,
con số này đã là 7,3 lần và năm 2005 đã là khoảng 9 lần. Như vậy khoảng cách
giàu nghèo có xu hướng ngày càng rộng ra.
Đó là chênh lệch giàu nghèo nói chung. Ở Việt Nam, vấn đề còn quan
trọng và gay gắt hơn nhiều chính là chênh lệch về thu nhập và chi tiêu giữa nông
thôn và thành thị.

GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân


24


Tiểu luận Triết Nhóm 7_QTKD

Học Viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

Theo số liệu thống kê năm 2004, thu nhập bình quân đầu người một tháng
(theo giá thực tế) của dân thành thị là 815.400 đồng, còn của dân nông thôn là
378.100 đồng; riêng vùng Tây Bắc là thấp nhất, chỉ có 265.700 đồng. Chi tiêu
cho đời sống bình quân đầu người một tháng (theo giá thực tế) của thành thị là
594.500 đồng, còn của nông thôn là 283.500 đồng. Cũng có nghĩa là về thu nhập
cũng như chi tiêu, thành thị đều gấp hơn hai lần so với nông thôn.
Nhưng đó cũng chỉ là những con số đã được “bình quân hóa”, trong thực
tế, khoảng cách giàu nghèo còn nặng nề và đau xót hơn rất nhiều. Nhiều vùng
nông thôn miền núi còn thiếu lương thực, hoặc chỉ có bắp không có gạo, thiếu
nước sinh hoạt, thiếu các dịch vụ công cộng tối thiểu.Đáng quan tâm nhất là ở
nông thôn, nạn thiếu việc làm đang rất nghiêm trọng, không chỉ trong những
tháng nông nhàn, mà ngày càng nghiêm trọng tại những vùng đất đai chuyển
sang công nghiệp hoặc dịch vụ, người dân sau khi nhận được một số tiền đền bù
ít ỏi đã trở nên trắng tay, không nghề nghiệp, buộc phải di chuyển ra thành thị.
Cái nghèo bám theo họ từ nông thôn ra thành thị, làm tăng thêm số người nghèo
vốn đã khá đông ở thành thị.
Nhưng người nghèo ở nước ta hiện nay không chỉ nghèo về kinh tế mà
còn nghèo về kiến thức và quá yếu thế trong việc bảo đảm các nhu cầu về y tế.
Nhiều bài viết trên báo chí gần đây đã cho thấy nông dân đang là tầng lớp chịu
nhiều bất công vì được hưởng ít nhất thành quả của công cuộc đổi mới.
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, đã tạo đà phát
triển, làm cho kinh tế không ngừng tăng trưởng. Cùng với nó, các hình thức

phân phối mới đa dạng hơn đã bước đầu tạo nên động lực phát triển cho xã hội
ta. Song, cũng chính thời điểm ngày nay, mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội,
công bằng xã hội đang đứng trước hàng loạt những vấn đề thực tiễn vô cùng bức
xúc. Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài vời mức độ tàn phá ác
liệt, cơ sở kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc lậu, bối cảnh quốc tế diễn biến khá phức
tạp, kiến thức và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý đất nước còn hạn chế. Đó là
những đặc điểm lịch sử làm cho chúng ta không dễ dàng gì có thể nhanh chóng
rút ngắn được khoảng cách giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Trong xã hội Việt Nam vẫn còn tồn tại những hiện tượng không bình
thường, đúng ra là những bất công xã hội, đó là:

GV HD: ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

25


×