Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
MỤC LỤC
I. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.3
1.1 Khái niệm kinh tế thị trường 3
1.2Sự ra đời và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 4
1.3. Đặc trưng của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 5
2.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 9
2.2.2. Nguyên lý về sự phát triển 10
3.1 Mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị 12
3.2 Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 14
3.3 Mâu thuẫn trong vấn đề sở hữu: 15
3.4 Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người
XHCN 16
3.5 Giải quyết mâu thuẫn 17
II. TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
KTTT Kinh tế thị trường
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
LLSX Lực lượng sản xuất
QHSX Quan hệ sản xuất
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 1
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam - trong công cuộc đổi đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làm
thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc
và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước ta trên trường
quốc tế. Nhân tố quan trọng nhất quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới đó là
chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, được khởi
xướng từ sau đại hội Đảng lần thứ VI.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 2
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
Ăng Ghen nói: “ Sự phát triển của chính trị, luật pháp, triết học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế ”. Kinh tế là nền tảng vững chắc
cho mọi hoạt động vật chất của con người, là yếu tố quan trọng nhất của đời sống xã
hội. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn gặp rất
nhiều khó khăn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại
khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, thì ngoài
những khó khăn về kinh tế, còn tồn tại những mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, kìm
hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho
nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, thế
giới và thời đại là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu đề tài: “Phép biện chứng duy vật với đường lối xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam” dưới góc độ triết
học, trong tổng thể các mối quan hệ biện chứng, sẽ giúp chúng ta hiểu một cách sâu
sắc hơn, bản chất hơn những vấn đề xung quanh việc phát triển kinh tế.
Đề tài này sẽ chỉ rõ mối liên hệ phổ biến giữa kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với các yếu tố khác trong nền kinh tế cũng như quá trình vận động
phát triển không ngừng của kinh tế thị trường. Từ đó, hy vọng sẽ giải đáp được một
phần băn khoăn trên.
Trong giới hạn kiến thức còn hạn hẹp của mình, bài viết sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của thầy cô để bài viết được hoàn thiện
hơn.
I. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1.1 Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, mà trong đó sản phẩm
sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế
hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm
mà nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu xã hội.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó
toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường.
Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau
về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 3
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2Sự ra đời và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Theo nguyên tắc phát triển, mọi quá trình phát triển đều diễn ra một cách
khách quan và tất yếu. Kinh tế thị trường thường gắn liền với chủ nghĩa tư bản, phát
triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có
mặt trái, có khuyến tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chi
phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, đào sâu thêm hố
ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu
hoá hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc
và bị bóc lột.
Chính vì thế, như Các Mác đã phân tích và dự báo chủ nghĩa tư bản tất yếu
phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn,
nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đang cố tìm mọi cách tự điều chỉnh, tự
thích nghi nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó nên bản thân nó không
thể tự giải quyết được, có chăng chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn
mà thôi. Vì vậy, nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát
không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, nhanh chóng
xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh hiện
đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn mấy
chục năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu
vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống nhân dân Liên Xô. Nhưng
do nôn nóng, làm trái quy luật không kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút
cuộc đã không thành công. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác ở Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ
những khuyết tật mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường.
Việt Nam là một nước nghèo lạc hậu, trình độ kinh tế- xã hội còn thấp, lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những
người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân
tộc Việt Nam. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 4
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung
mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhưng về
sau mô hình này bộc lộ nhiều khuyết điểm, nguyên nhân sâu xa là bệnh giáo điều,
chủ quan, duy ý chí, không tôn trọng quy luật khách quan.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra quan niệm mới về con đường,
phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất
hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và
khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh.
Hội nghị trung ương 6 (tháng 3- 1989), khoá VI, phát triển thêm một bước,
đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần
đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội. Đến đại hội VII,
Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là
chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội
VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận hết sức quan trọng: “Sản xuất
hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”, nhưng lúc đó cũng mới dùng từ
kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải
đến đại hội IX của Đảng mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Rõ ràng kinh tế thị trường đã phát triển trong thực tế và nó
cũng đã được thừa nhận trong định hướng của Đảng ta. Như vậy, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định là tổn tại cả trong lý thuyết và thực
tế.
1.3. Đặc trưng của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Qua gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và
lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 5
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng. Sức cạnh tranh
của nền kinh tế còn kém. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt: Đất
nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường. Xây dựng XHCN
là một quá trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong quá trình đó, phải từng
bước xác lập, tạo ra những điều kiện, những tiền đề của CNXH, đồng thời tránh
nguy cơ chệch hướng.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn
toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh
tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo
những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của
lịch sử. Song, trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung
chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định
của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể. Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở
kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở
kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân
công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa
quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như
trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Do vậy, trong chủ nghĩa tư bản và trong CNXH đều
tồn tại kinh tế thị trường, nhưng có những đặc trưng khác nhau. Kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là nền kinh tế thị trường
phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường
là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc
lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không
phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và
vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay;
là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm phát huy vai trò tích
cực của kinh tế thị trường trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải
tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao đời sống nhân dân Đồng thời, hạn chế những
mặt tiêu cực của kinh tế thị trường gây ra.
Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế nước ta
không phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; cũng không
phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là
kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 6
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới. Cần hiểu rõ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa
mang tính chất chung của nền kinh tế thị trường, vừa có tính chất đặc thù vì nó hoạt
động trong khuôn khổ của những nguyên tắc và bản chất của CNXH.
Theo nguyên lý biện chứng, phát triển chính là một quá trình thống nhất giữa
khẳng định và phủ định. Chính vì vậy mà quá trình phát triển có tính chu kỳ, phát
triển là kế thừa chứ không tách rời, trong cái cao hơn bao gồm cả nhân tố cũ đồng
thời cũng thể hiện mặt mới. Đảng ta trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của
thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển của kinh tế thị trường thế
giới đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là một nền kinh tế
thị trường chung chung mà nó vừa kế thừa, tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường vừa dựa trên cơ sở các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện
trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm thực hiện mục
tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng như:
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng
sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp
pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo.
Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần. Trong nền kinh tế nước ta tồn
tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân
(gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu
cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh.
Các thành phần kinh tế đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên
tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 7
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
là một tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi
nguồn lực kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các
thành phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của đất nước nhằm thoả mãn nhu
cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều
hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau
đây: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối
theo giá trị sức lao động (nó được thực hiện trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân
và các doanh nghiệp mà vốn đầu tư là của nước ngoài), phân phối thông qua các quỹ
phúc lợi tập thể và xã hội. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt
kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình
thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các
nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó
“những thất bại của thị trường”. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là một
bộ phận cấu thành nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy
luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là
sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp
với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và
khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động, của toàn thể nhân dân.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở,
hội nhập. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, đang diễn ra quá
trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc
lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu
với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước
ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế
thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 8
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
Như vậy có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế
còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới tiến bộ xã hội mới-
xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng cộng sản Việt
Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Lựa chọn mô hình đi lên chủ nghĩa
xã hội trên cơ sở vận dụng được ưu thế cũng như hạn chế được khuyết điểm của hai
cơ chế là kế hoạch và thị trường.
II. Cơ sở phương pháp triết học để nhận thức đúng đắn về quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Khái niệm phép biện chứng
Kế thừa có phê phán chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử triết
học, dựa chắc vào các thành tựu khoa học đương thời, Mác và Ăngghen đã sáng lập
ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đem lại cho phép biện
chứng một sự phát triển mới về chất, đó là phép biện chứng duy vật. Phép biện
chứng duy vật được Mác, Ăngghen khẳng định và được Lênin tiếp tục phát triển lên
tầm cao mới, đã trở thành môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy con người.
Đây là học thuyết toàn diện nhất, sâu sắc nhất về sự liên hệ phổ biến và sự phát triển.
Hệ thống quy luật của phép biện chứng duy vật vừa là quy luật của thế giới
khách quan, vừa là quy luật nhận thức của tư duy lô-gích. Đó là sự thống nhất trên
cơ sở duy vật giữa phép biện chứng với lý luận nhận thức và lô-gích biện chứng. Đặc
trưng nổi bật của phép biện chứng duy vật là tính cách mạng và khoa học, vì thế nó
mang tính tự giác cao, có tác dụng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động nhận
thức và thực tiễn. Xét theo nội dung cấu trúc cơ bản, phép biện chứng duy vật khoa
học bao gồm hai nguyên lý cơ bản: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển.
2.2. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát mối
liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ được
hiểu là sự thống nhất của 3 phương diện: tính quy định, quá trình tương tác và dẫn
tới là quá trình biến đổi. Trong ba phương diện trên, tính quy định là cơ sở khách
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 9
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
quan của các quá trình tương tác, quá trình tương tác là cơ sở, là nguyên nhân và quá
trình biến đổi là hệ quả tất yếu. Nhưng trong quá trình nhận thức về mối liên hệ thì
thường ngược lại: từ quan sát đến những sự biến đổi, trên cơ sở đó xác định nguyên
nhân và sự tương tác có được là do tính quy định. Mối liên hệ phổ biến chính là
những mối liên hệ của nó được thể hiện ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi trường
hợp đặc thù, có hai tính chất cơ bản là tính khách quan và tính phổ biến.
Tính khách quan là cái vốn có của các tồn tại thế giới, được hiểu là không có
sự vật đồng nhất, giữa các sự vật hiện tượng không có tồn tại biệt lập tuyệt đối, còn
tính phổ biến được hiểu trên ba nội dung sau:
Thứ nhất: mọi sự vật hiện tượng, mọi lĩnh vực của thế giới luôn tồn tại các
mối liên hệ và liên hệ phổ biến. Theo nghĩa đó cũng đồng thời có nghĩa là không có
sự vật đồng nhất, đồng thời cũng không có sự tồn tại biệt lập giữa các sự vật.
Thứ hai: với mỗi sự vật có vô vàn các mối liên hệ khác nhau bởi tính không
giới hạn của những tính quy định, mỗi tính quy định là một sự tồn tại. Vậy sự tồn tại
của nó là vô hạn, vì thế để nhận thức một đối tượng bao giờ cũng phải xét nó trong
mối liên hệ.
Thứ ba
: mỗi sự vật biến đổi đều có thể dẫn tới những biến đổi khác. Như
vậy có thể thấy, mối liên hệ phổ biến là cơ bản trong nhận thức khoa học. Theo
nguyên tắc, khi nghiên cứu phải xem xét trên mọi mặt, mối liên hệ có thể có và có
thể làm được, tránh những phiến diện trong phân tích một vấn đề cụ thể.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn
diện khi xem xét các sự vật, hiện tượng. Quan điểm toàn diện trong phân tích hiện
thực trở thành một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của phương pháp biện
chứng Mác-xít. Quan điểm này đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật, hiện tượng phải
tính toán đến các điều kiện không gian, thời gian, phải xem xét đầy đủ mối quan hệ
qua lại đó với sự vật khác; phải nghiên cứu cả quá khứ, hiện tại và tương lai của nó.
Quán triệt quan điểm biện chứng vào việc phân tích toàn diện các mối liên hệ
của sự vật, hiện tượng giúp chúng ta nhận thức đúng bản chất của các sự vật, hiện
tượng làm cơ sở cho việc xác định đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu một cách đúng
đắn, chỉ ra được nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản lâu dài và mục tiêu chủ yếu trước mắt;
phối hợp chặt chẽ mọi hành động trong quá trình thực hiện, thúc đẩy sự vật, hiện
tượng phát triển hợp quy luật khách quan, điều kiện và khả năng khách quan.
2.2.2. Nguyên lý về sự phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận
động đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 10
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ
mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân. Động lực của sự
phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển
đi theo đường “xoáy ốc”, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng; đặc tính của
cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những
bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
Vận động và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Vận động
là phương thức tồn tại của vật chất, là đặc tính cố hữu của vật chất, gắn với mọi dạng
vật chất bất kể trong điều kiện, hoàn cảnh nào. Sự phát triển là một kiểu vận động
đặc biệt, được đặc trưng bởi tính xu hướng, tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Vì thế không phải sự vận động nào cũng được coi là sự phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho ta phương pháp nhận thức khoa học
về thế giới, chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn để cải tạo tự nhiên và xã hội. Nếu
phát triển là một quá trình đổi mới không ngừng thì nhiệm vụ của khoa học là phải
nghiên cứu xem xét các sự vật, hiện tượng của thế giới đang vận động, biến đổi từ
dạng này sang dạng khác, từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao như thế nào.
Điều đó đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự phát triển; phải hành động
để đưa đến sự phát triển của sự vật; phải thấy phát triển là quá trình trong đó tất yếu
có sự ra đời của cái mới. Song sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới là cả
một quá trình đấu tranh gay go, phức tạp. Vì thế phép biện chứng yêu cầu chúng ta
phải hướng tới cái mới, phát hiện cái mới một cách nhạy bén, nhìn về tương lai phát
triển của nó. Đồng thời trong phát hiện, hướng tới cái mới phải phân biệt cái mới
thực sự với những cái giả danh để kịp thời ngăn chặn, loại trừ. Chỉ những cái nào ra
đời hợp với quy luật, mang nội dung mới trên cơ sở kế thừa có chọn lọc loại bỏ cái
cũ, có sự phát triển cao hơn về chất so với cái cũ thì mới được coi là cái mới.
Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát triển
của nhận thức. Đây là một khoa học triết học toàn diện nhất, sâu sắc nhất về sự liên
hệ phổ biến và về sự phát triển của thế giới. Với bản chất cách mạng và khoa học,
phép biện chứng đã, đang và sẽ tiếp tục cung cấp cho chúng ta hệ thống các nguyên
tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự khoa học và có hiệu quả trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn xã hội nói chung, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn quân sự
nói riêng.
III. Những mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 11
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
3.1 Mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “chính trị là sự biểu
hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao
giờ cũng có vấn đề chính trị, chẳng hạn trong xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp,
chưa có nhà nước nên cũng chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà
nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện, bởi vấn đề chính trị là vấn đề thuộc
về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của các vấn đề chính trị là đấu tranh giữa
các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm dành và giữ chính quyền. Bản thân vấn đề
chính trị ra đời hoàn toàn do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích mà
chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “bạo
lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế trái lại là mục đích”. Và trong tác phẩm
“Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một
phương tiện đơn thuần”.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống
trị về chính trị của một giai cấp là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được
sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp về thực chất là đấu tranh về lợi ích kinh tế,
được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo Ph.Ăngghen “bất cứ cuộc đấu
tranh nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải
phóng về kinh tế”. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị V.I Lênin đã khẳng định chính
trị cũng chiếm vị trí quan trọng hàng đầu như kinh tế. Tuy nhiên, khẳng định của
Lênin không có nghĩa phủ định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, mà
muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế
không thể tách rời vấn đề chính trị, mà nó được xem xét, giải quyết theo một lập
trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển
theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế - xã hội
nhất định. Và lập trường chính trị đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy(hoặc kìm hãm) sự phát
triển của nền kinh tế.V.I Lênin còn khẳng định: “không có một lập trường chính trị
đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của
mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh
vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế
thì tất yếu kinh tế sẽ mở đường cho chính chị thay đổi. Khi đó việc thay đổi thể chế
chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện tiên quyết để
thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính
trị thống nhất biện chứng với nhau trên nguyên tắc kinh tế đóng vai trò quyết định.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 12
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, và
nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Có thể nói từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn thực hiện công cuộc
đổi mới. Cho đến nay công cuộc đổi mới đã tiến hành được gần 30 năm. Trong gần
30 năm qua, việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng ngày càng
chính xác hơn. Tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) Đảng ta đã khẳng
định: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm
tốt đổi mới kinh tế đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc
làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Đồng thời đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của chính trị phát huy quyền làm chủ và nâng cao tính sáng tạo của nhân dân trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Vì chính trị động chạm đến mối quan hệ
cực kỳ phức tạp và nhạy cảm trong xã hội nên việc đổi mới chính trị nhất thiết phải
dựa trên cơ sở nghiên cứu, và chuẩn bị nghiêm túc không cho phép gây mất ổn định
chính trị dẫn đến sự rối loạn trong xã hội”
Tuy nhiên, không phải vì lí do trên mà chúng ta chậm trễ đổi mới chính trị, nhất
là việc cải tiến tổ chức bộ máy và nhân sự, mối quan hệ giữa Đảng, nhà nước và các
đoàn thể nhân dân. Đây là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và thực hiện
dân chủ. Đảng ta đã không tách rời mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và
khẳng định rằng phải tập trung sức làm với đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi mới
kinh tế, phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị nhưng phải thận trọng không gây
mất ổn định chính trị.
Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII tháng 6/1996 của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi tổng kết
các bài học của những năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính
trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một nghịch
lý nhưng lại hoàn toàn có lý và khoa học. Đổi mới chính trị không phải là đổi mới vô
nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đổi
mới kinh tế không phải là đổi mới một cách tùy tiện mà theo một định hướng chính
trị nhất định. Đó là sự dịch chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 13
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh, tạo sự ổn định về chính trị.
Tóm lại, ổn định và đổi mới chính trị là 2 mặt đối lập nhưng thống nhất biện
chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định.
Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, và trên
nền tảng của đổi mới kinh tế.
3.2 Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết
sức phức tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó cần được
xem xét trên phương diện triết học của chủ nghĩa Mác- Lênin. Theo đó, LLSX là nội
dung của sự vật còn QHSX là ý thức của sự vật. LLSX quyết định QHSX. LLSX là
yếu tố động, luôn luôn thay đổi. Khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định thì
QHSX không còn phù hợp nữa, và trở thành yếu tố kìm hãm LLSX. Để mở đường
cho LLSX phát triển, cần phải thay thế QHSX cũ bằng một QHSX mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát
triển của mọi thời đại và mọi xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa LLSX tiên tiến với QHSX lạc hậu kìm hãm nó diễn
ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó
chính là cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường ở nước ta là một ví dụ. Một nhiệm vụ cực kì quan trọng thể hiện rõ
tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành quốc gia công nghịêp hoá, hiện đại hoá “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng và văn minh”
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang
tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng CNXH. Nói đến công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là
LLSX và QHSX. Nói đến khoa học, đến sự anh minh trí tuệ, là nói đến một phương
thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở
vật chất cho CNXH được phát triển. Không thể ăn đói mặc rách với cái cuốc trên tay
cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết CNXH chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Khẳng định cái mới đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm ý nghĩa phủ định,
gạt bỏ quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng CNXH ở nước ta.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 14
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
Trước đây, chúng ta đã chưa quan tâm đúng mức đến vai trò của khoa học công nghệ,
cũng như việc tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật trong công cuộc xây dựng CNXH. Do
vậy, nền kinh tế của nước ta chậm phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất
nhỏ lẻ thủ công, công nông nghiệp lạc hậu và càng không thể nói đến công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.3 Mâu thuẫn trong vấn đề sở hữu:
Gần 30 năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, chúng ta đã chứng tỏ
được rằng đường lối đổi mới là đúng đắn. Với định hướng đa dạng hoá các loại hình
sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ có một hình thức sở
hữu toàn dân như trước đây, Đảng ta đã khơi dậy tiềm năng, động lực phát triển của
mọi cá nhân cũng như của toàn dân.
Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần với các hình thức sở hữu tương ứng như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản và các hình thức sở hữu hỗn hợp
khác. Trong đó, mỗi hình thức sở hữu lại có trình độ và cách thức thể hiện khác nhau
vì chúng được hình thành dựa trên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của các
thành phần kinh tế khác nhau.
Chẳng hạn, đất đai là thuộc sở hữu toàn dân (điều này đã được khẳng định
trong luật đất đai). Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện cơ bản của cả một cộng
đồng xã hội. Xét về mặt xã hội đất đai là lãnh thổ, là nơi cư trú của cả một cộng
đồng. Và nếu xét ở cả hai phương diện trên thì đất đai không phải của riêng ai. Tuy
nhiên, đất đai là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt, và là một bộ phận quan trọng của
tư liệu sản xuất nói chung, nhưng trong nền kinh tế thị trường, nó phải vận động theo
những quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những quy luật đó. Việc đất đai
là sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn
với việc trao quyền sử dụng cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng.
Văn kiện đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai, ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật
pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất…”. Như vậy, hình thức sở
hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới và rõ ràng hơn.
+ Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của
sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu là sự thể hiện quyền sở hữu ở khu vực kinh
tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước.
+ Về sở hữu tập thể: Ở nước ta trước đây, sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới
hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với nội
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 15
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, tập thể xã
viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà, với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc
chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn
ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi
lại có tình trạng lạm quyền. Do không xác định rõ ràng, cho nên có sự “nhập nhằng”
giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Để thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối
cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần phải xác định rõ hơn nữa quyền mua
bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ
có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu
quả.
Chúng ta đều biết hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho
chủ nghĩa xã hội, mà nó còn là một hình thức sở hữu kinh tế và tiến bộ trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn
nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin đã khẳng
định “chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay, đã có những hình thức hợp tác xã kiểu
mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường “hợp tác xã đã
được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã
viên phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như
nhau đối với công việc chung”. Những điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở
hữu tập thể đã thay đổi cho phù hợp với thực tiễn của đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
3.4 Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người XHCN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
phải có con người XHCN. Như vậy, yếu tố con người được Người xác định là giữ vai
trò quyết định trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng
tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực
của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng ta phải bắt đầu từ
con người và lấy con người làm điểm xuất phát.
Thế nhưng, trong nền kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế giữa con người
với con người cũng được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua -
bán, trao đổi hàng hoá, tiền tệ. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá, tiền tệ
phát triển mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản
xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 16
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát
triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã
hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những hạn chế tự thân, đặc biệt là
tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng dẫn đến sự phá sản thất nghiệp, hay
khủng hoảng chu kỳ…
Xuất phát từ thực tế đó, chúng ta thấy xây dựng và phát triển con người trong
giai đoạn hiện nay không thể nằm ngoài kinh tế thị trường. Nhưng do hậu quả của
nhiều năm chiến tranh, với nền kinh tế kém phát triển của cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp… nên nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế.
Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước
ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Bởi kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh,
chạy đua quyết liệt nên con người buộc phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác
phong nhanh nhẹn, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu
quả. Điều đó đã nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người, góp phần làm
giảm đi sự chậm chạm và trì trệ vốn có của người lao động trong nền kinh tế lạc hậu
từ ngàn đời ở Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp để con
người mở rộng các mối quan hệ, giao lưu buôn bán, từ đó hình thành các chuẩn mực
văn hoá, đạo đức mới theo tiêu chí thị trường như: chữ tín trong chất lượng, chữ tín
trong giao dịch… Đây cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giá
trị của con người Việt Nam.
3.5 Giải quyết mâu thuẫn
Để có thể giải quyết những mâu thuẫn trên và để đảm bảo nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì cần thiết phải có
sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân; đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức; là công cụ quyền lực
chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập xã hội chủ nghĩa theo
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Trong tổ chức hoạt động của mình, quyền lực Nhà nước được tổ chức theo nguyên
tắc thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức hoạt động
của Nhà nước thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tất cả quyền lực nhà
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 17
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
nước thuộc về nhân dân, đảm bảo sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy
đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả
nước và từng địa phương, của cả toàn hệ thống bộ máy và từng yếu tố cấu thành nó.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động theo yêu
cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật
cung- cầu, cạnh tranh,…. giá cả do thị trường quyết đinh; thị trường có vai trò quyết
định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của
nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế
giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó những “thất
bại” của thị trường. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận
hành của nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư
sản, mà là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa
nhằm sửa chữa những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân
đạo, mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị
trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của nhà nước
xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn
định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội. Không ai ngoài nhà
nước có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường.
Tóm lại: Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không đơn thuần là sự tìm tòi và phát triển về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà
còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triên trong thực tiễn
mang tính cách mạng sáng tạo ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại
và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Thành tựu của gần 30 năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho
chúng ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động
xã hội ngày càng được chú ý. Thế nên trong bước chuyển sang cơ chế thị trường này
đương nhiên chúng ta không tránh khỏi những sai lầm, , nhưng dẫu sao nó cũng nói
lên sức sống và khả năng tác động của quan hệ thị trường đối với đời sống kinh tế -
xã hội. Về thực chất của bước nhảy này, một số nhà nghiên cứu cho rằng: ở Việt
Nam dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa được hình thành, còn đang trong những
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 18
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
bước chập chững ban đầu và được Nhà nước điều tiết một cách có ý thức theo định
hướng XHCN, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để
lại ở đó những dấu ấn của mình…
Quan niệm hiện nay của chúng ta về CNXH đã chứa đựng những tư tưởng mới
về quy luật của sự phù hợp khách quan giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Cái có ý nghĩa quyết định trong quy luật này là trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, sự tồn tại của các thành phần kinh tế và các hình thức sở
hữu đa dạng ở một nền kinh tế theo định hướng XHCN. Hơn thế nữa, vai trò điều tiết
nền kinh tế của nhà nước, và chủ đạo là thành phần kinh tế nhà nước trong một nền
kinh tế hướng tới thị trường theo định hướng XHCN là điều không phải bàn cãi. Nhà
nước với các chính sách, luật lệ của mình, một mặt có khả năng làm cho nền kinh tế
đạt tới sự tăng trưởng có hiệu quả, nhưng mặt khác cũng chính là người phải lo giải
quyết các vấn đề do chính sự tăng trưởng kinh tế đó tạo ra. Về đại thể chìa khoá để
đáp ứng nhu cầu phức tạp và trái ngược nhau của xã hội nằm trong bộ máy quản lý vĩ
mô của xã hội, mà trước hết đó là nhà nước. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay đang có
nhiều vấn đề được đặt ra đối với vai trò chủ đạo của nhà nước và thành phần kinh tế
nhà nước cần được tháo gỡ để nhà nước có thể đảm đương được trọng trách to lớn
của mình .
Trên thực tế, các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam, trong tiến trình phát
triển của mình, đều gặp phải những khó khăn trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống
xã hội Đó là sự thách thức đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Đây cũng là một tất yếu,
cho nên chúng ta phải chấp nhận những mặt trái của kinh tế thị trường. Vấn đề là để
từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền sản xuất xã hội, chúng ta phải có
chính sách và biện pháp cho phù hợp với từng lĩnh vực như giáo dục và đào tạo,
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, hay lĩnh vực bảo vệ môi trường, đặc biệt là các vấn đề
xã hội đang nổi cộm hiện nay như phân hoá giàu nghèo, gia tăng tệ nạn xã hội, vấn
đề xuống cấp về đạo đức…Tuy nhiên, đây cũng là bài toán khó, không thể được giải
quyết ngay trong một sớm một chiều.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng
thị trường như là một công cụ, một phương thức, trên thực tế đã đem lại những kết
quả tích cực cả về phương diện thực tiễn và cả về phương diện nhận thức. Một hành
trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta là sản xuất hàng hoá
cùng với “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường”,
đã được hiểu là không đối lập với CNXH. Với tính cách là sản phẩm của văn minh
nhân loại “một cơ hội để các cộng đồng mở cửa tiếp xúc với bên ngoài”, kinh tế thị
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 19
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta .
Tuy nhiên nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, thì chúng ta hiểu
rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng
trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội, nó có khả năng tạo
ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất
thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự
nghiệp xây dựng CNXH với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” thì kinh tế nhất thiết phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước theo
định hướng XHCN.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 20
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, ta có thể thấy nền kinh tế thị trường không phải là
sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, nó hoàn toàn có thể tồn tại và phát triển
trong chủ nghĩa xã hội và sau đó nữa. Kinh tế thị trường đã và đang trong quá trình
vận động phát triển, từ kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với những thành tựu đem
lại cho chủ nghĩa tư bản, nhưng chủ nghĩa tư bản không thể thoát khỏi những mâu
thuẫn bản thân nó. Chính vì vậy, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang
ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định để chuẩn bị sang giai đoạn hậu công
nghiệp theo xu hướng xã hội hoá. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển
của xã hội. Xã hội muốn tiến lên, muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Để có thể thực hiện kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa thì cần có một giai đoạn trung gian, đó là giai đoạn thực hiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Và để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì mấu chốt
phải giải quyết mâu thuẫn giữa các nhân tố của kinh tế thị trường và các nhân tố của
xu hướng mới đang vận động và phát triển, đang phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong đó nhân tố đầu tiên phải đóng vai trò động lực thúc đẩy sản xuất xã
hội phát triển nhanh; nhóm nhân tố thứ hai đóng vai trò hướng dẫn sự vận động của
nền kinh tế theo những mục tiêu xác định, bổ sung mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường nhằm hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì mục
tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế,
động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh
tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự
công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Áp dụng khoa học, công
nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội. Thúc đẩy tích
tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng
lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm
bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 21
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
Trong điều kiện phát triển với tốc độ cực nhanh của kinh tế thế giới hiện nay
càng đòi hỏi phải có quan điểm trong nhìn nhận và giải quyết các vấn đề đang đặt ra.
Chủ trương “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mà Đảng ta
đề ra trong nghị quyết của mình là một chủ trương thể hiện sự vận dụng khoa học
phép biện chứng duy vật vào hoàn cảnh cụ thể hiện nay của nước ta trong bối cảnh
chung của quốc tế. Nó vừa thể hiện sự quán triệt các nguyên tắc của nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến đồng thời còn là các nguyên tắc của nguyên lý phát triển.
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 22
Tiểu luận Triết học GV hướng dẫn : Ths.GVC Nguyễn Thị Hồng Vân
II. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[ 1 ] Giáo trình triết học dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
chuyên ngành triết - Hà nội, 2005
[ 2 ] Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin- NXB Chính trị Quốc Gia- Hà Nội-
2002
[ 3 ] Giáo trình Triết học- NXB Lý luận chính trị- Hà Nội- 2006
[ 4 ] Triết học Mác-Lênin- Tập 2- NXB Quân đội nhân dân- Hà Nội- 1995
[ 5 ] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB. Sự thật, Hà Nội, 1987
[ 6 ] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII- NXB Chính Trị Quốc Gia-
Hà Nội 1996
[ 7 ] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX- NXB Chính Trị Quốc Gia-
Hà Nội 2001
[ 8 ] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X- NXB Chính Trị Quốc Gia-
Hà Nội 2006
Nhóm 5 - Lớp : Khoa học máy tính 2013- 1 23