Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

“LÝ THUYẾT VỀ VÙNG PHÁT TRIỂN GẦN CỦA L.X.VƯGÔTXKI”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.27 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
..........
TIỂU LUẬN
LÍ LUẬN DẠY HỌC HIỆN ĐẠI

ĐỀ TÀI:
“LÝ THUYẾT VỀ VÙNG PHÁT TRIỂN GẦN CỦA
L.X.VƯGÔTXKI”

Giảng viên giảng dạy: PGS.TS Lê Văn Giáo
Lớp: Lý luận và Phương pháp dạy học Vật Lý
Khóa: XXIII

Huế 5/2015


PHỤ LỤC


MỞĐẦU
Ngày nay lí luận dạy học không thể nào tự thỏa mãn với lĩnh vực tri thức và kĩ
xảo của học sinh, dù cho lĩnh vực ấy quan trọng đến mấy đi nữa. Cần phải nghiên
cứu thành tựu của khoa học tâm lí và giáo dục để xây dựng quá trình dạy học nhằm
đem lại kết quả tối ưu trong việc phát triển trí tuệ của học sinh.
Muốn làm cho học sinh phát triển về trí tuệ, không thể không nghiên cứu tâm lí
học. Không có cơ sở tâm lí trước hết không thể xác định rõ vị trí của dạy học đối
với sự phát triển trí tuệ của người học sinh. Từ lâu người ta đã hiểu dạy học đã làm
cho học sinh lớn khôn tuy nhiên không có nghĩa là người xưa đã xác định đúng vị
trí của dạy học. Trước kia người ta quan niệm mỗi học sinh ứng với một lứa tuổi và
trình độ xác định thì có trình độ phát triển nhất định. Dạy học chỉ nên tiến hành


đối với học sinh đã có trình độ phát triển đã chín muồi, có sẳn. Ngược lại theo công
trình nghiên cứu của nhà tâm lí học xô viết nổi tiếng L.X. Vưgôtxkithì dạy học có
thể và cần phải tiến hành khi trình độ phát triển trí tuệ của học sinh đang chín muồi
, dạy học phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của người học sinh. L.X.
Vưgôtxkiviết “ dạy học được coi là tốt nếu nó đi trước sự phát triển, kéo theo sự
phát triển” .
Xuất phát từ luận điểm khoa học đó,L.X. Vưgôtxki đã xây dựng thuyết “vùng phát
triển gần nhất” của trẻ em đến nay thuyết đó đã được thừa nhận và vận dụng rất
rộng rãi.


NỘI DUNG
1. Các quan điểm trước Vưgôtxki

Trước Vưgôtxki đã có các quan niệm khác nhau về dạy học:
Quan niệm dạy học đi sau sự phát triển, nghĩa là phải chờ cho người học phát
triển đến mức độ nhất định nào đó mới dạy học (phát triển rất chậm). Theo quan
niệm này, thì người học không tiếp thu thêm kiến thức mới mà chỉ học tập, vận
dụng kiến thức có sẵn để thực hiện một số nhiệm vụ học tập nhất định của GV.
Hành động chủ yếu của HS là thao tác chân tay, kiến thức có sẵn của HS chỉ là
phương tiện để HS thao tác chân tay tốt hơn.
Nhiệm vụ dạy học
Trình độ hiện tại

Dạy học đi song song với sự phát triển, sự phát triển đến đâu thì dạy học đến
đấy (phát triển chậm).
Nhiệm vụ dạy học
Trình độ hiện tại

Những thành tựu tâm lí học hiện đại làm cơ sở cho nghiên cứu lí luận dạy

học. Thế kỷ XX có hai thành tựu rực rỡ nhất:
- Lí thuyết cân bằng của Jean Piaget
- Lí thuyết vùng phát triển gần của Vư-gốt-xki.


2. Lí thuyết vùng phát triển gần của Vưgôtxki
2.1. Tiểu sử của Vưgôtxki
Lép Xê-mi-ôn-vích Vư-gôt-xki sinh ngày 5-11-1896 ở thị trấn Ooc-sa, nước
cộng hòa Liên Bang Nga.
Năm 1913 Vư-gốt-xki thi vào đại học tổng hợp
Mat-xcơ-va. Đúng năm đó, Viện Tâm lý học được
thành lập trong khoa sử-văn, do Su-kin tài trợ và G.I
Tren-pa-nốp làm viện trưởng.
Năm 1924, ông viết ‘Tóm tắt tâm lý học sư
phạm”, “Lý thuyết phản xạ có điều kiện”.

Vưgôtxki (1896 -)
2.2. Quan điểm của Vư-gôt-xki
Vưgôtxki cho rằng dạy học đi trước sự phát triển, kéo theo sự phát triển và
trong qua trình phát triển của trẻ em thường xuyên diễn ra hai mức độ: Trình độ
hiện tai và vùng phát triển gần nhất.
Trình độ hiện tại là trình độ mà ở đó các chức năng tâm lý đã đạt tới mức độ
chin muồi, còn vùng phát triển gần nhất là trong đó mà ở đó các chức năng tâm lý
chưa đạt tới mức độ chin muồi. Trong thực tiễn, trình độ hiện tại biểu hiện qua việc
trẻ em độc lập giải quyết nhiệm vụ, không cần bất cứ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài,
còn vùng phát triển gần nhất được thể hiện trong tình huống trẻ hoàn thành nhiệm
vụ khi có sự hợp tác, giúp đỡ của người lớn, thầy cô, mà nếu tự mình làm nó không
thể thực hiện được. Như vậy, hai mức độ phát triển trẻ em thể hiện hai mức độ chin
muồi của mỗi chức năng tâm lý ở các thời điểm khác nhau. Đồng thời chúng luôn



vân động: vùng phát triển gần nhất hôm nay thì ngày mai sẽ trở thành trình độ hiện
tại và xuất hiện vùng phát triển gần nhất mới.
Vùng phát triển gần là khoảng cách giữa trình độ hiện tại và nhiệm vụ học
tập mà nếu nỗ lực cùng với sự giúp đỡ của thầy cô, học sinh có thể giải quyết được
nhiệm vụ học tập.
(Trình độ hiện tại)
(vùng phát triển gần)

(Trình độ hiện tại mới 1)
(Trình độ hiện tại mới 2)
(Nhiệm vụ học tập 1)
(Nhiệm vụ học tập 2)
Sơ đồ lí thuyết vùng phát triển gần

Trong sự phát triển của học sinh các chức năng tâm lí cấp cao đều xuất hiện
hai lần:
Một là hoạt động tập thể, xã hội như là chức năng tâm lí bên ngoài.
Hai là hoạt động cá thể như là phương thức nội tại của tư duy ở học sinh,
chức năng tâm lí bên trong.


Để đổi mới phương pháp giảng dạy là làm thế nào tạo ra được vùng phát
triển gần, tức là kích thích học sinh hoạt động, thức tỉnh một loạt các quá trình phát
triển nội tại và đưa chúng vào tình huống có vấn đề; các quá trình phát triển nội tại
hiện giờ đang là khả năng chỉ trong phạm vi quan hệ qua lại giữa giáo viên và học
sinh, học sinh và học sinh và các quá trình nội tại trải qua một tiến trình phát triển,
sau đó trở thành thành tựu bên trong của chính học sinh.
Mục đích của dạy học là đem đến sự phát triển toàn diện cho HS. Điều đó
nói lên rằng giữa dạy học và phát triển có mối quan hệ với nhau. Đó là mối quan

hệ hai chiều, biện chứng: Trước hết phát triển là mục đích cuối cùng của hoạt động
dạy học, đồng thời khi tư duy HS phát triển thì việc thu nhận và vận dụng kiến
thức của HS sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn, quá trình dạy học diễn ra một cách
thuận lợi hơn. Nghĩa là sự hoạt động và trí tuệ của con người có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Không có hoạt động thì trí tuệ không thể phát triển tốt được, bởi vì
“Trí tuệ có bản chất hoạt động, không phải cái gì “nhất thành bất biến” trí tuệ được
hình thành dần trong mỗi hoạt động cá nhân”.
Nhìn chung dạy học bằng cách này hay cách khác đều có thể góp phần phát
triển học sinh, nhưng dạy học được coi là đúng đắn nhất nêu nó đem lại sự phát
triển tốt nhất cho người học.
Theo Vư-gốt-xki thì: “Dạy học được coi là tốt nhất nếu nó đi trước sự phát
triển và kéo theo sự phát triển”.
Cơ sở của quan điểm này là lý thuyết “vùng phát triển gần nhất” do ông đề
xướng.
Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng: “Dạy học phải có tác dụng thức đẩy sự phát
triển trí tuệ của người học”. Một mặt trí tuệ của học sinh chỉ có thể phát triển tốt
trong quá trình dạy học khi thầy giáo phát huy tốt vai trò của người tổ chức, điều
khiển làm giảm nhẹ khó khăn cho học sinh trong quá trình nhận thức, biết cách
khuyến khích học sinh tham gia vào hoạt động nhận thức tích cực trong dạy học.


Mặt khác đối với học sinh để phát triển trí tuệ của mình không có cách nào khác là
phải tự mình hành động, hành động một cách tích cực và tự giác. Đó chính là bản
chất của của mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa hoạt động và phát triển.
Thông qua hoạt động trí tuệ học sinh phát triển dần từng bước từ thấp đến
cao. Bởi vậy các biện pháp giáo dục của thầy cũng phải thay đổi cho phù hợp với
từng bậc thang của sự phát triển.
Theo lý thuyết của Vư-gốt-xki thì trình độ ban đầu của học sinh tương ứng
với “vùng phát triển hiện tại”. Trình độ này cho phép học sinh có thể thu được
những kiến thức gần gũi nhất với kiến thức cũ để đạt được trình độ mới cao hơn.

Vư-gốt-xki gọi đó là “vùng phát triển gần nhất”.
Khi học sinh đạt tới vùng phát triển gần nhất nghĩa là các em đang ở “vùng
phát triển hiện tại” nhưng ở trình độ mới cao hơn. Sau đó thầy giáo lại tiếp tục tổ
chức và giúp đỡ học sinh đưa học sinh tới “vùng phát triển gần nhất” mới để sau
đó nó lại trở về “vùng phát triển hiện tại”. Cứ tiếp tục như vậy sự phát triển của
học sinh đi từ nấc thang này đến nấc thang khác cao hơn.
Vư-gôt-xki chỉ ra rằng ở những học sinh khác nhau có vùng phát triển gần
nhất khác nhau, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và năng lực của thầy giáo, đặt
biệt phụ thuộc vào nhiệm vụ học tập trước học sinh thông qua nghệ thuật đưa ra
các “câu hỏi nêu vấn đề” và “các câu hỏi gợi ý”.
Thừa nhận lý thuyết “vùng phát triển gần nhất” của Vưgôtxki cũng có nghĩa
phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Vì thế có thể nói tích cực hoá
hoạt động nhận thức của học sinh là một biện pháp không thể thiếu được trong dạy
học theo quan điểm: “Dạy học là phát triển”.
Bởi một sự gợi ý khéo léo có tính chất gợi mở của giáo viên sẽ có tác dụng
kích thích tính tự lực và tư duy sáng tạo của học sinh, lôi kéo họ chủ động tham gia
vào quá trình dạy học một cách tích cực, tự giác. J. Piaget đã kết luận: “Người ta
không học được gì hết, nếu không phải trải qua sự chiếm lĩnh bằng hoạt động,


rằng học sinh phải phát minh lại khoa học, thay vì nhắc lại những công thức bằng
lời của nó”.
2.3. Quan điểm cơ bản của Vư-gốt-xki về dạy học và phát triển
Sự phát triển tâm lí của con người mang bản chất xã hội, sự phát triển
không chỉ quy vào việc nắm tri thức, kĩ năng và sự phát triển diễn ra trong quá
trình dạy học mà còn đem lại những đặc điểm mới và cấu tạo lại các chức năng
tâm lí.
Đặc điểm nổi bật của tuổi đi học là xuất hiện và phát triển tính ý thức, tính
có chủ định của các quá trình tâm lí đang xuất hiện và phát triển.
Dạy học và giáo dục đi trước sự phát triển; phát triển vừa là kết quả, vừa là

chức năng của dạy học và giáo dục. Dạy học phải hướng vào “vùng phát triển gần
nhất”, hướng vào sự hình thành những cấu tạo tâm lí mới sẽ có ở người học.
Tuy nhiên, một mặt Vư-gốt-xki chỉ rõ giữa dạy học và phát triển có mối
quan hệ chặt chẽ, mặt khác cũng không hề bỏ qua quy luật nội tại của bản thân sự
phát triển tâm lí của học sinh. Các quá trình nội tại của sự phát triển do dạy học sản
sinh ra là lôgic của chúng.
2.4. Bản chất của phương pháp dạy học
Theo Vư-gốt-xki, có hai kiểu dạy học ứng với hai kiểu định hướng khác
nhau:
Dạy học hướng vào khả năng hiện có của học sinh, khả năng này được gọi là
vùng phát triển hiện có (hiện thực) ở mức độ học sinh đã có kiến thức, kĩ năng và
thái độ nhất định.
Dạy học hướng vào vùng phát triển hiện có là dạy học hướng vào kiến thức,
kĩ năng và phương pháp học mà học sinh đã biết, đã có. Kiểu dạy học này không
đem lại cái mới cho học sinh, mà chỉ nhằm củng cố những cái đã có ở học sinh;


không tạo được sự phát triển cho học sinh, mà thậm chí còn làm ức chế, làm thui
chột nhu cầu nhận thức và làm biến dạng động cơ học tập của các em. Việc dạy
trước cho học sinh, nhất là dạy trước cho học sinh chuẩn bị vào lớp 1 là một ví dụ.
Dạy học hướng vào “vùng phát triển gần nhất”. Đó là những vùng kế cận
với vùng phát triển hiện có của học sinh, là những cái mà hiện thời học sinh chưa
biết nhưng các em lại có thể biết được nếu như có sự giúp đỡ của giáo viên.
“Vùng phát triển gần nhất”, theo Vư-gốt-xki là vùng của khả năng phát triển
gần đạt tới, nằm giữa hiện thực và tương lai gần của học sinh, là vùng mà ở đó có
những việc, những nhiệm vụ học tập mà học sinh tự mình chưa thể thực hiện được,
nhưng nếu có sự giúp đỡ của người lớn hoặc của giáo viên thì các em thực hiện
được, và sau đó học sinh sẽ tự thực hiện những việc, những nhiệm vụ tương tự,
nghĩa là vùng phát triển gần nhất này đã chuyển thành vùng hiện thực và xuất hiện
vùng phát triển gần nhất kế tiếp.

Dạy học theo kiểu này là cung cấp cho học sinh tri thức, hình thành kĩ năng
và phương pháp mới, đó là dạy học phát triển (kiểu dạy học nêu ở trên là “dạy học
thiếu sự phát triển”). Dạy học phát triển là dạy học dẫn dắt và kéo theo sự phát
triển của học sinh. Theo quan niệm này thì dạy học là tổ chức quá trình phát triển
của học sinh, dẫn dắt các em đi từ vùng phát triển gần nhất này đến này đến vùng
phát triển gần nhất kế tiếp. Đó chính là mục đích dạy học, là tính quy luật của hoạt
động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Trong quá trình chiếm lĩnh tri thức đó, người học phải xây dựng cho mình hệ
thống hành động trí tuệ phù hợp với chúng. Hệ thống hành động trí tuệ này được
củng cố và khái quát tạo thành những kĩ năng của hoạt động trí tuệ.
Nhờ những kĩ năng này học sinh có khả năng di chuyển rộng rãi và thành
thạo các phương pháp hoạt động trí tuệ từ đối tượng này sang đối tượng khác, nhận
thức và biến đổi chúng.


Khả năng di chuyển rộng rãi và thành thạo các phương pháp hoạt động trí
tuệ đó được xem như là một trong những điều kiện cơ bản của sự phát triển trí
thông minh. Hơn thế nữa, trong quá trình dạy học, những mặt khác của trí thông
minh như: óc quan sát, trí nhớ, óc tưởng tượng,… cũng được phát triển.
Như vậy, dạy học có thể giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển trí thông
minh của học sinh.
Tuy nhiên, để đảm đương được vai trò đó, dạy học phải “đi trước và kéo
theo sự phát triển”. Muốn vậy, dạy học phải hướng vào “vùng phát triển gần
nhất”, hướng vào sự hình thành những cấu tạo tâm lí mới sẽ có ở người học.

KẾT LUẬN
Như vậy rõ ràng lí thuyết “vùng phát triển gần nhất” của trẻ emdo L.X. Vưgôtxki
đề xuất là một đóng góp quan trọng vào kho tàng tâm lí học sư phạm, vừa làm rõ vị
trí của quá trình dạy học trong việc phát triển trí tuệ của học sinh vừa chỉ ra biện
pháp thực hiện sự phát triển ấy. thừa nhận thuyết “vùng phát triển gần nhất” không

những ta cần chú ý phương pháp chọn và ra bài tập mà cả phương pháp sữa bài tập
cho học sinh, phương pháp giảng dạy nói chung. Một trong các tác dụng quan
trọng trong giờ sữa bài tập và trong giờ giảng bài là vai trò trong các câu hỏi gợi ý.
Đây cũng là một tồn tại đáng chú ý ở nhà trường ta. Thực tế chứng tỏ vì lí do thời
gian giáo viên thường ít đề ra câu hỏi dẫn dắt học sinh. Trong nhiều trường hợp
giáo viên không biết cách gợi ý, dạng phổ biến là gợi ý bằng cách nói trước nữa
câu hoặc gần hết câu, học sinh chỉ trả lời bằng cách đệm thêm vào câu mà giáo
viên vừa nói. Thực ra vai trò quan trọng của gợi ý không phải ở chỗ giúp học sinh
trả lời hoặc giải bài tập, mà ở chỗ luyện cho học sinh cách suy nghĩ, cách tập hợp
kiến thức để giải quyết vấn đề. Cho nên cần coi trọng gợi ý và gợi ý sao cho khéo,


có tác dụng gợi mở thực sự. gợi ý bằng hệ thống các câu hỏi hợp lý còn là cách vận
dụng “dạy học chương trình hóa”trong khuôn khổ dạy học cổ truyền.

TÀI LIỆU THAM KHẢO



×