Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẶC GIA VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.98 KB, 24 trang )

Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

----------

TIỂU LUẬN MÔN
TRIẾT HỌC

Đề tài:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC MẶC GIA
VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI NGÀY NAY

HVTH: Trần Xuân Hoàng
MSHV: 7140271
GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2014
Mục Lục

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 1


Tiểu luận môn Triết học


GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trên thế giới, Triết học có thể chia làm hai nền tư tưởng chính. Đó là: triết học
phương Đông và phương Tây. Trong đó triết học phương Đông là một nền triết học cổ
đại, mang tính chất hướng vào nội tâm để tìm ra sự giải thoát cho bản thân và đóng góp
vào sự nghiệp xây dựng xã hội. Triết học phương Đông lại mang hai nền tư tưởng
chính là tư tưởng triết học Ấn Độ và triết học Trung Quốc. Trung Quốc là một nước
lớn, có lịch sử văn hóa lâu đời và ảnh hưởng sâu, rộng trên thế giới. Do có lịch sử từ
ngàn xưa nên nền triết học của Trung Quốc cũng sớm hình thành và đi theo cùng thời
đại của lịch sử dân tộc. Những nền triết học Trung Quốc được hình thành sớm nhất vào
thời tiền Tần với những tư tưởng chính của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Mặc Tử,
Lão Tử, Trang Tử…
Trong số những nhà tư tưởng lớn thời bấy giờ, Mặc Tử là một triết gia mang nhiều
tư tưởng thiết thực để đóng góp cho xã hội của thời xưa và nay. Tư tưởng chính của
ông là đưa ra những quan điểm căn bản để ứng dụng vào hành vi nhân sinh, xây dựng
đạo đức con người. Trong đó, phải kể đến chủ trương: Kiêm Ái, Phi Công, Thượng
Hiền, Thượng Đồng, Phi Nhạc, Phi Mệnh, Tiết Dụng, Tiết Táng. Trong đó nổi bậc nhất
vẫn là học thuyết Kim Ái cùng với tư tưởng Thượng Hiền là hai chủ trương mà giá trị
vận dụng của nó tồn tại mãi theo thời gian.
Nếu như ở học thuyết Kim Ái là một tư tưởng bàn về việc xây dựng khối đại đoàn
kết nhằm đưa xã hội đi lên xuất phát từ tình yêu thương giữa con người với con người,
không phân biệt sang hèn, là sự gắn bó lợi ích giữa con người với nhau trong xã hội.
Để đi tới xây dựng một xã hội đại đoàn kết, con người sống với nhau chan hòa, tình
cảm.
Thì ở tư tưởng Thượng Hiền lại tập trung vào việc tuyển dụng những người hiền
tài, có đức vào trong sự nghiệp xây dựng đất nước, tạo cho đất nước ngày một tốt đẹp
hơn, con người càng hoàn thiện hơn, có khả năng và điều kiện để thể hiện tài năng của

mình.

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 2


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề đạo đức con người trong xã hội thể hiện trong
học thuyết Kim Ái, cũng như giá trị tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử đối với xã hội
ngày nay nên tôi đã chọn đề tài: "Tư tưởng triết học Mặc gia và giá trị của nó đối với
xã hội ngày nay".
Do kiến thức còn hạn chế, cùng với đề tài tương đối mới nên có thể vẫn còn thiếu
sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy(Cô) và người đọc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

- Mục đích nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung vào việc làm rõ bối cảnh lịch sử, những nội dung cơ bản của
triết học Mặc gia. Trong đó chú trọng vào học thuyết "Kiêm Ái", một trong những học
thuyết nổi bật của triết học Mặc gia. Cùng với đó là tư tưởng "Thượng Hiền" mà mọi
thời đại đều cần đến và áp dụng triệt để, một tư tưởng lớn, thiết thực mang giá trị vượt
không gian và thời gian.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, tìm hiểu bối cảnh lịch sử hình thành triết học Mặc gia và những nội dung
tiêu biểu có tầm ảnh hưởng đến xã hội ngày nay.
Hai là, phân tích, đánh giá, chứng minh những học thuyết, tư tưởng mà giá trị vận
dụng của nó đối với xã hội ngày nay hoàn toàn không bị mai một.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu:
Trải qua quá trình phát triển lâu đời, nền triết học của Trung Hoa cũng sớm hình
thành với nhiều trường phái khác nhau, chứa đựng nhiều triết lý nhân sinh sâu sắc.
Trong khuôn khổ đề tài môn học, tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu tư tưởng triết học Mặc gia.
- Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu chủ yếu những tư tưởng trong triết học Mặc gia của Mặc Tử
thời tiền Tần. Trong đó chú trọng vào học thuyết "Kiêm Ái" và tư tưởng "Thượng
Hiền".
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

- Cơ sở lý luận:
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 3


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

Tiểu luận được xây dựng trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho việc phân tích, đánh giá, chứng minh những học
thuyết cơ bản của triết học Mặc gia và giá trị vận dụng của nó trong xã hội ngày nay.
- Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong
đó chủ yếu vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tiểu
luận còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, hệ thống, so sánh, đối
chiếu nhằm làm rõ nội dung tư tưởng trong triết học Mặc gia để từ đó rút ra được

những giá trị của nó đối với đời sống xã hội.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:

- Tiểu luận góp phần làm rõ hơn, sâu sắc hơn học thuyết "Kim Ái" và tư tưởng
"Thượng Hiền" của Mặc Tử một cách có hệ thống.
- Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc kế thừa, phát huy những giá
trị vận dụng của triết học Mặc gia đối với đời sống xã hội.
6. Kết cấu của đề tài:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận bao gồm 2
chương, 7 tiết:
-

Chương 1: Mặc gia và triết học Mặc Tử.
Chương 2: Những giá trị của triết học Mặc gia đối với xã hội ngày nay.

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 4


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc
NỘI DUNG

Chương 1: MẶC GIA VÀ TRIẾT HỌC MẶC TỬ
1.1. Sự hình thành trường phái triết học Mặc gia

1.1.1.


Bối cảnh lịch sử - xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc
Sự phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc cổ đại cũng là lúc xã hội Trung Quốc
bước vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc, đây là thời kỳ tan rã của chế độ chiếm hữu nô
lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên.
- Về mặt xã hội: Xuân Thu - Chiến Quốc là hai giai đoạn lịch sử của xã hội Đông
Chu. Sau khi Chu Bình Vương lên ngôi do thế và lực không đủ sức chống cự lại sự
xâm lược của giặc ngoại tộc, nên đã dời đô từ Hạo Kinh về Lạc Ấp. Lúc này, nhà Chu
không thể giữ được chế độ cai trị như cũ. Các nước chư hầu không phục tùng vương
mệnh, cống nạp mà còn lộng quyền xưng danh nhà Chu để thôn tính lẫn nhau. Xuân
Thu (770 - 403 trước công nguyên) có hơn một trăm nước, đến thời Chiến Quốc (403221 trước công nguyên) còn có bảy nước, trong đó Tần là quốc gia hùng mạnh nhất.
- Về mặt kinh tế: Trong nông nghiệp việc sử dụng công cụ bằng sắt ngày càng rộng
rãi; quan hệ trao đổi sản phẩm lao động xã hội được lưu thông; tiểu, thủ công nghiệp
ngày càng mở rộng. Sự phát triển của các ngành, nghề này không hoàn toàn phụ thuộc
vào quyền sở hữu đất đai của nhà nước. Chế độ tư hữu ruộng đất được nhà nước thừa
nhận và bảo vệ.
- Về mặt chính trị: Một lực lượng kinh tế tư hữu mới ra đời là một thế lực đối chọi
với chế độ công hữu đất đai nhà Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế mới đó là lực lượng
chính trị mới - Thế lực địa chủ ở các địa phương thuộc các nước chư hầu nhà Chu. Xu
hướng chính trị của các thế lực mới này là thâu tóm quyền lực, tập trung uy quyền và
mở rộng sự bành trướng thống trị.
- Về mặt tư tưởng, văn hóa: Những tác phẩm có giá trị văn hóa lớn như: Kinh thi
gồm 305 bài thơ mang tính tập thể của nhiều thế hệ, của nhiều tầng lớp khác nhau, nó
phản ánh các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó còn có bộ Sở từ.
Đó là tác phẩm của Khuất Nguyên (343 – 227 trước công nguyên) – là tập dân ca của

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 5



Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

nước Sở, trong đó thể hiện tình cảm yêu nước thương dân, sự bình dị gần gũi với nhân
dân lao động của Khuất Nguyên.
Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ của bách gia chư tử, bách gia tranh minh. Chính
trong thời đại lịch sử biến đổi toàn diện và sâu sắc đó đã đặt ra những vấn đề triết học,
chính trị xã hội, luân lý đạo đức, kinh tế, pháp luật, quân sự, ngoại giao… kích thích
lòng người, khiến các bậc tài sĩ đương thời quan tâm lý giải, để tìm ra các phương pháp
giải quyết, từ đó làm nảy sinh ra một loạt các nhà tư tưởng nổi tiếng và các trường phái
triết học lớn. Trong đó, một trong những trường phái triết học có ảnh hướng lớn đền
Trung Quốc thời bấy giờ đó là Mặc gia cùng với triết học của Mặc Tử.
1.1.2. Trường phái triết học Mặc gia

Mặc gia là trường phái triết học về cơ bản nó đại diện cho lợi ích của tầng lớp sản
xuất nhỏ thời kỳ tiền Tần. Nó được chia ra làm hai thời kỳ:
- Ở thời kỳ đầu, Mặc gia lấy tư tưởng của Mặc Địch với chủ nghĩa "kiêm ái" làm
trung tâm đây luôn là học thuyết có nội dung tư tưởng đối lập với Nho gia.
- Ở thời kỳ cuối, là sự tiếp nối tư tưởng của Mặc Địch, xuất hiện vào thời kỳ Chiến
Quốc. Họ đã loại bỏ thế giới quan tôn giáo của Mặc Địch, chú trọng nghiên cứu những
kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất, tiến hành tổng kết những thành quả của khoa học tự
nhiên thời bấy giờ, và lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc xây dựng nên lý
luận về nhận thức và khoa học một cách có hệ thống.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Mặc Tử

Mặc Tử là một trong những nhà triết học lớn của Trung Quốc cổ đại, người sáng lập
ra trường phái triết học Mặc gia, có tư tưởng đối nghịch với Nho gia trong thời Xuân
Thu – Chiến Quốc. Mặc Tử thuộc lớp người bình dân trong xã hội đương thời, từng

làm thợ và phu dịch. Ông họ Mặc, tên Địch, thường gọi là Mặc Tử.
Về cuộc đời và sự nghiệp của ông, có người cho rằng ông là người nước Tống, có
người lại cho rằng ông là người nước Lỗ. Trong sách Hoài Nam yếu lược có nói: "Mặc
Tử theo nghiệp Nho gia, học đạo Khổng Tử, cho rằng lễ của Nho gia nhiều chỗ quá
phiền phức mà không bằng lòng, chê Nho gia chôn cất hậu chỉ hại và làm nghèo dân,
để trở quá lâu hại sự sống và hại công việc…", nên xác định Mặc Tử là người nước Lỗ.
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 6


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

Về niên đại của ông người ta cho rằng niên đại của Mặc Tử vào khoảng năm 479 đến
năm 381 trước công nguyên.
Mặc Tử là người có tài hung biện thuyết phục người khác. Ông đã từng chu du
khắp thiên hạ để giảng thuyết "kiêm ái" với một tinh thần, nghị lực và niềm tin hiếm
có. Càng thấy thiên hạ ít người theo mình, ông lại càng gắng sức làm. Ông suốt đời
hăm hở, kiên nhẫn, hy sinh làm việc nghĩa hòng cứu thiên hạ khỏi cảnh chiến tranh
loạn lạc, cực khổ, dù gặp nguy hiểm vẫn không nản chí.
Một câu chuyện nói lên sự tận tâm làm việc nghĩa của Mặc Tử:
Khi Mặc Tử từ nước Lỗ sang nước Tề, gặp một người quen thấy ông sống khắc khổ, đã
khuyên rằng: "Thiên hạ đời này chẳng ai làm nghĩa, sao ông cứ một mình làm điều
nghĩa cho khổ cái thân, chi bằng thôi đi!". Mặc Tử đáp: "Nay một nhà có mười đứa
con, một đứa đi cày chín đứa ở không, thì đứa đi cày không thể không làm việc thêm
gấp nhiều lần. Vì người ăn thì nhiều mà người cày thì ít. Thiên hạ đời này chẳng ai làm
nghĩa, người khuyên ta nên gắng sức thêm mới phải, sao lại ngăn ta? ".
Với tinh thần xả thân vì nghĩa, Mặc Tử đã đào tạo được một đội ngũ học trò cũng

có đức hạnh và lòng quả cảm như ông. Chính tư tưởng và hành động nghĩa hiệp cao cả
của Mặc Tử, đến Mạnh Tử người công kích Mặc Tử kịch liệt nhất cũng phải thốt lên
rằng: "Họ Mặc kiêm ái đến mòn trán lỏng gót, cái gì có lợi cho thiên hạ thì làm".
Cùng với Nho gia và Đạo gia, học thuyết của Mặc Tử đã thịnh hành và ảnh hưởng
một thời ở Trung Quốc. Nhưng giữa Khổng Tử và Mặc Tử lại có sự đối lập nhau không
chỉ về tư tưởng, chủ trương, phương pháp mà còn đối lập nhau về nền tảng giai cấp xã
hội. Khổng Tử thừa nhận "thiên mệnh" là thiên lý màu nhiệm, ưa chuộng lễ nghĩa, văn
hóa của chế độ xã hội cổ truyền. Chú trọng giáo hóa đạo đức con người với các phạm
trù đạo đức cơ bản như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Mặc Tử thì ngược lại, tuy ông cũng
rất chú trọng vấn đề đạo đức, chính trị nhưng ông lại đề cao: Thiên Chí, Minh Quỷ,
Chủ Trương: Kiêm Ái, Thượng Đồng, Thượng Hiền, Phi Mệnh, Phi Nho, Phi Nhạc,
Tiết Dụng, Tiết Táng… và từ đó ông đặt tất cả các vấn đề luân lý và đạo đức chính trị
trên cơ sở chủ nghĩa công lợi của ông. Tuy ông không tin vào "thiên mệnh" và định
mệnh, nhưng Mặc Tử xem thượng đế là nguyên tắc cao nhất của hành vi con người,
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 7


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

đồng thời cho rằng sự biến hóa của tự nhiên cũng bị ý chí của trời chi phối. Mặc Tử
cho rằng trời là một đấng anh minh, có ý chí, có nhân cách và quyền lực tối cao. Tin có
trời, Mặc Tử cũng tin có quỷ thần. Quỷ thần là một thế lực đầy quyền uy, linh thiêng
giám sát chặt chẽ mọi hành vi của con người để khen thưởng hay là trừng phạt. Thuận
theo ý chí của trời làm khuôn phép, nguyên tắc cao nhất trong đời sống xã hội. Con
người cần phải thực hành "kiêm ái". Yêu thương hết tất cả mọi người như nhau, không
phân biệt thân sơ, quý tiện, trên dưới… Mặt khác, ngoài những tư tưởng trên, Mặc Tử

còn chủ trương "thượng đồng". Nghĩa là dưới luôn luôn phải tán đồng với trên và phục
tùng tuyệt đối mệnh lệnh của trên, là: "Đồng ý với bề trên, không theo kẻ dưới". Khi
một thể chế quốc gia ra đời, mỗi người có một ý muốn, sở thích riêng nên gây ra sự
tranh cải , tranh đoạt chém giết lẫn nhau. Vì vậy cần phải có người tài đức cầm đầu
chính trị Làm thiên tử. Vì vậy, Mặc Tử chủ trương thuyết "thượng đồng". Nhưng
những giai cấp nắm chính quyền lại theo chế độ, tư tưởng cha truyền con nối nên
những người con cháu của họ tuy không đủ tài đức nhưng vẫn đứng trên vai trò lãnh
đạo đất nước, từ đó dẫn đến đất nước ngày một suy yếu. Vì thế, trong quan niệm về
nhà nước, Mặc Tử cực lực phản đối chế độ cai trị có tính thế tập và đưa ra chủ trương
"thượng hiền", lựa chọn và sử dụng những người hiền tài, nhân đức bất kể họ ở địa vị
nào trong xã hội để tôn lên chịu trọng trách chăn dân trị nước. "Ai có tài năng thì đề cử
họ, ai không có tài năng thì hạ họ xuống". Mặt khác, trong quan điểm chính trị xã hội,
Mặc Tử còn trình bày quan điểm của mình về chiến tranh trong thiên "phi công" nổi
tiếng. Ông tỏ ra thái độ căm ghét chiến tranh, đã phá, mạt sát thái độ hiếu chiến của
bọn vua chúa đương thời, nhiệt tâm giúp đỡ các nước nhỏ thế yếu.
Tóm lại, Mặc Tử là một trong những nhà triết học thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Tư
tưởng của ông là tiếng nói đại diện cho tầng lớp tiểu tư hữu và tầng lớp bình dân trong
xã hội ở thời kỳ chiếm hữu nô lệ suy tàn và chế độ phong kiến đang lên. quan điểm đặc
sắc của ông là những lý luận nhận thức trong phép tam biểu và chủ nghĩa kiêm ái, vị
tha, chống chiến tranh xâm lược, đòi tự do bình đẳng bác ái, chủ trương cải cách xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân lao động… là những đóng góp quý giá của Mặc Tử

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 8


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc


vào kho tàng lý luận hết sức phong phú của nhân dân Trung Quốc. Đặc biệt là thuyết
"thượng hiền" đã có ảnh hưởng rất lớn cho đến ngày hôm nay.

1.3.

Học thuyết Kiêm ái của Mặc Tử

1.3.1.

Kiêm ái là nhân nghĩa
Cũng như Khổng Tử, Mặc Tử luôn đề cao đức nhân nghĩa, nhưng quan điểm về ý
nghĩa phạm trù và nhân nghĩa của Mặc Tử khác với quan điểm của Khổng Tử. Nếu như
ở Khổng Tử nhân là đạo sống của con người theo thiên lý hay đạo trời, là ái nhân (yêu
thương người), là trung thứ (hết lòng hết dạ thành tâm thật ý, suy lòng mình ra lòng
người, cái gì mình không muốn thì đừng đem thi hành cho người), nhưng lại có sự
phân biệt thứ bậc, "thương yêu người thân, quý trọng người sang", thì nhân nghĩa của
Mặc Tử là ý chí của trời, gồm yêu tất cả mọi người và làm lợi cho tất cả mọi người như
nhau, không phân biệt trên dưới, thân sơ, quý tiện. Đó chính là nội dung của chủ nghĩa
"kiêm ái". Vì thế, "kiêm ái" được coi là một trong những tư tưởng chủ yếu nhất trong
học thuyết của Mặc Tử.
Trong sách Mặc Tử có ba thiên bàn về "kiêm ái" (kiêm ái thượng, trung, hạ). Theo
Mặc Tử "kiêm" là gộp tất cả như nhau, trái với "biệt" là sự chia rẽ phân biệt nhau. "Ái"
là lòng yêu thương của con người, trái với "ố" là sự thù ghét lẫn nhau. "Kiêm ái" trước
hết là yêu tất cả mọi người như nhau. Yêu mình như yêu người, yêu người ngoài cũng
như yêu người thân, không có người làng mình người làng người, người nước mình
người nước người.
Cốt lõi của "kiêm ái" là yêu thương nhau. Vậy nên, theo thuyết "kiêm ái" sự yêu
thương nhau sẽ loại trừ tai họa cho thiên hạ, vì khi yêu thương nhau, họ sẵn sàng xả
thân giúp đỡ nhau, làm lợi cho nhau ví như vua thực hành kiêm ái: "Trước phải vì

muôn dân, sau mới vì đến thân mình...".
Vì thế "kiêm ái" cũng có nghĩa là nhân nghĩa. Người nhân nghĩa là người thực hiện
"kiêm ái". "Kiêm ái" là cái thực của nhân, là nội dung của nghĩa. "Ái" là nhân, "kiêm"
là nghĩa.

1.3.2.

Mối quan hệ giữa "Kiêm" và "Lợi"

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 9


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

Thực hành "kiêm ái" còn làm cho: "những người già nua không vợ con, có kẻ hầu
nuôi cho trọn tuổi thọ, những kẻ nhỏ yếu mồ côi không cha mẹ, có chỗ nương tựa cho
lớn cái thân". Từ đó có thể thấy, ngoài nhân nghĩa, "kiêm ái" còn có nội dung "lợi ".
"Kiêm ái" mang lại cái lợi cho người thực hành nó và cho người khác, cho xã hội, đó là
công lợi: "làm lợi cho hết thảy mọi người như nhau" và cuối cùng, cái lợi lớn nhất là
quốc thái dân an, thiên hạ thái bình thịnh vượng. "Kiêm ái" phải vì công lợi và công lợi
chính là tiêu chí để xét xã hội có thực hiện "kiêm ái" hay không. Đó chính là chủ
trương dùng "kiêm tương ái, giao tương lợi" thay thế cho "biệt tương ố, giao tương tặc"
của Mặc Tử.
"Kiêm ái" hay nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại lợi ích cho mọi người. Vì vậy, khi
nói tới "kiêm ái" hay nhân nghĩa Mặc Tử thường nói đến cái lợi của thiên hạ "lợi là
nghĩa vậy". Nghĩa là danh, lợi là thực. Nghĩa là cái tên đẹp của lợi, lợi là cái thực của

nghĩa. Như thế, "kiêm ái" theo Mặc Tử còn bao hàm nội dung thứ hai là "làm lợi cho
tất cả mọi người như nhau". Đó cũng là ý chí của trời. Mặc Tử viết: "Người nhân nghĩa
sở dĩ làm việc tốt để hưng cái lợi của thiên hạ, trừ khử cái hại của thiên hạ". Trong
thiên Canh trụ, ông cũng nhấn mạnh: "Ngày nay dùng nghĩa làm chính trị ở quốc gia
thì dân tất đông lên, hành chính tất được sửa trị, xã tắc tất được yên ổn. Người ta quý
vật báu của tốt là vì nó có thể làm lợi cho dân. Mà nghĩa có thể làm lợi cho mọi người
nên nói rằng nghĩa là vật tốt, của báu trong thiên hạ vậy".
1.3.3. Phép tam biểu của Mặc Tử

Trong xã hội "kiêm" và "biệt", "ái" và "ố" là hai nguyên tắc, hai thái độ sống hoàn
toàn đối lập nhau. Mặc Tử chủ trương "biệt" nói rằng: "Ta há có thể vì thân ta như thân
bạn ta, coi đấng thân bạn ta như đấng thân ta? Và rồi kẻ đó thấy bạn đói không cho ăn,
rét không cho mặc, ốm đau không thăm nuôi, chết không chôn cất". Ông chủ trương
"kiêm" thì trái lại, nói rằng: "Ta nghe làm kẻ sĩ ở thiên hạ ắt vì thân bạn như thân mình,
vì đấng thân bạn như đấng thân mình, như thế mới là cao sĩ. Và rồi kẻ đó thấy bạn đói
thì cho ăn, rét thì cho mặc, ốm đau thì chăm sóc, chết thì chôn cất…".

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 10


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

Để biết, phân biệt được nguyên tắc nào đúng, nguyên tắc nào sai. Mặc tử đã đưa ra
phép "tam biểu" làm quy tắc, chuẩn mực để xác định đúng sai, lợi hại của "kiêm" và
"biệt".
Với phép "tam biểu", Mặc Tử đã có sự đóng góp lớn trong việc phát triển lý luận về

nhận thức ở Trung Quốc cổ đại.
Theo Mặc Tử "tam biệt" là: "Nói phải dựng mẫu. Nói không có mẫu ví như ở trên bàn
xoay mà nói sớm tối, phải trái, lợi hại khác nhau thế nào không thể biết được. Cho nên
khi nói ắt phải có tam biểu – ngôn tất lập nghi … Cố ngôn tất hữu tam biểu". Nói một
cách khái quát "biểu" chính là khuôn mẫu, phép tắc, chuẩn mực để người ta suy nghĩ
và hành động.
Như vậy, tam biểu chính là quy tắc hướng dẫn nhận thức và hành động của con
người. Để nhận thức, phân biệt phải trái, lợi hại người ta trước tiên phải lấy chí trời quỷ
và việc làm của thánh vương xưa làm gốc.
Theo tam biểu và lấy lợi ích chung làm tiêu chuẩn để thẩm định mọi giá trị đúng
sai, tốt xấu, lợi hại, Mặc Tử đã đi đến khẳng định "kiêm" là phải, là tốt vì nó mang lại
lợi ích lơn cho dân cho nước, "biệt" là trái, là xấu và mang lại điều hại lớn cho thiên hạ.
1.3.4. Lý giải của Mặc Tử về ý nghĩa, công dụng và lợi ích của học thuyết "Kim ái"

Theo Mặc Tử chỉ có học thuyết "kiêm ái" của ông mới là phương pháp tốt nhất để
cứu xã hội Trung Quốc đương thời khỏi cảnh phân tranh, loạn lạc, cứu nhân dân lao
động ra khỏi cảnh chết chóc, đói khổ. Ông nói: "Thầy thuốc chữa bệnh người ta phải
biết bệnh ở đâu mà ra thì mới chữa được. Những kẻ chữa loạn sao không làm như thế?
Thánh nhân làm việc cai trị thiên hạ không thể không xét xem loạn ở đâu mà ra. Thử
xét xem loạn ở đâu mà ra? Ở chỗ không biết thương yêu nhau mà ra".
Yêu thương, làm lợi cho cả thiên hạ lý tưởng mà "kiêm ái" vạch ra có ý nghĩa và
công dụng to lớn, nhưng liệu nó có thực hành được trong cái xã hội tranh đoạt khốc liệt
từng ngày "đánh nhau giành đất thây chết đầy đất, đánh nhau giành thành thây chất đầy
thành". Trong xã hội thời bấy giờ, người đời bảo rằng khó thực hiện lắm, chẳng khác
nào như xách núi Thái Sơn nhảy qua sông Hoàng Hà, sông Tế. Mặc Tử lý giải rằng:
"Nâng núi Thái Sơn vượt Hoàng Hà, Tế Thủy phải mất bao nhiêu là sức lực! Xưa nay
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 11



Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

chưa ai làm nổi! Việc yêu thương giúp đỡ lẫn nhau hoàn toàn khác cái đó. Tứ vị thánh
nhân xưa như Hạ Vũ, Thang Thương, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương đều đã từng
làm, cho nên yêu thương giúp đỡ lẫn nhau không phải là không làm được". Ví như vua
Vũ nhà Hạ tự thân cầm sọt, cuốc, dẫn dân chúng đi chống lũ, khai thông sông ngòi.
Ông đã vượt trăm sông nghìn núi, mưa gió dầm dề, gió thổi dựng tóc, đi đến mức teo
hết các cơ đùi, lông chân trơ trụi hết. Hoặc như Thang vương khấn cầu Thượng đế
miễn trừ tai họa cho chúng sinh, xin nhận hết tội lỗi về thân mình…
Theo Mặc Tử, thực hành "kiêm ái" không có gì khó cả, vấn đề là ở chỗ các bậc trên,
bậc quân vương có muốn, có thích hay không. Ông nói: "Ngay cả đánh nhau giành
thành, tự giết mình để giữ danh tiếng, đó là việc làm trăm họ đều cho là khó nhưng khi
vua đã muốn thì bề tôi vẫn làm được, huống hồ thương yêu nhau, làm lợi cho nhau
chẳng giống đánh thành, giết mình. Yêu người thì người yêu lại mình. Làm lợi cho
người thì người làm lợi cho mình. Cái đó đâu có khó. Chỉ vì các bậc bề trên không
muốn đưa nó thành việc chính sự, kẻ sĩ không muốn đưa nó thành một đức hạnh nên
mới không thực hiện được mà thôi". Ở đây, theo Mặc Tử, "kiêm ái" phải trở thành đạo
lý trước hết của bậc thánh nhân, vì nó quyết định đến trị hay loạn của thiên hạ. Đây là
tư tưởng rất hay của Mặc Tử, thông qua các bậc quân vương, mượn chính trị làm
phương tiện để truyền bá và thực hành "kiêm ái". Với ông vua càng nhân từ thì tôi càng
trung và ngược lại, cha càng hiền thì con càng hiếu và ngược lại, con người càng yêu
thương nhau thì hiềm thù, tranh đoạt nhau và hậu quả của nó càng bị loại bỏ.

1.4.

Nội dung tư tưởng Thượng hiền của Mặc Tử


1.4.1.

Định nghĩa Thượng hiền
Mặc Tử chủ trương "kiêm ái", cho nên ông phản đối mọi chế độ gia tộc và chính trị
quý tộc. Ông đã đề ra thuyết "Thượng hiền". Theo Hồ Thích, Thượng Hiền được định
nghĩa là: "Kim vương công đại nhân hữu nhất thường bất năng chế dã, tất tịch lương
công, hữu nhất ngưu dương bất năng sát dã, tất tịch lương tể… đải chí kỳ quốc gia chi
loạn, xã tắc chi nguy, tắc bất tri năng dĩ thị chi. Thân thích, tắt sử chi. vô cố phú quý,
diệm mục giao hảo tác sử chi". Có nghĩa là: Nay các đấng vương công đại nhân có cái
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 12


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

quần không thể may được ắt tìm người thợ may khéo. Có một con trâu, con dê không
giết được ắt tìm tên đồ tể giỏi… kịp đến lúc quốc gia có loạn, xã tắc lâm nguy ắt không
biết dùng kẻ có tài để trị vậy. Hể là người trong thân thuộc ắt dùng, vô cố phú quý, mặt
mũi xinh đẹp ắt dùng vậy. Thượng có nghĩa là đưa lên, tuyển chọn, quý trọng. Hiền có
nghĩa là người hiền tài và nhân đức, đủ sức để gánh vác trách nhiệm được giao phó
một cách tốt đẹp nhất. Thượng Hiền là chọn lựa và sử dụng những người hiền tài,
nhân đức bất kể họ ở địa vị nào trong xã hội để tôn lên chịu trọng trách chăn dân trị
nước. Quan không quý đời đời mà dân không tiện mãi mãi, ai có tài thì đề cử họ, ai
không có tài thì hạ họ xuống. Chọn người cốt ở cái tài và cái đức, người đó có thể làm
tốt việc hay không chứ không cần họ phải con nhà quý tộc, mặt mũi xinh đẹp. Vì
những kẻ cốt nhục, phú quý, mặt mũi xinh đẹp đâu có phải là những kẻ thông minh tài
đức cả đâu.


1.4.2.

Tư tưởng của Mặc Tử về Thượng hiền
Mặc tử là người khai sáng ra Mặc Giáo. Với ông, Thượng hiền là tuyển chọn, sử
dụng những người tài đức vào làm việc trong xã hội. Ai có tài thì đề cử họ lên và
không có tài thì hạ họ xuống (Thượng hiền thượng).
Với Thượng hiền trung ông chủ trương tư tưởng: Chọn người hiền tài trong việc trị
nước, không kể người bà con thân thích hay là mặt mũi xinh đẹp, không lấy cái vẻ của
họ làm cái yêu của mình. Không kéo bè cách với cha anh, không thiên vị kẻ giàu sang,
không say mê kẻ nhan sắc, ai hiền thì được nâng nhắc lên cho giàu sang và dùng làm
quan trưởng, kẻ nào bất tài thất đức thì nên bỏ đi, phải chịu nghèo hèn và dùng làm phu
dịch. Kẻ nào đáng làm quan trưởng thì cho làm quan trưởng, kẻ nào đáng trị một ấp thì
cho trị một ấp.
Với Thượng hiền hạ, Mặc Tử chủ trương: Nay các đấng vương công đại nhân có cái
quần không thể may được ắt tìm người thợ may khéo. Có một con trâu, một con dê
không giết được ắt tìm một tên đồ tể giỏi. Có một con ngựa bệnh không thể chữa được
ắt tìm người thầy thuốc giỏi. Có một cây cung không thể giương được ắt tìm người thợ
cung giỏi. Các đấng vương công, đại phu trong lúc đó dẫu có những người cốt nhục,
giàu sang, mặt mũi xinh đẹp, nhưng thật biết họ không làm được các việc trên ắt là
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 13


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

không khiến. Vì họ sợ làm hư hỏng của các đấng vương công đại phu. Các đấng vương

công đại phu với những công việc ấy vẫn không sai cái ý chuộng người hiền tài. Đến
cái việc nhà nước thì lại không thể. Những kẻ cốt nhục phú quý mặt mũi xinh đẹp thì
cất nhắc lên Vậy thì các đấng vương công, đại phu với nhà nước họ coi không bằng
cái cung hỏng, con ngựa bệnh, cái quần, cái áo, con dê, con trâu chăng? Mặt khác, ông
còn chủ trương chế độ cai trị theo dòng dõi huyết thống, không biết trọng dụng người
hiền tài sẽ đem lại nhiều tai họa sâu xa khác với xã hội mà người ta không thể lường
trước được. Thế nên, thưởng mà không nhằm người hiền, phạt không trúng kẻ bạo, kẻ
được thưởng cũng không có cớ, kẻ bị phạt cũng không có tội. Ấy là khiến cho trăm họ
nản lòng, nhác thể, chán làm điều thiện, để không có cái sức chân tay mà không giúp
đỡ lẫn nhau, để hư mục của thừa mà không chịu giúp đỡ lẫn nhau, giấu giếm điều
hay mà không dạy bảo cho nhau. Vì thế, Thượng Hiền được Mặc Tử xem như cái nền
của chính trị. Đất nước sở dĩ rối loạn là do không có chính trưởng mà ra, mỗi người
mỗi ý. Cho nên phải kén lấy người hiền khá trong thiên hạ để lập làm thiên tử… lại kén
chọn lấy người hiền khá trong thiên hạ lập nên để làm tam công. Thiên tử và tam công
đã lập rồi cho là thiên hạ rộng lớn, dân của nước xa đất lạ, phải trái, lợi hại khác nhau
không thể một hai mà biết rõ, mới vạch ra muôn nước, lập các quốc dân chư hầu… lại
kén chọn lấy người hiền khá trong nước lập nên làm chính trưởng.
Tóm lại, với chủ trương một thứ "chính trị hiền nhân" ông đã khiến cho mọi người
"thượng đồng nhi bất hạ tỵ" đất nước ngày mỗi sung mãn hơn, thành phần trí thức, hiền
tài được trong dụng trong những công việc lớn của đất nước. Xóa bỏ chế độ chính trị
cha truyền con nối của phong kiến trước kia. Đào tạo và tuyển chọn những người hiền
tài để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
1.5. Những giá trị tích cực và hạn chế trong triết học Mặc Tử
1.5.1. Giá trị tích cực

Có thể nói , "kiêm ái" là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả cuộc đời và tư tưởng của Mặc Tử.
Chính nó đã đem lại sự nổi tiếng cho bản thân Mặc Tử và học phái Mặc gia, đến Mạnh
Tử cũng phải thốt lên: "Ngày nay những kẻ nói đạo trong thiên hạ chẳng theo về với họ
Dương thì cũng theo về với họ Mặc… Thuyết của họ Dương và họ Mặc mà không tắt
HVTH: Trần Xuân Hoàng


Trang 14


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

thì đạo của Khổng Tử chẳng được sáng tỏ". Hàn Phi Tử, đại diện xuất sắc của Pháp gia
nhận định: "Những học giả nổi tiếng trên đời, thì có bọn Nho và bọn Mặc. Bọn Nho
cao nhất là Khổng Khâu, bọn Mặc cao nhất là Mặc Địch". Đội ngũ học trò của Mặc Tử
có đức hạnh và lòng quả cảm, sẵn sàng nhảy vào lửa, đạp chân lên lưỡi dao, chết mà
không quay gót, xả thân vì nghĩa. Để có được những thành công này là nhờ chủ thuyết
"kiêm ái" đã mang trong mình những giá trị nhân bản sâu sắc, mang hoài vọng của
đông đảo nhân dân tầng lớp dưới của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. "Kiêm ái" đã lấy
tình yêu thương để thức tỉnh lương tri, xoa dịu lòng người, phản đối bạo lực phi nghĩa,
tranh đoạt nhau tàn khốc.
1.5.2. Mặt hạn chế

Tất nhiên, cả Trung Hoa cổ đại và nhân loại ngày nay đều cần đến Mặc gia, đặc biệt
là học thuyết "kiêm ái", nhưng xét toàn cục trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc thì vị
thế Mặc gia không quá nổi trội. Nguyên nhân là do học thuyết "kiêm ái" mang tính phi
giai cấp, không thiết thực, không tưởng. Khi xã hội đã từ công hữu sang tư hữu, có sự
phân hóa thứ bậc quý-tiện, sang-hèn, của cải và quyền lực dồn vào tay một thiểu số
người là không thể nào cản được, thì làm sao có thể thực hành "kiêm ái", làm sao bậc
vương công, quý tộc có thể quý trọng, yêu thương đám tiện dân như chính bản thân
mình được.
Trong quá trình nhận thức, việc tổng kết, khái quát và kế thừa những kinh nghiệm
của các thế hệ đã qua là điều hết sức quan trọng. Nhưng ở đây, để biện luận cho học
thuyết "kiêm ái" của mình, Mặc Tử đã đề cao những chuẩn mực ở "chí trời quỷ" và

"việc làm của thánh vương xưa", nên ông đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Chính điều đó
đã làm hạn chế tính sáng tạo của nhận thức và làm giảm đi ý nghĩa tích cực trong học
thuyết "kiêm ái" của ông. Với quan điểm này thì Mặc Tử cũng vẫn không vượt qua
được những thiếu sót mà các trường phái triết học đương thời mắc phải.
Khi quan niệm về sự đúng đắn của tri thức và hành động của con người, Mặc Tử
căn cứ vào những chuẩn mực "tai mắt trăm họ và việc làm hành chính" của các bậc vua
chúa. Ông đã có ý tưởng cố gắng đưa kết quả của nhận thức vào thi hành, kiểm nghiệm
trong đời sống hiện thực, đem lại lợi ích trăm họ. Đó là đóng góp quý báu của ông
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 15


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

trong việc gắn nhận thức với thực tiễn. Tuy nhiên, do sự hạn chế của điều kiện lịch sử,
quan điểm về thực tiễn của ông vẫn còn hạn hẹp. Nó chủ yếu vẫn mang tính trực quan
và nặng về chủ nghĩa kinh nghiệm.
Tư tưởng duy vật thô sơ và chủ nghĩa kinh nghiệm là đặc tính trong học thuyết về
nhận thức của Mặc Tử. Vì quá coi trọng tác dụng của kinh nghiệm cảm quan và các
bằng cứ khách quan: "Cái gì lỗ tai, con mắt không cảm thấy là không có" nên học
thuyết của ông có những yếu tố duy vật chủ nghĩa. Nhưng vì ông coi thường tính khách
quan của nội dung kinh nghiệm cảm giác, cho rằng ức tưởng và ảo giác của con người
cũng là cảm giác đúng đắn và lấy đó làm bằng cứ chứng minh cho việc có quỷ thần,
nên triết học của ông lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm thần bí.
Không chỉ có vậy, do "kiêm ái" cũng như Mặc học không dung nạp và bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị, nên trong suốt thời kỳ chuyên chế, chúng luôn bị cấm đoán,
bài xích; bị cho là "quái dị", " phi thánh vô pháp"… Ngay cả "kiêm ái" cũng bị xem là

tội trạng lớn, tội bất trung, bất hiếu. Ngay Mạnh Tử với phong thái tao nhã, dung dị,
song cũng cho rằng: "Dương Chu, Mặc Địch ăn nói bừa bãi, thiên hạ thường nghe theo
Dương Chu hoặc Mặc Địch, thuyết vị ngã của Dương Chu còn biết đến quân vương,
thuyết kiêm ái của Mặc Địch không còn biết đến thân phụ nữa, kẻ vô quân vô phụ
chính là cầm thú vậy". Sự thật, trong chế độ phong kiến chuyên chế, Mặc đạo luôn bị
phỉ báng là tà đạo, Mặc tặc hoặc Mặc phỉ. Đó có lẽ là nguyên nhân chính khiến cho
Mặc gia sớm bị lu mờ và đi vào quên lãng.

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 16


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TRIẾT HỌC MẶC GIA ĐỐI VỚI XÃ HỘI
NGÀY NAY
2.1. Giá trị của học thuyết "kiêm ái" đối với xã hội Việt Nam

Kiêm ái, tình yêu thương giữa con người, đồng loại với nhau là một chân lý trường
tồn trong xã hội. Tình yêu thương con người chính là gốc rễ của đức và đức lấy đó làm
kế sách lâu dài để cảm hóa lòng người, thâu phục nhân tâm, hóa giải hận thù tranh đoạt
nhau. Đó chính là ý nghĩa nhân bản và tiến bộ của học thuyết "kiêm ái".
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu lớn, mặt
trái của kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức
xã hội, gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như sự hình thành và phát triển
các chuẩn mực đạo đực mới xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang
hướng đến. Theo tôi, thuyết "kiêm ái" của Mặc Tử có những giá trị nhất định có thể

góp phần vào việc khắc phục mặt trái về đạo đức xã hội của nền kinh tế thị trường. Bởi
vì nó có những giá trị gần gũi với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta,
như tinh thần tương thân, tương ái, vị tha, khoan dung,…
"Kiêm ái" cũng có nghĩa là nhân nghĩa. Với dân tộc ta, nhân nghĩa đã trở thành
truyền thống đạo lý cao thượng. Đặc biệt, tinh thần đại nghĩa của dân tộc ta đã khiến
cho bạn bè năm châu kính phục, cảm hóa được những kẻ thù hung ác nhất, giúp ăn năn
hối lỗi, cải tà quy chánh những người lầm đường lạc lối. Rõ ràng, từ lòng vị tha, khoan
dung trong cư xử của mỗi con người Việt Nam đến chính sách khoan hồng của Đảng ta
đều ẩn chứa nội dung của "kiêm ái".
"Kiêm ái" với giá trị nhân nghĩa của nó còn có ý nghĩa lớn trong bối cảnh phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Không thể phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa một cách bền vững nếu nó không được đặt trên cái gốc của đạo
đức, của nhân nghĩa.
Phát triển kinh tế bền vững phải gắn liền với tiến bộ xã hội, văn minh cho con
người và cho cả nhân loại, chứ không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá, bất chấp tất
cả, đánh đổi cả nhân nghĩa, tình yêu thương con người. Phát triển phải mang ý nghĩa

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 17


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

nhân văn, đó mới là ý nghĩa tiến bộ, cao cả của nó, phát triển vì sự phát triển của con
người và của nhân loại.
"Kiêm ái" không chỉ gắn liền với vấn đề nhân nghĩa, mà còn gắn liền với vấn đề lợi,
công lợi. Nội dung này của học thuyết "kiêm ái" cũng có những giá trị nhất định đối

với sự phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Nguy cơ tụt hậu về kinh tế đối với nước ta là rất lớn, nên thoát nghèo là một trong
những mục tiêu hàng đầu của công cuộc cách mạng ở nước ta hiện nay. Nếu không
hướng đến cái lợi, không vươn lên làm giàu về kinh tế để sánh vai với các cường quốc
năm châu, thì Việt Nam sẽ khó có được sự bình đẳng, khó giữ được độc lập, tự chủ
trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, cái lợi mà mỗi
chủ thể kinh tế thị trường quan tâm hướng đến là tư lợi, lợi ích cá nhân và do đó nhiều
khi nó mâu thuẫn và đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích quốc tế. Đó không phải cái lợi
mang nội dung "kiêm ái", càng không phải là cái lợi mang ý nghĩa phổ quát trong mục
tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.2. Giá trị của tư tưởng thượng hiền đối với xã hội
2.2.1. Sự ảnh hưởng tư tưởng Thượng Hiền đối với xã hội
2.2.1.1. Đối với xã hội ngày xưa

Trong xã hội ngày xưa, chính sách và tư tưởng Thượng Hiền của Mặc Tử được
xuất phát từ thời tiền Tần. Từ khi tư tưởng này được hình thành và được Mặc Tử chu
du khắp nơi để thuyết giảng. Một chính sách chính trị mới được ra đời, đó là tuyển
chọn người hiền tài để đưa vào bộ máy nhà nước. Chính sách này đã được các bậc vua
chúa và các quan đại thần áp dụng triệt để trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Đất nước trong thời chiến tranh thì các vua cần những binh hùng tướng mạnh,
những nhà quân sư lỗi lạc để giúp vua đánh thắng mọi quân giặc. Với những vị hiền tài
này thì rất hiếm nên có khi những vị quân vương phải đích thân đến để mời họ tham dự
triều chính cùng mình, hay là tìm nhiều cách để những người hiền phải về với mình.
Như trong thời Tống có Nhạc Phi tướng quân là một vị tướng tài giỏi và được vua nhà
Tống trọng dụng và cho làm chỉ huy toàn bộ quân đội nhà Tống. Thời nhà Minh vua
Chu Nguyên Chương phải hai ba lần cầu sinh Lưu Bá Ôn ở lại giúp mình trị quốc, sau
không được phải nhờ đến vợ của mình cầu xin giúp, như Lý Thuyền Trượng cũng được
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 18



Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

nhà vua trọng dụng và cho làm tướng quốc. các tướng như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân
cũng được nhà vua trọng dụng và phong cho làm vương…
Đối với Việt Nam thời xưa thì vua nhà Lý trọng dụng các thiền sư như Vạn Hạnh,
Khuông Việt hay là tướng tài số một là Lý Thường Kiệt vào việc trị quốc. xây dựng
trường Quốc Tử Giám đào tạo người ra làm quan. nhà Trần thì trọng dụng các tướng
như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản… làm chủ tướng để đánh giặc Nguyên. Mở các
cuộc thi để tuyển dụng nhân tài vào bộ máy nhà nước. Hay là sử dụng những tư tưởng
của các vị thiền sư vào việc cai trị đất nước… cho đến trong những cuộc chiến tranh
kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Các vị lãnh đạo đã tôn Bác Hồ lên làm chủ tịch, lãnh
đạo đất nước trong hai cuộc chiến tranh. Hồ Chủ Tịch đã tuyển chọn những tướng tài
như: Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười giữ những chức vụ quan trọng trong
giới lãnh đạo kháng chiến. Trong các thời đại xưa cũng như nay. Nhờ chính sách
Thượng Hiền mà các vị lãnh đạo đã đạt được thành công rực rỡ và để lại tiếng thơm
muôn đời cho lịch sử dân tộc. Đánh đuổi được giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi, xây
dựng đất nước ngày một giàu mạnh và phát triển. Dù đất nước đứng ở vị trí nào các
nhà lãnh đạo cũng luôn đề cao việc tuyển chọn nhân tài vào công việc quan trọng để
tạo được những thành quả tốt đẹp, Để phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước.
2.2.1.2. Đối với xã hội ngày nay

Trong xã hội ngày nay, cho dù không còn chiến tranh, loạn lạc như ngày xưa .
Nhưng việc tuyển dụng nhân tài cũng không kém phần quan trọng. Nhà nước đã chủ
trương lấy việc giáo dục làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước. Hằng năm, các
cuộc thi vào đại học được mở ra để tuyển chọn những người đủ khả năng và trình độ

vào những công việc thích hợp để góp một phần xây dựng và phát triển đất nước.
Trong mọi lĩnh vực của xã hội, những người có tài thường được đề cao và đưa lên nắm
giữ những chức vị quan trọng. Người có tài về quân sự thì tuyển chọn vào quân sự,
người giỏi kinh doanh thì tuyển chọn vào lĩnh vực kinh doanh buôn bán, người có kiến
thức và học vị thì tuyển chọn vào làm giáo viên để truyền đạt kiến thức cho hậu thế.

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 19


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

Những người giỏi hơn thì tuyển chọn họ vào những công trình nghiên cứu để sáng tạo
ra những sản phẩm giá trị để lại cho đời.
Tóm lại, mỗi người mỗi việc. Tùy theo khả năng và năng lực của họ để mà tuyển
chọn vào những công việc thích hợp, có như vậy họ mới phát huy hết khả năng của họ.
Nhờ vào tài năng của họ công việc sẽ được tiến hành một cách thuận lợi và đạt được
những kết quả tốt đẹp như mong muốn. Thế nên, trong xã hội ngày nay. Tuy là chính
sách Thượng Hiền của Mặc Tử đã trãi qua gần 2000 năm lịch sử, nhưng tư tưởng
Thượng Hiền đã ăn sâu vào trong từng thời đại và trong tư tưởng của mỗi con người.
Bất cứ thời đại nào, xưa cũng như nay chính sách Thượng Hiền cũng đước lấy làm đầu
để phát triển và xây dựng đất nước, con người trong mọi thời đại. Đặc biệt là thời đại
đất nước ta trong giai đoạn đang phát triển này, cần có một lực lượng nhân tài thật lớn
để phát triển đất nước trong mọi lĩnh vực, đủ khả năng để sánh vai với các đất nước
khác trên thế giới.
Nói đến sự thành tựu nổi bật nhất của các nước trên thế giới, ta có thể kể đến nước
Mỹ. Tuy là một nước chỉ mới hình thành không quá 300 năm. Chỉ sau 100 năm hình

thành nước Mỹ đã trở thành một cường quốc phát triển đứng hạng nhất thế giới, kỹ
thuật, khoa học, trình độ văn minh… đều thành tựu một cách rực rỡ. Đó là nhờ việc họ
tiếp thu những cái hay của dân tộc khác, họ biết thu hút và tuyển chọn những nhân tài
từ các đất nước khác để làm giàu nhân tài cho đất nước họ. với một lực lượng nhân tài
đầy đủ thì mọi lĩnh vực sẽ từ đó mà ngày càng được hoàn thiện hơn và phát triển mạnh
hơn. Từ những sản phẩm uy tín và chất lượng. Họ đã bán ra khắp nơi trên thế giới, rồi
thu về một lợi nhuận khổng lồ làm giàu cho tài chính của đất nước. Từ đó, đất nước
mới phát triển một cách rực rỡ như vậy. Ngoài nước Mỹ còn một nước điển hình nữa là
Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Nước Nhật chỉ còn là một đất nước
hoang tàn sơ xác. kinh tế, chính trị, khoa học kỉ thuật lâm vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng. Vậy mà chỉ mấy chục năm sau. Nhận Bản đã khắc phục những hậu quả
trong chiến tranh và vươn lên đứng hạng nhì thế giới sau nước Mỹ. Có thể nói về khoa
học kỉ thuật của Nhật Bản là đứng bật nhất của thế giới. Mọi sản phẩm của Nhật đều
được mọi người dân ưa chuộng. Vì nó chất lượng và bền bỉ. Có được thành quả như
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 20


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

vậy là nhờ người Nhật Bản cần cù, siêng năng, chịu khó. Họ là những người yêu nước
nên mỗi người dân đều có ý thức xây dựng đất nước. Những người tài năng họ đều ở
lại đất nước để tham gia xây dựng lại đất nước, những người Nhật Bản ở các nước
ngoài cũng trở về để góp phần xây dựng đất nước. Với một lực lượng nhân tài lớn như
vậy. Họ đã trọng dụng mọi nhân tài vào những công cuộc thích hợp. Từ đó đất nước
dần dần thoát khỏi khủng hoảng và phát triển một cách mạnh mẽ. Cho nên, bất cứ một
nước nào cần phát triển cũng phải có nhân tài, chọn nhân tài vào những việc thích hợp

để xây dựng đất nước. Thế nên, tư tưởng Thượng Hiền của Mặc Tử luôn được áp dụng
trong mọi thời đại và là nền tảng hàng đầu để xây dựng một đoàn thể, một đất nước
giàu mạnh, phát triển.
2.2.2. Tác dụng, giá trị của Thượng Hiền đối với xã hội ngày nay

Đất nước Trung Quốc, với chính sách đổi mới, họ đã biết áp dụng khoa học kỹ
thuật vào trong công cuộc xây dựng đất nước, biết trân trọng những nhân tài vốn có để
đưa vào bộ máy nhà nước. Vì thế nên ngày này Trung Quốc đã trở thành một cường
quốc nổi tiếng của thế giới. Còn như đất nước Việt Nam mình, sở dĩ đến ngày nay vẫn
không phát triển mạnh là vì không biết đào tạo và bồi dưỡng nhân tài một cách triệt để.
Một số lượng nhân tài giỏi đã đi ra nước ngoài làm việc. Đây gọi là hiện tượng chảy
máu chất xám. Mặt khác, sau khi giành độc lập, đất nước ta vẫn không thay đổi chế độ
xã hội bao cấp, không chịu tiếp thu những tư tưởng mới lạ để xây dựng đất nước. Bảo
thủ và cố chấp theo đường lối chính trị của Liên Xô cũ. Từ đó dẫn đến đất nước trong
hơn mười năm với tình hình kinh tế đình trệ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Đến
năm 1986, khi Nguyễn Văn Linh lên nắm chính quyền và thực hiện chế độ đổi mới,
đưa đất nước hòa nhập vào xu thế của thế giới, giao lưu buôn bán, hội nhập vào các tổ
chức kinh tế chính trị của thế giới. Từ đó đã đưa đất nước dần dần tiến lên. Và chỉ
trong hơn hai mươi năm đã đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế và
bước vào con đường hội nhập và phát triển của thế giới. Tất cả đều là nhờ sự lãnh đạo
tài tình sáng suốt của các cấp lãnh đạo. Cũng như trong chiến tranh dưới sự lãnh đạo tài
tình và sáng suốt của chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa đất nước chiến thắng được hai
HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 21


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc


cường quốc của thế giới. Bảo vệ được thành quả mà cha ông ta để lại, tạo nên những
trang sử sáng ngời trên đất nước Việt Nam.
Nên, Thượng Hiền đối với xã hội đang trong chiến tranh sẽ làm cho đất nước đó có
những nhân tài kiệt xuất lãnh đạo đưa ra những chính sách, mưu lược để giúp nhân dân
kháng chiến và giành độc lập, giử được giang sơn bờ cõi của đất nước. Còn đối với
thời bình. Tính chất Thượng Hiền cũng không kém phần quan trọng. Khi hòa bình thì
phải xây dựng đất nước. Mà những người không tài năng thì không thể lãnh đạo có
hiệu quả được. Nên cũng cần có nhân tài để đưa họ vào trong công cuộc xây dựng đất
nước. Nếu muốn đất nước mau phát triển và giàu mạnh thì đất nước đó cần phải có
nhiều nhân tài. Không những vậy mà còn đào tạo bồi dưỡng những nhân tài đó, cho ra
nước ngoài học tập… để đem kinh nghiệm về phục vụ, xây dựng đất nước. Nhằm đổi
mới và hoàn thiện đường lối chính sách sao cho có khả năng thúc đẩy sự phát triển của
xã hội về kinh tế lẫn chính trị, phản ánh được nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp
nhân dân. Mặt khác, lựa chọn những cán bộ ưu tú, thực sự có công tâm, vì dân vì nước,
có năng lực, loại bỏ những phần tử lợi dụng chức quyền cho cá nhân và gia đình mình,
làm cho đội ngũ cán bộ đương chức trong sạch và vững vàng. Tạo nên một Đất nước
giàu mạnh, hết lòng vì dân vì nước. Thế nên tuy là nhân tài cần được trọng dụng nhưng
mà cần phải thanh lọc cho được trong sạch, có vậy thì đất nước mới phát triển một
cách toàn vẹn và hiệu quả được.
Với sự tuyển chọn người tài đức vào trong vai trò lãnh đạo của mọi lĩnh vực của đất
nước thì sẽ tạo nên một đất nước giàu mạnh. Kinh tế mà có Thượng Hiền thì nền kinh
tế sẽ ngày một phát triển. Chính trị mà có Thượng Hiền thì quân đội ngày một hùng
mạnh, tạo nên một nền chính trị vững vàng, kiên cố. Văn hóa có Thượng Hiền thì nền
văn hóa sẽ được phát triển phong phú, ngày một nâng cao. Giáo dục mà có Thượng
Hiền thì hệ thống giáo dục sẽ được đổi mới, việc đào tạo nhân tài ngày sẽ một hoàn
hảo và có hệ thống hơn. Chính sách giáo dục sẽ được phát triển rộng rãi từ thành thị
cho đến thôn quê…Thế nên, muốn đất nước phát triển không thể không có chính sách
Thượng Hiền của Mặc Tử. Một chính sách có giá trị vượt thời gian và là tư tưởng hàng
đầu của để xây dựng một tổ chức, một xã hội, một đất nước tốt đẹp và hoàn mỹ.

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 22


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc
KẾT LUẬN

Khi tìm hiểu toàn bộ hệ thống triết học Mặc gia trong một số học thuyết triết học
tiểu biểu Trung Hoa cổ đại, ta có thể thấy, vấn đề được các triết gia quan tâm nhất, tập
trung nhất là vấn đề thuộc về con người. Tuy, nó có sự khác nhau về tính chất, nhưng
tư tưởng chủ đạo xuyên suốt từ đầu đến cuối thể hiện rõ ràng con người luôn luôn là
trung tâm của xã hội và vũ trụ.
Mặc Tử là một trong những nhà triết học lớn thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Tư
tưởng của ông là tiếng nói đại diện cho tầng lớp tiểu tư hữu và tầng lớp bình dân trong
xã hội ở thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ suy tàn và chế độ phong kiến đang lên. Trong
triết học của ông, về căn bản tuy bị chi phối bởi chủ nghĩa duy tâm và mang tính chất
ảo tưởng, nhưng những quan điểm đặc sắc của ông về lý luận nhận thức trong phép
"tam biểu", tư tưởng "thượng hiền" và chủ nghĩa "kiêm ái" vị tha, chống chiến tranh
xâm lược, đòi tự do bình đẳng bác ái có tính chất nguyên sơ, chủ trương cải cách xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân lao động… là những đóng góp quý giá của Mặc Tử
vào kho tàng lý luận hết sức phong phú của nhân dân Trung Hoa thời cổ đại.
Với tinh thần khách quan khoa học, chúng ta cần phải suy nghĩ sâu sắc hơn để khai
thác những giá trị của Mặc gia trong cuộc sống hội nhập quốc tế. Ở đây, chúng ta phải
xử lý tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa quá khứ - hiện tại - tương lai.
Truyền thống là cơ sở của hiện đại và hiện đại không xoá sạch truyền thống; đồng thời
cái truyền thống chỉ tồn tại khi nó được chọn lọc, kế thừa, phát huy thông qua cái hiện
tại.

Trong quá trình hội nhập, chúng ta đang phải đối mặt với một thực tế đó là những
giá trị tốt đẹp của dân tộc đang có nguy cơ mai một dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc
văn hoá. Chính vì vậy, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta cần phải
chọn lọc, kế thừa và phát huy những giá trị nhân sinh truyền thống của dân tộc nói
chung của Mặc gia nói riêng làm vốn trong thời kỳ hội nhập.

HVTH: Trần Xuân Hoàng

Trang 23


Tiểu luận môn Triết học

GVHD: TS. Nguyễn Anh Quốc

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PTS. Doãn Chính, PTS. Trương Văn Chung, PTS .Vũ Tình, PTS. Nguyễn Thế

Nghĩa (2003), Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại, Nxb. Thanh
niên, Hà Nội.
2. PGS. TS. Doãn Chính (chủ biên), PGS. TS. Trương Văn Chung, PGS. TS.
Nguyễn Thế Nghĩa, PGS. TS. Vũ Tình (2004), Đại cương lịch sử triết học
Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2001), Lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.
4. Phùng Hữu Lan (bản dịch Nguyễn Văn Dương) (1999), Đại cương triết học sử
Trung Quốc, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

HVTH: Trần Xuân Hoàng


Trang 24



×