Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề Tài Phép Biện Chứng Duy Vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.7 KB, 19 trang )

1

Mở đầu

Triết học là một trong những học thuyết t tởng ảnh hởng rất lớn đến lịch sử xã
hội loài ngời. Nó đã phản ánh đợc tính chân thực của giai đoạn lịch sử đó và đều bao
chứa những giá trị tiến bộ nhất định. Nó là sự kết tinh những giá trị văn hoá khác
nhau với nhịp điệu phát triển của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội t duy của loài
ngời đi đúng quy luật khách quan, vơn tới tơng lai tốt đẹp hơn. Ngoài ra nó là một học
thuyết khẳng định đợc tính khoa học và cách mạng. Trong đó có phép biện chứng duy
vật không phải là một hiện tợng ngẫu nhiên, ý muốn chủ quan của một giai cấp trong
lực lợng xã hôi này, càng không phải do thợng đế hay các lực lợng siêu nhân khác tạo
ra, mà nó hoàn toàn mang tính tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật vận động
phát triển của lịch sử nhân loại. Đồng thời đáp ứng yêu cầu cấp bách giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột của
giai cấp t sản và chủ nghĩa t bản.
Trải qua và tồn tại và phát triển trong nhiều giai đoạn lịch sử học thuyết đó đã
chinh phục đợc rất nhiều ngời của mọi dân tộc trên trái đất, phơng pháp luận cho các
Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh chống lại chủ
nghĩa t bản, xây dựng xã hội mới, xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Với sứ mệnh cao cả đó,
phép biện chứng duy vật linh hồn sống của chủ nghĩa Mác đã đa lại sự nghiệp giải
phóng dân tộc của nhiều nớc trên thế giới đến những thắng lợi hết sức vĩ đại, tạo ra bớc ngoặt lịch sử to lớn. Ngày nay, trớc những biến động đảo lộn diễn ra nhiêu nơi trên
thế giới, với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa xã hội
tạm thời lâm vào tình trạng khủng hoảng, phong trào Cách mạng thế giới gặp nhiều
tổn khó khăn. Lợi dụng tình hình đó, phong trào chống Mác, chống lại những nguyên
lý, quy luật, phạm trù của triết học Mác - Lênin lại rầm rộ nổi lên. Các học giả t sản,
các thế lực thù địch và những ngời giả danh Macxit ra sức kêu gào, xuyên tạc, đòi phủ
nhận học thuyết khoa học - Cách mạng đó. Họ cho rằng, triết học Mác - Lênin, đặc
biệt là phép biện chứng duy vật đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn giá trị gì đối
với lịch sử, và thời đại...



2
Với nhân quan khoa học, sự công bằng khách quan, chúng ta khẳng định rằng,
triết học Mác - Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng vẫn là cơ sở thế
giới quan, phơng pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách
mạng, với ý nghĩa đó, làm rõ những vấn đề trên là một việc mang tính thời sự có ý
nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà cả trong thực tiễn, không chỉ đối với lịch sử, hiện
tại mà cả tơng lai và trong cuộc đấu tranh trên mặt trận t tởng hiện nay.


3

Nội dung

I. Phơng pháp và phơng pháp luận.
Khi nghiên cứu về phơng pháp và phơng pháp luận, trong lịch sử loài ngời đã tồn
tại nhiều quan điểm, nhiều cách định nghĩa khác nhau về phơng pháp và phơng pháp
luận.
I.1/ Phơng pháp:
Thuật ngữ Phơng pháp là phơng hớng hành động và thực hiện mục đích đã
vạch ra. Còn theo nghĩa chặt chẽ và khoa học, phơng pháp là hệ thống những nguyên
tắc đợc tách ra từ tri thức về các quy luật khách quan điều chỉnh hoạt động nhận thức
và thực tiễn nhằm đạt đợc một điều nhất định. Phơng pháp là phạm trù gắn liền với
hoạt động có ý thức của con ngời, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con ngời. Do đó phơng pháp là một trong những yếu tố quyết định thành
công hay thất bại trong nhận thức và các loại hiện thực. Trên cơ sở những điều kiện
khách quan đã có, phơng pháp càng đúng đắn thì kết quả đạt đợc càng cao, và ngợc
lại. Ph. BêCơn, nhà triết học nổi tiếng ngời Anh, đã ví dụ phơng pháp nh chiếc đèn soi
đờng trong lữ hành trong đêm tối. Nói về vai trò của phơng pháp Cách mạn, cố Tổng
bí th Lê Duẩn đã viết : Phong trào Cách mạng khi có dậm chân tại chỗ, thậm chí thất

bại nữa, không phải vì thiếu một phơng hớng và mục tiêu rõ ràng, mà chủ yếu vì thiếu
một phơng pháp Cách mạng thích hợp.
(Lê Duẩn - Dới là cờ vẻ vang... NXB Sự thật, 1976, trang 34).
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm quan niệm hoàn toàn khác nhau về phơng pháp (nguồn gốc và bản chất). Chủ nghĩa duy tâm coi phơng pháp là nguyên tắc
do lý trí của con ngời tự ý đặt ra để tiện cho nhận thức và hoạt động. Những ngời duy
tâm xem phơng pháp nh một phạm trù thuần tuý chủ quan. Trái lại, chủ nghĩa duy vật
biện chứng khẳng định rằng, phơng pháp không phải là nguyên tắc có sẵn, bất biến.
Nó phụ thuộcvào đối tợng nghiên cứu và mục đích đặt ra. Để tiếp cận đối tợng và giải
quyết nhiệm vụ đối tợng đặt ra chủ thể phải nghiên cứu đối tợng và mục đích cần đạt
tới một cách khách quan. Tức là phải vạch ra phơng hớng đờng lối đặt ra, chỉ tiêu về


4
số lợng, chất lợng... từ đó nhận thức về những quy luật của nó. Chỉ trên cơ sở đó và
sau đó, chủ thể mới xác định đợc phải nghiên cứu và hành động nh thế nào, và cần
phải sử dụng phơng tiện, công cụ và biện pháp gì cho phù hợp và cũng cần phải kết
hợp các yếu tố đó theo một trình tự nh thế nào cho hợp lý. Nh vậy phơng pháp bắt
nguồn từ thực tiễn, phản ánh những quy luật khách quan của đối tợng nghiên cứu. Phơng pháp có nhiều loại và nhiều cấp độ khác nhau.
- Phơng pháp riêng, phơng pháp đặc thù và phơng pháp chung.
- Phơng pháp nhận thức và phơng pháp thực tiễn.
Việc phân biệt các loại phơng pháp nh trên chỉ có ý nghĩa tơng đối tuỳ theo góc
độ và tiêu chuẩn phân loại. Tính tơng đối của các loại phơng pháp phân tích đa dạng,
phong phú của thế giới vật chất của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cho
nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta có thể kết hợp, đan
xen nhiều loại phơng pháp khác nhau, nhng cuối cùng chủ thể phải lựa chọn một phơng pháp tối u và mang lại hiệu quả cao nhất. Ngày nay, khi khoa học công nghệ
ngày càng phát triển mạnh mẽ thì việclựa chọn những phơng pháp giản tiện để giải
quyết những công việc phức tạp nhằm rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí mà vẫn đạt
hiệu quả cao đang trở thành xu hớng đợc quan tâm, chú ý. Quá trình lựa chọn phơng
pháp đó có thể đúng có thể sai. Vậy làm thế nào để xác định đợc phơng pháp đúng
đắn, khoa học. Từ đó, xuất hiện nhu cầu tri thức khao học về phơng pháp ra đời. Đó

chính là phơng pháp luận.
I.2. Phơng pháp luận.
Phơng pháp luận là lý luận về phơng pháp, là khoa học về phơng pháp. Phơng
pháp luận giải quyết những vấn đề nh: Phơng pháp là gì? Bản chất, nội dung, hình
thức của phơng pháp nh thế nào? Phân loại phơng pháp ra sao? Vai trò của phơng
pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con ngời thế nào?... Do đó,
có thể nói cách khác, cụ thể hơn, phơng pháp luận là hệ thống những quan điểm
những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể tỏng việc xác định phạm vi, khả năng áp
dụng chúng một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa.
Nh vậy, có phơng pháp, chúng ta có công cụ hiệu nghiệm trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Nhng phơng pháp có nhiều loại, tuỳ thuộc vào tính chất


5
của các quy luật mà dựa vào đó, phơng pháp đợc xây dựng. Nếu các quy luật ấy là
quy luật chung hơn, tác động trong nhiều nhóm sự vật thì ta có các phơng pháp đặc
thù, thờng đó là các phơng pháp đợc sử dụng cho một số ngành khoa học nhất định.
Còn nếu các qui luật ấy là quy luật phổ biến tác động trong tất cả mọi lĩnh vực của tự
nhiên, xã hội, t duy thì ta có thể có phơng pháp chung nhất, phổ biến nhất, áp dụng đợc cho tất cả mọi bộ môn khoa học. Một phơng pháp nh vậy chỉ có thể là phơng pháp
biện chứng duy vật vì cơ sở khách quan của nó là các quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và t duy do phép biện chứng duy vật nghiên cứu. Điều đó

có nghĩa là

nắm đợc phơng pháp biện chứng tức là Phơng pháp nắm sự vật và phản ánh sự vật
trong t tởng, chủ yếu là những sự liên hệ ràng buộc, vận động, phát minh và tiêu vong
của sự vật (Ănghen: chống Đuyrinh, NXB Sự thật M. 1960 - trang 37). Chúng ta sẽ
có một công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu bất kỳ một lĩnh vực nào có thế giới vật
chất và ngợc lại, trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào, chúng ta muốn đạt tới chân lý
khách quan thì cũng phải áp dụng phơng pháp biện chứng. Trong hoạt động nhận thức

và hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải quan tuân theo phơng pháp đó không phải vì
ai bắt buộc mà bản thân khách thể nghiên cứu đòi hỏi nh thế: Khách thể đó chỉ bộc lộ
bản chất của mình cho ngời nào trong quá trình nghiên cứu sử dụng phơng pháp đợc
xây dựng trên cơ sở các quy luật khách quan.
Song nói nh thế không có nghĩalà chúng ta chỉ cần nắm vững và vận dụng riêng
phơng pháp biện chứng là đã đủ để đạt mục đích cần thiết trong từng lĩnh vực nghiên
cứu cụ thể. Phơng pháp biện chứng chỉ là phơng pháp tốt nhất, phổ biến nhất. Nhng
cái chung chỉ còn tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng và bất cứ cái riêng
nào cũng không đợc bao quát hoàn toàn trong cái chung (V.I. Lênin; Bút ký triết học
NXB Sự thật M. 1963 - trang 384).
Nên khi đợc áp dụng vào nghiên cứu một sự vật hay một lĩnh vực sự vật riêng
biệt, phơng pháp biện chứng bao giờ cũng phải đợc cụ thể hoá. Tuy đợc cụ thể hóa khi
áp dụng vào những hoạt động trong những lĩnh vực cụ thể nhất định, song không vì
thế mà những nguyên lý, những quy luật tạo nên cơ sở lý luận của phơng pháp biện
chứng cụ thể thoả đáng là phép biện chứng lại mất đi tính chất phổ biến của nó. Do
đó, đòi hỏi chúng ta phải biết vậndụng tổng hợp và kết hợp chặt chẽ các loại phơng


6
pháp khác nhau, trong đó phép biện chứng duy vật là phơng pháp luận chung nhất của
nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
II. Vai trò phơng pháp luận của phép biện chứng duy vật.
II.1. Phơng pháp biện chứng và phơng pháp siêu hình là hai mặt đối lập
nhau trong phơng pháp chung nhất của t duy.
Sự phát triển của triết học trong lịch sử cũng là phát triển của t duy triết học và
gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phơng pháp t duy- biện chứng và siêu hình. Biện
chứng và siêu hình là hai mặt đối lập của hai phơng pháp này đã thúc đẩy t duy triết
học phát triển và đợc hoàn thiện dần với thắng lợi của t duy biện chứng duy vật.
T duy siêu hình chỉ có ý nghĩa trong giới hạn hết sức chật hẹp, ranh giới. Phơng
pháp t duy siêu hình cứng nhắc xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, tách rời, trong

trạng thái tĩnh, trong sự phát triển của sự vật, hiện tợng một cách đơn giản. Nhận xét
về điều đó, Ăngghen cho rằng: Phơng pháp t duy siêu hình ấy... nếu cứ quanh quẩn
trong cái lĩnh vực tầm thờng giữa bốn bức tờng của nó thì là một ông bạn rất đáng
kính: Song nếu nó là liều lĩnh xông vào thế giới bao la của sự nghiên cứu thì sớm hay
muộn thế nào nó cũng vấp phải một hàng rào mà vợt qua ngoài hàng rào đó thì nó trở
thành phiến diện, chật hẹp, trìu tợng và rơi vào những mâu thuẫn không thể nào giải
quyết đợc (Ănghen: chống Đuyrinh, NXB Sự thật M. 1971 - trang 35).
Hạn chế của phơng pháp siêu hình còn thể hiện ... Chỉ nhìn thấy những sự vật
riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy
sự tồn tại của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà nó
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng
(C. Mac và Ănghen: Toàn tập (tập 20) NXB Sự thật M. 1994 - trang 37).
Ngợc lại, quan điểm biện chứng không chỉ nhìn thấy sự vật cá biệt mà còn thấy
cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng
thái vận động, biến đổi của sự vật; Ph. Ănghen cho rằng, t duy của nhà siêu hình chỉ
dựa trên những phần đề tuyệt đối không thể dung hoà đợc, họ nói có là có, không là
không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tợng không
thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài
trừ lẫn nhau... Ngợc lại tuy duy biện chứng là sự vật hiện tợng t duy mềm dẻo linh


7
hoạt. T duy biện chứng thừa nhận trong những trờng hợp cần thiết, bên cạnh cái hoặc
là... hoặc là... còn có cái vừa là... vừa là... nữa.
Tóm lại, quan điểm siêu hình là quan điểm luôn xem xét sự vật trong trạng thái
tĩnh, biệt lập, ngng đọng với t duy cứng nhắc, trong khi đó, quan điểm biện chứng là
quan điểm luôn xem xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng
thái luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng với t duy mềm dẻo linh hoạt.
Trong lịch sử triết học, thuật ngữ siêu hình có nguồn gốc từ chữ
Metuphysique đợc nhà bác học dùng để chỉ những hoạt động nghiên cứu sau vật lý

của mình. Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học thực nghiệm mới thực sự bắt đầu phát
triển. Đây là thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu khám phá, phân tích mổ xẻ giới tự nhiên
ra thành những bộ phận riêng biệt, cố định để nghiên cứu. Điều đó đã đa đến những
thành tựu vĩ đại trong việc phát triển khoa học. Nhng phơng pháp nghiên cứu đó cũng
lọc ra thói quen xem xét sự vật trong trạng thái cô lập tách rời, bất biến, tức là ph ơng
pháp siêu hình, đến cuối thế kỷ XVIII, sang nửa đầu thế kỷ XIX, khi nghiên cứu tiến
tới giai đoạn su tập song giai đoạn chỉnh lý, song giai đoạn nghiên cứu quá trình, sự
phát sinh, phát triển của sự vật thì phơng pháp siêu hình không còn đáp ứng đợc yêu
cầu của nhận thức khoa học... cuộc khủng hoảng vật lý cuối thế kỷ XIX, do quan
niệm siêu hình chi phối là một minh hoạ điển hình. Lênin khẳng định: Thực chất của
cuộc khủng hoảng của vật lý học hiện đại là ở sự đảo lộn những quy tắc cũ và những
nguyên lý cơ bản ở sự gạt bỏ thực tại khách quan

bên ngoài ý thức tức là sự thay

thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâmvà chủ nghĩa bất khả thi.
(V.I. Lênin: toàn tập(tập 18) NXB Sự thật M. 1980 - trang 318)
Những kết quả nghiên cứu mới, nhất là trong vật lý học và sinh vật học... đã đòi
hỏi phải có một cách nhìn biện chứng về thế giới.
Cũng nh thuật ngữ siêu hình, thuật ngữ biện chứngđợc hình thành ở thời kỳ
Hy Lạp cổ đại, gắn liền với phép biện chứng duy tâm của Xôcrát và Platôn. Khi đó
phép biện chứng đợc hiểu là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách
phát triển mâu thuẫn trong các lập luận của đối phơng và tìm ra cách giải quyết mâu
thuẫn ấy. Nhng trớc Xôcrat đã có phép biện chứng của Hêraclit với câu nói nổi tiếng:
Không cùng tắm hai lần trong cùng một dòng sông thì trên sông nớc mới không


8
ngừng chảy. Phép biện chứng tự phát cổ đại đã phải lùi bớc trớc phép biện chứng
trung tâm của Xôcrat. Đến lợt mình, phép biện chứng duy tâm của Xôcrat và Platôn

lại bị phép siêu hình(thế kỷ XVII - XVIII) phủ định sau đó phép biện chứng duy tâm
can đại Đức lại phủ định phép siêu hình. Do đòi hỏi của nhận thức khoa học cần phải
có cách nhìn biện chứng mới về thế giới mà phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức,
đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm của Heghen không còn phù hợp nữa. Cho nên
phép biện chứng duy vật của Mác và Ănghen ra đời. Mác - Ănghen đã kế thừa tất cả
các tinh hoa của t tởng biện chứng nhân loại, trực tiếp nhất là phép biện chứng duy
tâm của Hêghen, gạt bỏ 99 phần bã lấy một phần chất, cải tạo nó, đặt nó đứng trên đôi
chân duy vật, phát triển nó thành khoa học chung nhất, phổ biến nhất về những quy
luật vận động của tự nhiên, xã hội và t duy.
II.2. Phép biện chứng duy vật, đỉnh cao của phơng pháp t duy khoa học.
Công bằng mà nói giá trị của phép biện chứng duy vật không phải xuất phát từ ý
muốn chủ quan của những ngời sáng tạo ra nó mà giá trị đó đợc thể hiện ở chỗ Giải
pháp những vấn đề mà t tởng tiến tới của loài ngời đặt ra, soi sáng các nhiệm vụ lịch
sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng con ngời khỏi mọi hình thức
áp bức bóc lột khỏi sự tha hoá. Mác khẳng định: Các nhà triết học trớc đây chỉ tìm
mọi cách giải thích thế giới bằng những cách khác nhau, song cái chính là cải tạo thế
giới. Có thể nói rằng cho đến ngày nay, phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới
quan, phơng pháp luận khoa học duy nhất đáp ứng đợc nhiệm vụ lịch sử đó mà cha có
mặt học thuyết nào có thể thắng thế đợc, không chỉ những ngời Macxit chân chính là
ngay cả một số học giả t sản cũng thừa nhận vai trò của học thuyết đó. Chỉ có phép
biện chứng duy vật mới có sự giải thích khoa học về những quá trình vận động, phát
triển của tự nhiên, xã hội và t duy, nắm đợc quy luật vận động của lịch sử, đem lại
một giải pháp khoa học cho những vấn đề do cuộc sống đặt ra và vạch ra phơng hớng
giải quyết những vấn đề đó một cách khoa học. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự thừa
nhận thôi cha đủ. Ngày nay, khoa học và thực tiễn luôn vận động, biến đổi nên triết
học Mác- Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng cũng cần đợc bổ
sung và phát triển nếu chúng ta không muốn lạc hậu so với thực tiễn. Phép biện
chứng duy vật vừa là yêu cầu của thực tiẽn xã hội, vừa là yêu cầu của nội tại của bản



9
thân học thuyết đó. Có phát triển đợc và thông qua phát triển, học thuyết đó mới bảo
vệ mình và mới phát huy đợc tác dụng và những giá trị của nó.
Trớc Mác - Ănghen trong cuộc đấu tranh trờng kỳ của các trờng phái trào lu kết
học, nhân loại đã biết đến nhiều nhà duy vật và biện chứng lớn, đánh dấu những bớc
phát triển mới của t duy triết học của con ngời trên con đờng tìm tới chân lý. Thế nhng, tất cả các nhà triết học đó do sự hạn chế của những điều kiện lịch sử khách quan
và chủ quan đều cha đem lại cho loại ngời một thế giới toàn bộ triệt để, một phơng
pháp luận khoa học cách mạng ở các vị trí đó ta thờng bắt gặp tính không nhất quán,
duy vật khi giải thích vấn đề này, nhng lại duy tâm khi giải thích vấn đề khác, duy vật
nhng lại siêu hình, không biện chứng hoặc biện chứng nhng lại tiến tới duy tâm. Điều
quan trọng nhất là tất cả các nhà triết học duy vật trớc Mác để đứng lại ở nhận thức
lĩnh vực tự nhiên và khi chuyển sang nhận thức vấn đề xã hội họ đều không tránh khỏi
rơi vào duy tâm, sai lầm, phản khoa học. Mác - Ănghen là những ngời đầu tiên thống
nhất chủ nghĩa duy vật biện chứng hay phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng ra
đời đánh dấu bớc phát triển mới về chất trong lĩnh vực triết học, đó là học thuyết triết
học hoàn bị, triệt để nhất đợc xây dựng trên lập trờng thế giới quan mới. Nó bao hàm
cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và t duy con ngời. Phép biện chứng duy vật không phải là
tổng số những nguyên lý, quy luật, phạm trù mà các nhà kinh điển của chúng ta tạo ra
là sự liên hệ hữu cơ có nguyên tắc của các tri thức đã đợc xác lập trong hệ thống ấy.
Giá trị thời đại của học thuyết ấy là ở chỗ nó là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và
phơng pháp, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính khoa học và cách mạng.
Phép biện chứng duy vật là một hệ t hống mở, năng động, nó dành cả một phơng
hớng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học, cho sự bù đắp của tri thức nhân loại,
là sự hớng dẫn và là động lực cho con ngời trong việc cải tạo tự nhiên, xã hội và t duy.
Phép biện chứng ra đời từ sự sáng tạo và đồng thời cũng đặt ra yêu cầu sáng tạo trong
việc vận dụng nó trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Nếu nh trớc đây phép
biện chứng đôi khi do các nhà duy tâm nghiên cứu và các nhà duy vật dù là phản đối
phép siêu hình thì bây giờ phép biện chứng đó tìm thấy ngời bạn đồng hành tin cậy
duy nhất của mình là chủ nghĩa duy vật. Nếu nh trớc đây lý luận và phơng pháp đôi
khi bị tách rời nhau, thì bây giờ chúng đã trở thành sự thống nhất gắn bó là chủ nghĩa

duy vật biện chứng trong phép biện chứng duy vật đã trở thành học thuyết thống nhất


10
của tồn tại và nhận thức, trở thành phơng pháp luận chung nhất của việc nhận thức và
cải tạo thế giới. Lênin khẳng định phép biện chứng

duy vật là học thuyết về sự phát

triển, dới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện.
(Lênin toàn tập (tập 1), NXB Sự thật. M. 1980 - trang 53)
Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết học nào khác,
bởi vì nó không phải là sản phẩm của phơng pháp t duy mà nó là sự phản ánh biện
chứng khách quan thế giới vật chất, là sự kích thích những giá trị t tởng, văn hoá
nhân loại, nó kế thừa tiếp thu có phân hoá những hạn chế của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng trong lịch sử, đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên. Học thuyết đó luôn lấy thực tiễn làm cơ sở, điểm xuất phát của
mình. Thực tiễn vừa là cơ sở, vừa là mục đích, động lực, tiêu chuẩn để đánh giá sức
bền của nó. Chính hơi thở của thực tiễn làm cho phép biện chứng duy vật luôn sống
động, phát triển. Lênin chỉ rõ: Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức.
(V.I Lênin toàn tập (tập 18) NXB Sự thật M. 1980 - trang 167)
Trong quá trình xây dựng hệ thống triết học của mình các nhà sáng lập Chủ
nghĩa Mác luôn đấu tranh không khoan nhợng chống lại mọi luận điều xuyên tạc của
kẻ thù để bảo vệ và phát triển những quan điểm khoa học của mình.
II.3. Phép biện chứng duy vật. Đỉnh cao của sự thống nhất giữa lý luận và
phơng pháp.
Sự thống nhất giữa lý luận và phơng pháp trong phép biện chứng duy vật thể
hiện ở chỗ, hệ thống các nguyên lý, quy luật của nó không chỉ phản ánh đúng đắn thế
giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức cho con ngời trong nhận thức và cải

tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của các
nhà khoa học chuyên ngành, các khoa học cụ thể mà nó còn kết tinh những tinh hoa
trong quá trình phát triển t tởng triết học nhân loại. Hệ thống phép biện chứng duy vật
đợc tạo thành từ hệ thống các nguyên lý , quy phạm, phạm trù của thế giới vật chất (tự
nhiên, xã hội và t duy). Cho nên nó có thể phản ánh trung thực sự vận động, phát triển
của tự nhiên xã hội và t duy của con ngời. Phép biện chứng duy vật bao hàm nội dung
hết sức phong phú, thể hiện tính phong phú, đa dạng, muôn vẻ của hiện thức khách


11
quan đợc trình bày hết sức chặt chẽ khoa học thông qua các nguyên lý, phạm trù, vừa
là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận thức, vừa là logic học của chủ
nghĩa Mác. Giữa phép biện chứng duy vật, lý luận nhận thức logic học (ở sự thống
nhất biện chứng với nhau không tách rời). Do vậy phép biện chứng duy vật trở thành
phơng pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Trong
khi vạch ra những tính chất chung nhất, phổ biến nhất của sự vận động, phát triển của
thế giới vật chất thông qua những nguyên lý, quy luật, phạm trù chung nhất, phổ biến
nhất phép biện chứng duy vật đã khái quát, rút ra những quan điểm nguyên tắc xuất
phát từ việc hoạch định phơng pháp cho sự hoạt động của con ngời. Đi sâu nghiên cứu
bằng quy luật, nguyên lý, phạm trù của phép biện chứng duy vật, chúng ta càng thấy
tính t hống nhất chặt chẽ giữa lý luận và phơng pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật khái quát bức tranh
toàn cảnh của thế giới vật chất, phản ánh mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện
tợng quá trình trong thế giới vật chất (tự nhiên, xã hội và t duy). Tính chất vô hạn của
thế giới, cũng nh tính chất có hạn củamỗi sự vật hiện tợng, quá trình chỉ có thể giải
thích đợc trong mối liên hệ phổ biến và đợc quyết định bởi rất nhiều loại mối quan hệ
có vai trò, vị trí khác nhau. Sự liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tợng là đặc trng
chung nhất của thế giới vật chất. Thông qua mối liên hệ phổ biến giữa sự vật, hiện tợng, phép biện chứng duy vật khái quát rút ra quan điểm toàn diện trong xem xét,
đánh giá sự vật, hiện tợng, quá trình của thế giới vật chất. Vì vậy, quán triệt quan

điểm toàn diện là nguyên tắc phơng pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động và
suy nghĩ của con ngời. Nội dung chính của nguyên tắc đó là:
- Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tợng.
- Trao tầng số các mối liên hệ phải rút ra đợc những mối liên hệ bản chất chủ
yếu để hiểu về bản chất của sự vật hiện tợng.
- Từ bản chất của sự vật hiện tợng phải quay lại hiểu rõ toàn bộ sự vật trên cơ sở
liên kết mối liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả các mối liên hệ khác của sự vật để
bảo đảm tính khách quan, đồng bộ khi giải quyết mọi vấn đề trong đời sống. Quan


12
điểm toàn diện, đối lập với mọi suy nghĩ và hành động phiến diện. Nguỵ biện, siêu
hình.
Quán triệt quan điểm biện chứng vào việc phân tích toàn diện các mối quan hệ
của sự vật giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật, làm cơ sở cho
việc xác định đờng lối đúng đắn, nhiệm vụ, mục tiêu một cách đúng đắn, chỉ ra đợc
nhiệm vụ mục tiêu cơ bản lâu dài và mục tiêu chủ yếu trớc mắt; phối hợp chặt chẽ
mọi hành động trong quá trình thực tiễn, thúc đẩy sự vật phát triển hợp quy luật khách
quan, điều kiện khả năng khách quan.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật gắn liền với nguyên lý
về mối quan hệ phổ biến. Nhiệm vụ chính của phép biện chứng duy vật chính là
nghiên cứu toàn diện sự vận động và phát triển khách quan của thế giới, tìm ra bản
chất và những quy luật phổ biến của quá trình phát triển của nó. Phép biện chứng duy
vật khẳng định rằng mọi sự vận hiện tợng đều vận động, biến đổi, chuyển hoá từ trạng
thái này sang trạng thái khác. Đó là một qúa trình vô cùng vô tận và có nhiều tính
chất kết quả. Kết quả cụ thể và có nhiều khuynh hớng khác nhau tuỳ thuộc bản chất,
điều kiện sự liên hệ tác động qua lại giữa chúng có sự biến đổi dẫn đến sự tan rã, tiêu
diệt của sự vật cụ thể theo đờng đi xuống, thụt lùi. Hơn nữa ngay trong một sự vật,
hiện tợng thì sự biến đổi của chúng cũng hết sức phức tạp trong các giai đoạn khác
nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Điều đó đợc phản ánh trong khái niệm

vận động phát triển.
Vận động chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung, không kể tính chất khuynh hớng
hay kết quả của sự biến đổi. Còn phát triển phản ánh tính chất khuynh hớng đi lên của
sự biến đổi nói chung ấy. Nh vậy, phát triển có đặc tính chung là đi lên có tính kế
thừa nhất định, có sự lặp lại cái cũ trên cơ sở cao hơn và tất yếu có sự ra đời của cái
mới. Khái niệm vận động và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất với
nhau. Vận động là phơng thức tồn tại của vật chất, là đặc tính cố hữu của vật chất, gắn
với mọi dạng vật chất bất kể trong điều kiện hoàn cảnh nào. Sự phát triển là một kiểu
vận động đặc biệt, đợc đặc trng bởi tính xu hớng tiến lên từ thấp đến cao, từ giản đơn
đến phức tạp. Vì thế, không phải bất cứ sự vận động nào mà cũng đợc coi là phát
triển.


13
Chẳng hạn, sự phát triển bên trong của giới sinh vật thể hiện ở sự tiến hoá từ giản
đơn đến phức tạp, từ đơn bào đến đa bào, từ thực vật đến động vật, từ động vật bậc
thấp đến động vật bậc cao và đến con ngời; ở sự không ngừng hoàn thiện các cơ quan
chức năng đảm bảo cho sự thích nghi với diễn biến phức tạp của môi trờng và sự bảo
tồn giống loài.
Xã hội loài ngời cũng không phải là một qúa trình biến đổi trong đó chỉ toàn
những sự lộn xộn ngẫu nhiên, mãi mãi nh thế mà là một quá trình không ngừng phát
triển đợc đánh dấu bằng tiến bộ xã hội, biểu hiện sự phát triển của lực lợng sản xuất
sự kế tiếp nhau của các nền văn minh...
Tất cả những điều đó đã bác bỏ những luận điệu của triết học t sản hiện đại cho
rằng không thể tìm căn cứ khách quan cho tính phổ biến và sự phát triển, rằng sự phát
triển chỉ đợc áp dụng trong những giới hạn hết sức nhỏ hẹp của thế giới, thậm chí đó
chỉ là áp đặt mang tính chủ quan mục đích luận của những ngời sáng lập ra phép biện
chứng duy vật. Đó là sự đặt cho sự phát triển biến đổi, chỉ thừa nhận sự biến đổi vô thờng. Quan điểm này về thực chất là quan điểm siêu hình nhằm biện hộ cho sự tồn tại
của chủ nghĩa t bản. Trớc những thành tựu của H không ngừng phát triển, các nhà
siêu hình cũng phải thừa nhận sự phát triển. Song họ lại lấy sự phát triển chỉ là sự tăng

lên hay giảm đi đơn thuần về số lợng, là sự tuần hoàn hợp lại chứ không hề có sự nhảy
vọt về chất, không có sự xuất hiện cái mới. Họ coi sự phát triển là một quá trình mà
nguồn gốc của nó nằm bên ngoài do sự tác động bên ngoài đa đến.
Trái lại, phép biện chứng duy vật khẳng định sự phát triển của sự vật là một quá
trình khách quan, là tự nhiên phát triển. Đó là quá trình tiến lên mà nguồn gốc, động
lực của nó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vận động hiện tợng, là
một quá trình mà trạng thái tiến lên không theo đờng thẳng, cũng không phải theo đờng vòng tròn mà theo đờng xoáy ốc, có thể có bớc thụt lùi tạm thời, nhng cái mới sẽ
ra đời và chiến thắng. Đó là khuynh hớng tất yếu của sự phát triển. Những quan điểm
trên đây đợc trình baỳ trong những quy luật cơ bản phổ biến của phép biện chứng duy
vật.
Nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho ta phơng pháp nhận thức khoa học về
thế giới chỉ cho chúng ta con đờng đúng đắn để cải tạo tự nhiên xã hội. Nếu phát triển


14
là một qúa trình đổi mới không ngừng thì nhiệm vụ của khoa học là phải nghiên cứu,
xem xét các sự vật , hiện tợng của thế giới đang vận động, biến đổi từ dạng này sang
dạng khác, từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao nh thế nào. Điều đó đòi hỏi phải
xem xét sự vật trong sự phát triển, phải hành động để đa đến sự phát triển của sự vật;
phải thấy phát triển là một quá trình trong đó tất yếu có sự ra đời của cái mới. Song sự
diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới là cả qúa trình đấu tranh lâu dài, gay go,
phức tạp. Vì thế phép biện chứng yêu cầu chúng ta phải hớng tới cái mới, phát hiện
cái mới một cách nhạy bén, nhìn về tơng lai phát triển của nó. Đồng thời trong phát
triển, hớng tới cái mới phải phân biệt cái mới thực sự với những cái giả danh để kịp
thời ngăn chặn, loại trừ.
Những sự kiện diễn ra vừa qua ở các nớc XHCN Đông Âu và Liên xô càng cho
thấy những cái cũ, cái lỗi thời đợc che đậy rất tinh vi, xảo quyệt, nó chứng tỏ tính chất
cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ trong xã hội hết sức gay go, quyết liệt, một mất,
một còn.
Nội dung cơ bảnt của ba quy luật của phép biện chứng duy vật chỉ ra nguồn gốc,

động lực, cách thức và khuynh hớng phát triển tiến lên của các sự vật hiện tợng trong
thế giới. Nắm vững ba quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phơng pháp
luận chỉ đạo mọi hoạt động của con ngời để thực hiện quan điểm toàn diện, quan
điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể là kết quả trực
tiếp của việc tận dụng các nguyên lý, các cặp phạm trù và quy luật của phép biện
chứng duy vật, là cơ sở phơng pháp luận chung nhất vô cùng quan trọng cho mọi ngời
trong nhận thức và hoạt đôngj thực tiễn. Phân tích cụ thể và tình hình cụ thể, điều kiện
cụ thể và mở ra kết luận cụ thể là yêu cầu bắt buộc của nguyên tắc quan trọng này.
Lênin coi đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác. Ngời khẳng định: Lý
luận Mác xít tuyệt đối đòi hỏi ngời ta phải phân tích một vấn đề xã hội, phải định
trong một khung cảnh lịch sử nhất định. Cần phải chú trọng đến những đặc điểm cụ
thể, phân biệt nớc này với nớc khác trong phạm vi cùng một thời đại lịch sử duy nhất:
chân lý là cụ thể cách mạng (Lênin toàn tập, tập 3 NXB tb, 1980, trang 186) là sáng
tạo, xa rời yêu cầu này sớm hay muộn sẽ rơi vào vũng lầy của bệnh giáo điều và kinh
nghiệm chủ nghĩa.


15
Tóm lại, nói tới phép biện chứng duy vật phải nói tới cả hệ thống của nó không
bỏ sót yếu tố, nội dung nào, t tởng xuyên suốt nhất trong phép biện chứng duy vật là
t tởng phát triển. Mỗi nguyên lý quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật đều
thể hiện một phơng tiện nhất định về sự phát triển và đều có ý nghĩa phơng pháp luận
hết sức quan trọng. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải vận
dụng tổng hợp những quan điểm và nguyên tắc đó, không coi nhẹ hoặc tuyệt đối hoá
một vấn đề nào.
II.4. Phép biện chứng duy vật - cơ sở nhận thức luận của sự thống nhất giữa
tính khoa học và tính cách mạng trong triết học Mác - Lênin.
Trong toàn bộ các nhân tố trở thành chủ nghĩa Mác thì phép biện chứng duy vật
là cơ sở lý luận, cơ sở thế giới quan và phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác. Phép biện
chứng duy vật, cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác vừa là khoa học về những quy luật

phổ biến của sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và t duy vừa là phơng pháp
t duy cách mạng và hành động cách mạng. Cho nên phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác không chỉ mang nội dung khoa học sâu sắc mà còn mang tính cách mạng triệt
để.
Điều quan trọng nhất làm cho phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa

Mác -

Lênin đợc tính khoa học và cách mạng là do triết học ấy luôn lấy thực tiễn cách mạng
của quần chúng, trớc hết là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản làm mục đích.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng, phép biện chứng duy vật luôn đợc bổ sung, hoàn
thiện ngày càng phản ánh đầy đủ hơn đúng đắn hơn các qui luật của hiện thực khách
quan, làm cho tính chính xác, tính khoa học của phép biện chứng ngày càng đợc nâng
cao. Tính khoa học càng cao thể hiện qua tái tạo hiện thực càng lớn, do đó tính cách
mạng của phép biện chứng duy vật không phải là tai mặt đứng bên cạnh nhau, tồn tại
bên ngoài nhau mà là hai mặt thâm nhập vào nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau. Chỉ
có thông qua thực tiễn cách mạng, trên cơ sở hoạt động cải tạo cách mạng xã hội mà
phép biện chứng phản ánh đợc các qui luật nội tại và xã hội nói chung của cách mạng
nói riêng. Ngợc lại càng phản ánh đúng đắn các quy luật xã hội quy luật cách mạng
bao nhiêu thì ứng dụng chỉ đạo của phép biện chứng trong hoạt động cách mạng cũng
cao bấy nhiêu và tính cách mạng của nó càng sâu sắc bấy nhiêu. Đó là điều kiện để


16
phép biện chứng thể hiện sức mạnh cải tạo cách mạng đối với lĩnh vực này của thế
giới.
Tính cách mạng của phép biện chứng duy vật còn biểu hiện ở chỗ: nó luôn xem
xét sự vật trong sự vận động, phát triển, nó không dung hợp với bất kỳ sự bảo thủ trì
trệ nào, tĩnh tại bất biến nào. Ănghen viết, đối với phép biện chứng duy vật không có
cái gì là tối hậu, là tuyệt đối thiêng liêng cả. Nó chỉ ra tính chất quá độ của mọi sự vật

và trong mọi sự vật và đối với nó không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của
sự tiến triển vô cùng vô tận từ thấp đến cao. Trong khi phép biện chứng duy vật đa ra
quan niệm về tính hợp lý của cái hiện tồn thì đồng thời nó cũng bao hàm trong đó cả
quan niệm về sự diệt vong tất yếu của cái hiện tồn đó. Do đó ở đây ý chí, nhiệt tình,
nội lực cách mạng của giai cấp cách mạng không thể không ảnh hởng quan trọng đến
tiến trình lịch sử khách quan đó. Từ đó cơ sở nhận thức luận đó, Lênin đã nói rằng
trong hoạt động cách mạng phải kết hợp một cách tài tình hoàn toàn sáng suốt khoa
học trong việc phân tích tình hình khách quan, với việc thừa nhận một cách hết sức
dứt khoát tác dụng của nghị lực cách mạng, tính sáng tạo cách mạng và tính chủ động
cách mạng của quần chúng.
Với bản chất khoa học, Cách mạng, sâu sắc và triệt để đợc thể hiện trong những
nguyên lý, quy luật, phạm trù của mình, phép biện chứng duy vật đã vạch ra biện
chứng của quá trình phát triển của thế giới vật chất đôí với nội dung và hình thức xác
định phơng pháp cách mạng khoa học và đúng đắn. Đối với ngời cách mạng phép
biện chứng duy vật trở thành công cụ quan trọng bậc nhất không thể thiếu đợc trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn để cải tạo hoàn cảnh cải tạo bản thân.
III. ý nghĩa của phép biện chứng duy vật đối với thực tiễn cách mạng hiện
nay.
Cách mạng là quá trình xoá bỏ cái cũ, lỗi thời lạc hậu và tái hợp cái mới tiến bộ
hơn, mà đó là một qúa trình khó khăn phức tạp, quanh co. Quan niệm đó của phép
biện chứng duy vật là cơ sở khoa học để xác định tinh thần lạc quan cách mạng, giữ
vững niềm tin vào lý tởng xã hội chủ nghĩa,mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội lâm vào
khủng hoảng thoái trào.


17
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, cách mạng thế giới đã trải qua
nhiều biến đổi và ngày càng xuất hiện nhiều nhân tố mới tác động đến sự phát triển
của xã hội loài ngời. Sự sụp đổ CNXH ở Liên Xô và Đông Âu khiến chủ nghĩa xã hội
tạm thời gặp những khó khăn tổn thất. Chủ nghĩa t bản và sự thích nghi tồn tại, còn

khả năng biến hoá và phát triển nhờ tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại. Đặc điểm mới và của chủ nghĩa t bản không làm bản
chất và mâu thuẫn vốn có trong lòng nó cũng nh sự diệt vong tất yếu của nó. Điều đó
không làm thay đổi quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc cách mạng KHKT hiện đại phát triển ngày càng mạnh mẽ, những thành
tựu vĩ đại của nó nhanh chóng đợc ứng dụng vào đời sống và xã hội đem lại bớc phát
triển kỳ diệu cho nhân loại, đa loài ngời tiến lên trình độ văn minh mới, văn minh trí
tuệ. Nền văn minh mới là bằng chứng chỉ rõ sự phát triển biện chứng xã hội loài ng ời
là một quá trình lịch sử tự nhiên tơng đối lý tởng cao đẹp mà học thuyết Mác đã chỉ ra
đó là lý tởng xã hội chủ nghĩa, là lý tởng giải phóng con ngời thực sự bình đẳng, công
bằng để đem lại sự phát triển thành tựu do mỗi ngời là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi ngời.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện lý tởng XHCN là một vấn đề hết sức khó khăn,
phức tạp, nhiệm vụ của những ngời cộng sản không phải là hoàn toàn trôn vùi những
gì có sẵn, hoặc những công thức có sẵn trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin mà chính ở đó sự vận động trong sự phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
mỗi nớc. Bởi vì triết học Mác nói chung và phép biện chứng nói riêng không phải là
một học thuyết vạn năng đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của thời đại mà nó chỉ là thế
giới quan phơng pháp luận khoa học cho ngời cộng sản trong nhận thức và hành động
cách mạng. Vận dụng một cách máy móc, xa rời những nguyên tắc cơ bản của triết
học Mác - Lênin nói chung và phép biện chứng nói riêng sớm hay muộn cũng phải trả
giá cho điều đó.
Nhân dân Việt Nam bằng kinh nghiệm lịch sử gần một thế kỷ đấu tranh cách
mạng kể từ khi có Đảng đã hiểu giá trị lớn lao của triết học Mác - Lênin đặc biệt là
phép biện chứng duy vật đối với sự nghiệp cách mạng mà Đảng và dân tộc. Quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn xác định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.


18
Đảng chỉ rõ, chúng ta quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, với một

nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề... đó là sự
nghiệp hết sức khó khăn và phức tạp. Có thể nói mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu diễn ra
trong thời kỳ này là mâu thuẫn xu hớng tự phát theo chủ nghĩa t bản và xu hớng tự
giác lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn này mới bảo
đảm yêu cầu của quá trình lịch sử tự nhiên trong tiến trình cách mạng nớc ta, đồng
thời giữ vững sự định hớng của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Thực hiện vấn đề trên, đòi hỏi vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng
và nhà nớc ta có ý nghĩa quyết định.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta phải đổi mới t duy
trớc hết là t duy lý luận. Đổi mới t duy không có nghĩa là chúng ta từ bỏ các nguyên
lý, quy luật của chủ nghĩa Mác, phủ nhận những thành tựu của lý luận Mác, mà ở đây
chúng ta phải đi sâu vào nắm vững bản chất các nguyên lý, quy luật đó vận dụng một
cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử, cụ thể ở nớc ta. Ngày nay nhiều vấn đề mới của
thời đại, của đất nớc cần có câu trả lời mới, những giải pháp mới mà không có sẵn
trong di sản của Mác, hoặc nếu chỉ hạn chế ở t tởng cũ thì cha đủ. Nhng cũng có
những giải đáp nằm ngay trong di sản mà chúng ta cần biết khai thác. Nghị quyết 09
của Bộ chính trị đã chỉ rõ: Ngày nay khi sự nghiệp đổi mới ngày càng mở rộng và
phát triển theo chiều sâu, những biến đổi trên thế giới càng lớn, những vấn đề mới đặt
ra càng nhiều đòi hỏi phải làm sáng tỏ tìm tòi lời giải đáp thì việc nghiên cứu lý luận
gắn với công tác thực tiễn càng trở nên quan trọng và cấp bách. Khi các thế lực thù
địch ra sức tiến công nền tàng t tởng nhằm đẩy chúng ta đi chệch hớng thì đấu tranh
bảo vệ và phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh
càng là vấn đề quan trọng, trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong công tác t tởng và lý
luận của Đảng và của toàn dân ta.


19

Kết luận


Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát triển của
nhận thức. Đây là một khoa học triết học toàn diện nhất, sâu sắc và triệt để nhất của
sự vận động và phát triển của thế giới vật chất. Với bản chất khoa học và cách mạng,
phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung cấp cho chúng ta hệ thống các
nguyên tắc phơng pháp luận phổ biến, thực sự khoa học và có hiệu quả trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói chung. Vận dụng trung thành và sáng tạo triết
học Mác - Lênin, đặc biệt là phép biện chứng duy vật là vấn đề nguyên tắc đối với tất
cả các Đảng Cộng Sản và phong trào công nhân quốc tế, trong đó có Việt Nam. Thực
tiễn chứng minh rằng, trải qua những bớc thử thách khác nhau trong mọi hoàn cảnh,
phép biện chứng duy vật luôn tỏ ra là đỉnh cao của trí tuệ loài ngời, luôn có ý nghĩa
thực tiễn hết sức to lớn. Thực tiễn cũng luôn nảy sinh những vấn đề hết sức phức tạp
của từng nớc, từng quốc gia, dân tộc và đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...
Ngày nay, việc bảo vệ phép biện chứng duy vật dới sự xuyên tạc của những kẻ
thù t tởng của nó, cũng nh việc thờng xuyên nghiên cứu, phát triển, hoàn thiện nó đều
hết sức quan trọng. Muốn bảo vệ nhất thiết phải phân tích, muốn phát triển phải bảo
vệ bản chất khoa học cách mạng của phép biện chứng duy vật. Thực tế khẳng định
rằng, việc đó không chỉ là vấn đề thuần tuý lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc, nóng bỏng hiện nay.



×