PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Tôi ra trường đã được 6 năm, khoảng thời gian không ngắn nhưng cũng
chưa đủ dài với cái nghề ‘‘trồng người’’. Trong 6 năm công tác tại trường
ngoài công việc giảng dạy, tôi còn được phân công chủ nhiệm, công việc
tưởng chừng như đơn giản ấy, nhưng đôi lúc lại rất khó khăn, nó không những
đòi hỏi phải thực hiện bằng lí trí mà còn bằng cả con tim yêu thương dành cho
các em học sinh. Đó vừa là trách nhiệm, vừa là lòng nhiệt huyết và là lương
tâm của những nhà giáo dục.
Tuy nhiên trong thực tế có rất nhiều giáo viên chủ nhiệm chưa thực hiện
đúng, đầy đủ chức trách, vai trò của mình. Trên các kênh thông tin đại chúng
đã đăng tải rất nhiều tin, có giáo viên chủ nhiệm chửi mắng, xúc phạm học
sinh, có giáo viên chủ nhiệm lớp nóng nảy, đã mắc phải những sai lầm nghiêm
trọng là đuổi học sinh ra khỏi lớp dẫn tới các em bỏ học, hay lại có trường hợp
giáo viên chủ nhiệm cho cán sự lớp đánh những học sinh vi phạm… Lại có
một số giáo viên chủ nhiệm không có trách nhiệm, buông lỏng quản lý, hết giờ
lên lớp thì về, mặc kệ học sinh dẫn tới học sinh xuống cấp về mặt đạo đức, vi
phạm nội quy trường lớp, bỏ học, bỏ giờ, uống rượu, chơi điện tử thậm chí còn
vi phạm pháp luật… Bên cạnh gia đình của các em học sinh, giáo viên chủ
nhiệm còn được xem là cha là mẹ thứ hai, nếu phương pháp giáo dục, dạy dỗ
không đúng đắn, có thể ảnh hưởng rất nhiều đến tương lai, cuộc đời của các
em. Vì vậy tôi xin mạnh dạn đưa ra ‘‘MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM TỐT
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM” mà trong 6 năm qua tôi đã đúc kết lại.
I.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu:
I.2.1. Mục tiêu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn vai trò của giáo viên chủ
nhiệm lớp trong công việc giáo dục 2 mặt học tập, đạo đức học sinh để đề ra
những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh và góp
phần hoàn thiện nhân cách học sinh ở trường THCS nói chung, nâng cao chất
lượng của công tác chủ nhiệm lớp nói riêng.
I.2.2. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu lý luận về vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp.
- Thể hiện vai trò của GVCN trong công tác giáo dục 2 mặt học tập và đạo
đức học sinh trong thời gian qua và kết quả đã đạt được.
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục học sinh trong trường THCS.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp và tình hình học sinh trong lớp chủ
nhiệm...
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
1
Lớp 8C (Năm học 2010-2011)
Lớp 9E (Năm học 2012-2013)
Lớp 8D (Năm học 2014 – 2015)
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người giáo viên chủ
nhiệm lớp trong công tác giáo dục đạo đức học sinh trên các tập san giáo dục,
các bài tham luận trên Internet.
- Phương pháp trò chuyện và quan sát:
+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh.
+ Trò chuyện với học sinh để hiểu các em hơn từ đó có phương pháp giáo
dục tốt nhất.
Trao đổi với các giáo viên bộ môn, học sinh trong và ngoài lớp, hội cha
mẹ học sinh(CMHS), bạn bè và hàng xóm của học sinh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn: Truờng THCS Nguyễn Văn
Trỗi, THCS Ngô Quyền, THCS Lê Quý Đôn.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong
trường mình: GVCN lớp 6D: Cô Nguyễn Thị Lệ Thủy, GVCN lớp 9G: Thầy
Lê Anh Tài…
- Phương pháp thử nghiệm:
Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục học sinh ở lớp 8C Năm
học 2010-2011, lớp 9E năm học 2012-2013; Lớp 8D năm học 2014 – 2015.
I.6. Thời gian thực hiện:
Lớp 8C - Bắt đầu: 23/08/2010 đến 30 tháng 5 năm 2011
Lớp 9E - Bắt đầu từ: 22/8/2012 đến 30 tháng 5 năm 2013.
Lớp 8D - Bắt đầu từ: 22/8/2014 đến 5/1/2015
2
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
II.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục, từ năm học 2009 – 2010 Bộ GD&ĐT đã có các qui định, hướng dẫn đề
cao vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người GVCN. Đồng thời trong Qui định
chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, giáo viên trung học phổ thông
(Ban hành kèm theo Thông tư số 30 /2009 /TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm
2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT) có đề cập đến năng lực tìm hiểu đối tượng
và môi trường giáo dục, năng lực giáo dục và năng lực hoạt động chính trị, xã
hội của người GV, đó cũng là năng lực cần thiết của người GVCN. Chỉ thị Số
3399 /CT-BGDĐT, ngày 16 tháng 8 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về
nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
thường xuyên và GD chuyên nghiệp năm học 2010 – 2011 có nhấn mạnh: “Tổ
chức có hiệu quả công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, chú trọng bồi
dưỡng kinh nghiệm làm công tác chủ nhiệm lớp”. Trong phần hướng dẫn triển
khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trung học, Bộ
GD&ĐT đã chỉ đạo: “Tăng cường vai trò của đội ngũ GVCN lớp trong việc
giáo dục đạo đức, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục giá trị và kỹ năng sống, tư
vấn học đường… cho HS; thiết lập và duy trì có hiệu quả mối quan hệ giữa
GVCN lớp với GV bộ môn, các đoàn thể xã hội và gia đình HS”. Điều này cho
thấy Bộ GD&ĐT đã rất quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp nói chung, đến
nhiệm vụ của GV chủ nhiệm nói riêng.
Tại khoản 2 điều 31 Điều lệ Trường Trung học quy định: Giáo viên chủ
nhiệm, ngoài nhiệm vụ quy định đối với giáo viên còn có nhiệm vụ sau đây:
- Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội
dung, phương pháp giáo dục đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học
sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp
và của từng học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch
đã xây dựng.
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn,
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí
Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong vệc hỗ trợ, giám sát việc học tập,
rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy
động các nguồn lực trong cộng đồng để phát triển trường.
- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề
nghị khen thưởng, kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh lên lớp thẳng,
phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ Hè; hoàn
chỉnh việc ghi số điểm và học bạ học sinh.
3
- Giáo viên chủ nhiệm lớp có trách nhiệm báo cáo định kỳ và đột xuất
về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
Trong thực tế ở trường THCS có nhiều giáo viên chủ nhiệm rất có kinh
nghiệm và cũng có rất nhiều giáo viên chủ nhiệm trẻ, năng lực thì có nhưng
kinh nghiệm chưa nhiều, sử dụng phương pháp giáo dục thiếu linh hoạt, thiếu
nhiệt tình nên vẫn có sự chênh lệch rõ rệt giữa các lớp. Đề tài này không mới,
nó trở đi – trở lại những yêu cầu, nhiệm vụ mà mỗi giáo viên cần làm, nhưng
điều quan trọng là thông qua nó, những giáo viên chúng tôi được tìm tòi,
nghiên cứu, bàn bạc để có được phương pháp tối ưu nhất có thể nâng cao chất
lượng giáo dục trong thời đại ngày nay/.
II.2. THỰC TRẠNG:
II.2.1. Thuận lợi - Khó khăn:
* Thuận lợi:
Khi được BGH nhà trường phân công nhiệm vụ, tôi đã được GVCN của
chính lớp đó ở các năm trước truyền lại khá nhiều kinh nghiệm cũng như
thông báo về tình hình của lớp nên dù mới tiếp xúc tôi cũng hiểu khá rõ về học
sinh, nắm bắt được tâm sinh lý của các em, biết rõ mỗi em học tập và rèn
luyện như thế nào, năng lực học ra sao, có những năng khiếu gì, hoàn cảnh gia
đình thế nào để có phương pháp giáo dục tốt nhất.
Đa số học sinh ngoan, hiền, đồng đều về lứa tuổi, ở trên cùng một địa
bàn xã nên việc học tổ, nhóm khá thuận tiện, bạn bè luôn đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau, bên cạnh đó BGH nhà trường, Liên đội và các giáo viên bộ môn luôn
phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục học sinh,
phần lớn các bậc phụ huynh cũng rất quan tâm đến việc học tập của con, em
mình nên công tác chủ nhiệm khá thuận lợi.
* Khó khăn:
Lớp vẫn còn nhiều học sinh lười học, ham chơi, ít chú ý nghe giảng bài.
Một số phụ huynh ít quan tâm đến vấn đề học tập của con em.
II.2.2. Thành công – Hạn chế:
* Thành công:
Sau khi thực hiện đề tài đã có những bước thành công nhất định, các em
học sinh đã dần hình thành được thói quen, tác phong, nề nếp tốt. Cùng với nề
nếp thì kết quả học tập cũng đã tiến bộ rõ rệt. Một số học sinh cá biệt cũng có
những thay đổi theo chiều hướng tích cực. Bản thân tôi hiểu và ý thức được
nhiều hơn về vai trò quan trọng của việc chủ nhiệm trong việc giáo dục toàn
diện nhân cách học sinh trong nhà trường, cảm thấy mình trưởng thành hơn
nhờ công tác chủ nhiệm.
* Hạn chế:
Giáo viên chủ nhiệm chưa được bồi dưỡng, tập huấn, hướng dẫn cán sự
lớp về nội dung, phương pháp tổ chức lớp, kỹ năng tự quản, về cách giao tiếp,
động viên thuyết phục, tập trung học sinh trong lớp cùng học tập, sinh hoạt
nên ít nhiều cũng gặp những trở ngại khi thực hiện đề tài.
4
II.2.3. Mặt mạnh – mặt yếu:
Có thể nói công tác của GVCN là rất phức tạp, muôn màu, muôn vẻ,
mỗi giáo viên có một cách làm khác nhau nhưng kết quả đều hướng về một
mục tiêu chung, đó là thực hiện theo nội dung kế hoạch của nhà trường nhằm
đạt được mục đích, kế hoạch mà nhà trường đề ra, tất cả các lớp đều có mô
hình hoạt động gần giống nhau, vì vậy đề tài này có thể áp dụng rộng rãi
không chỉ ở riêng trường mà tôi đang công tác.
II.2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Theo nhận định của ThS. Đoàn Thị Ngọc Mai - Trường ĐH Sài
Gòn: Trong thực tế, giáo viên chủ nhiệm lớp thường gặp khó khăn trong thực
hiện nhiệm vụ được giao. Một số giáo viên chủ nhiệm lớp chưa được tập huấn
kỹ về công tác chủ nhiệm hoặc bản thân có khó khăn về kinh tế, ít thời gian
đầu tư, thiếu kiên nhẫn trong theo dõi, gần gũi, tìm hiểu nguyên nhân những
khó khăn của học sinh để kịp thời giúp đỡ. Đây cũng chính là nguyên nhân
khiến nhiều giáo viên chủ nhiệm hoặc còn lúng túng, hoặc chưa nhận thức hết
mối quan hệ mật thiết giữa công tác chủ nhiệm với hình thành đạo đức, lối
sống của học sinh. Bên cạnh đó, có không ít giáo viên bộ môn chưa quan tâm
đúng mức trong việc giáo dục đạo đức theo yêu cầu từng môn học.
II.2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng:
Đội ngũ giáo viên trong trường tôi đang công tác có thể xem là khá trẻ,
bên cạnh các nhà giáo vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm
trong nghề khá dày thì vẫn còn nhiều giáo viên trẻ, luôn hết mình với công
việc, có tinh thần cầu tiến tuy nhiên còn thiếu kiến thức thực tế, kinh nghiệm
làm công tác giáo dục còn hạn chế.
Nhiều giáo viên còn xem nhẹ việc lập kế hoạch làm công tác chủ
nhiệm, kế hoạch xây dựng sơ sài dẫn tới mục tiêu không rõ, hiệu quả hoạt
động của giáo viên chủ nhiệm chưa cao. Khi lập kế hoạch hoạt động của lớp
giáo viên chưa bám sát mục tiêu giáo dục toàn diện nhà trường đặt ra, hầu hết
là việc giải quyết sự vụ chưa có kế hoạch tổng thể xuyên suốt năm học.
Việc định hướng cho ban cán sự lớp tự tổ chức các hoạt động giáo dục
là một điều quan trọng, nhờ đó mỗi học sinh tự tổ chức hoạt động giáo dục đối
với bản thân mình nhưng rất ít giáo viên thực hiện điều này, vì thế học sinh
chưa tích cực thực hiện các họat động giáo dục.
Hầu như trường nào, lớp học nào cũng có học sinh cá biệt, mà những
học sinh này đa số gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm, đôi khi họ
rất mệt mỏi vì nói hoài mà các em không nghe, càng phạt thì càng lỳ hơn hoặc
các em sẽ co lại và phá phách hoặc chống đối ngầm. Điều này không những
khó khăn cho giáo viên mà còn có thể ảnh hưởng đến việc thi đua của cả lớp.
Ở lớp tôi chủ nhiệm, có một số em gia đình còn nhiều khó khăn như:
1. Em Ngọ Thị Ngọc Ánh (lớp 9E), nhà chỉ có 2 mẹ con, mẹ em lại hay đau
ốm, gia đình chỉ sống vào tiền đi làm thuê hàng ngày của mẹ em.
2. Em Nguyễn Tiến Anh (lớp 8C) trước khi học tại trường THCS Lê Hồng
Phong đã 6 lần chuyển trường vì điều kiện gia đình, bố mẹ sống li thân.
5
3. Em H’Nhoan, Nguyễn Đình Trung, Châu Thái Quỳnh (lớp 9E) thường
xuyên bỏ tiết và không chuẩn bị bài khi đến lớp.
4. Em Phạm Anh Vũ (Lớp 9E) đang sống cùng ông bà ngoại, bố mẹ đi làm ăn
xa.
5. Em Phan Minh Phước (Lớp 9E) học lực kém môn Hóa (Điểm trung bình:
1,9) phải thi lại nhiều môn.
Chất lượng giáo dục 2 mặt của lớp khi mới nhận chủ nhiệm:
Chất lượng giáo dục lớp 8C trong năm học trước khi tiếp nhận:
Sĩ số
36 HS
Học lực
Giỏi
Khá
Tb
Yếu-kém
3HS (8%)
8HS (22,2%) 15HS (42%) 10HS (27,8%)
Hạnh
Tốt
Khá
TB
Yếu-kém
kiểm
26 (72,2%)
9 (25%)
1 (2,8%)
Chất lượng giáo dục lớp 9E của năm học trước khi tiếp nhận:
Sĩ số
38 HS
Học lực
Giỏi
Khá
Tb
Yếu-kém
3HS(7,8%) 9HS(23,8%) 16HS(42,1%) 10HS(26,3%)
Hạnh
Tốt
Khá
TB
Yếu-kém
kiểm
24 (63,2%)
10 (26,3%)
4 (10,5%)
Khi nhận chủ nhiệm, lớp 8C (Tức là lớp 7C năm trước), 9E (Lớp 8E
năm trước) không có thành tích đáng kể, chỉ xếp ở nửa sau của phong trào thi
đua giữa các Chi đội.
II.3. GIẢI PHÁP – BIỆN PHÁP:
II.3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao nghiệp vụ làm công tác chủ
nhiệm của giáo viên ở trường trung học cơ sở.
II.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
II.3.2.1. Làm quen với học sinh:
Khi được BGH phân công chủ nhiệm một lớp nào, công việc đầu tiên là
phải làm quen, tìm hiểu các em học sinh, nó sẽ tạo một ấn tượng đầu tiên tốt
đẹp về người giáo viên chủ nhiệm trong các em. Có thể thực hiện một số
phương pháp sau:
- Phương pháp tìm tòi:
Để nắm được một số thông tin về học sinh, giáo viên chủ nhiệm cần thu
thập thông tin qua hồ sơ, học bạ học sinh, qua đó giáo viên chủ nhiệm sẽ biết
được một số thông tin đầu tiên về tình hình học tập của các em trong năm học
trước, sơ yếu lý lịch của các em (năm sinh, nơi ở, trường học năm học trước
v.v..)
6
Sau khi nhận lớp, tôi đã gặp các GVCN cũ là cô Lê Thị Nhung.
Qua đó tôi nắm được một số thông tin quan trọng về một số học sinh do
tôi chủ nhiệm như sau:
Học sinh trong lớp ở nhiều địa bàn khác nhau, có những học sinh
nhà rất xa trường (Cuối buôn Riêng – cách trường gần 10km, 1 học sinh
nhà rất nghèo, 1 học sinh có cha mẹ đang trong tình trạng bất ổn về hôn
nhân…
Trên cơ sở những thông tin này, trước các hành vi ứng xử của học sinh,
GVCN sẽ đưa ra được biện pháp xử lý phù hợp, có thái độ, lời nói đúng mực.
Tránh đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm của các em và có thể động viên
kịp thời.
- Phương pháp trò chuyện, quan sát:
Giáo viên chủ nhiệm mới nên gặp gỡ các em học sinh trước khi vào
buổi học đầu tiên của năm học. Tốt nhất là kết hợp trong buổi học nội qui
trường học, giáo viên chủ nhiệm nên yêu cầu các em đi tới trường sớm hơn 30
phút để có thời gian trò chuyên, tìm hiểu thêm về các học sinh mà mình được
phân công chủ nhiệm, (buổi sáng yêu cầu các em tới trường vào lúc 7giờ, buổi
chiều 1giờ 30phút ).
Đầu tiên giáo viên chủ nhiệm nên cởi mở trò chuyện với các em học
sinh, bằng những lời giới thiệu về bản thân như tên, tuổi, sở thích, một số
nguyên tắc khi làm việc, (nếu giáo viên có năng khiếu thì có thể hát tặng học
sinh một bài hát, hoặc kể một vài câu chuyện vui, tạo không khí thân mật)
sau đó yêu cầu từng học sinh cũng tự giới thiệu cho cho cả lớp biết về: tên,
tuổi, địa chỉ, sở thích, năng khiếu bản thân, đã từng giữ vai trò gì trong lớp, đã
đạt được thành tích gì ở năm học trước. Giáo viên chủ nhiệm nên ghi lại một
vài nét chính của từng học sinh qua lời các em, nó sẽ có ích khi bầu ban cán sự
lớp tạm thời, và phân chỗ ngồi cho các em học sinh.
Qua sự tự giới thiệu của các em học sinh tôi đã nắm được một cách khái
quát về lớp chủ nhiệm, biết được những học sinh có khả năng nói trước tập
thể, những học sinh đã làm cán sự lớp để phân công các em trong ban cán sự
lớp tạm thời.
Ngoài ra, sau khi nhận danh sách học sinh ở lớp mình sẽ chủ nhiệm, tôi
cố gắng nhớ tên học sinh của mình. Bất cứ ai cũng muốn mình là người quan
trọng đối với người khác, việc giáo viên gọi tên các em học sinh ngay khi mới
gặp sẽ làm các em rất vui, bất ngờ vì việc này. Nhờ thế, GVCN sẽ nhanh
chóng để lại ấn tượng của mình trong các em. Điều quan trọng hơn là các em
cảm nhận được sự tôn trọng của GVCN đối với mình.
II.3.2.2. Lựa chọn ban cán sự lớp:
Ban cán sự lớp thường được ví là cánh tay đắc lực cho GVCN, một lớp
học muốn tiến bộ, tự quản tốt thì vai trò của ban cán sự lớp rất quan trọng. Các
em cùng học chung một lớp, chung độ tuổi, chung tâm lý, … nên dễ nắm tình
hình lớp, dễ hiểu nhau, … đó là điều kiện để lớp hoạt động tốt, giáo viên có
7
thể nắm được tình hình lớp mà không phải ngày nào cũng trực ở lớp. Vì vậy,
việc lựa chọn ban cán sự lớp là rất quan trọng.
- Cơ sở lựa chọn:
Theo tôi, căn cứ vào hồ sơ học bạ của học sinh, qua cuộc trò chuyện với
học sinh,và sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu
mỗi năm học.
- Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp:
Cơ cấu của Ban cán sự lớp:
* Một lớp trưởng: ( học sinh có học lực khá trở lên, có năng lực quản lý lớp )
* Ba lớp phó: một lớp phó học tập có học lực giỏi, một lớp phó văn thể mỹ,
một lớp phó lao động có học lực khá trở lên, nhiệt tình với phong trào trường
lớp.
* Ba tổ trưởng: ( tùy theo số lượng học sinh mà phân tổ ) một tổ trưởng tổ 1,
một tổ trưởng tổ 2, một tổ trưởng tổ 3, học sinh có học lực khá trở lên, nhiệt
tình với phong trào của lớp.
* Ba tổ phó: một tổ phó tổ 1, một tổ phó tổ 2, một tổ phó tổ, học sinh có học
lực khá trở lên, nhiệt tình với phong trào lớp.
* Cờ đỏ của trường: 1 học sinh, lựa chọn học sinh có học lực trung bình trở
lên, ngoan, nhiệt tình.
* Các cán sự bộ môn: Toán, Văn, tiếng Anh, Vật lý, Hóa học... là học sinh có
học lực giỏi của từng môn phụ trách (có thể trùng với ban cán sự lớp, vì ban
cán sự lớp chủ yếu là học sinh khá, giỏi).
* Thư kí lớp: (có thể cho lớp phó văn thể mỹ kiêm nhiệm)
Đối với lớp tôi chủ nhiệm, việc phân công cán sự lớp tôi còn chú trọng
theo địa bàn cư trú của các em, đảm bảo ở mỗi địa bàn cư trú có ít nhất một
thành viên cán sự lớp. Làm được như vậy thì trong quá trình hoạt động giáo
viên chủ nhiệm có thể để nắm tình hình các thành viên trong lớp thông qua các
em.
Sau khi phân công cán sự, tôi thông qua trước lớp về nhiệm vụ cụ thể
của ban cán sự:
- Nhiệm vụ của lớp trưởng: Lớp trưởng là người điều hành, quản lý toàn bộ
các hoạt động của lớp và từng thành viên trong lớp, cụ thể:
+ Tổ chức, quản lý lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo quy
định của Nhà trường.
+ Theo dõi, đôn đốc lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh quy chế, quy định,
nội quy về học tập và sinh hoạt của. Xây dựng và thực hiện nề nếp tự quản
trong HS.
+ Tổ chức, động viên giúp đỡ những học sinh gặp khó khăn trong học tập, rèn
luyện và đời sống.
+ Chịu sự điều hành, quản lý của trực tiếp của giáo viên chủ nhiệm lớp.
+ Chủ trì các cuộc họp lớp để đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, bình xét học
bổng, đề nghị thi đua khen thưởng đối với tập thể và cá nhân học sinh trong
lớp.
8
+ Quản lý 15 phút đầu giờ, theo dõi chung các hoạt động của lớp, tổng hợp kết
quả thi đua và điều hành tiết sinh hoạt cuối tuần.
* Giáo viên chủ nhiệm làm 1cuốn sổ theo dõi cho lớp trưởng (xem phụ lục).
- Nhiệm vụ của lớp phó học tập:
+ Theo dõi đôn đốc vấn đề học tập của các thành viên trong lớp, báo cáo lại
cho giáo viên chủ nhiệm hàng tuần.
+ Chép thời khóa biểu kịp thời, chính xác cho lớp.
+ Ðiểm danh, ghi sổ đầu bài đầy đủ, kịp thời.
- Nhiệm vụ của lớp phó lao động:
+ Theo dõi công tác vệ sinh lớp học hàng ngày của lớp.
+ Phân công các học sinh vi phạm trong tuần trực nhật lớp.
+ Điều hành lớp lao động trong các buổi lao động do nhà trường phân công.
* Giáo viên chủ nhiệm làm cho lớp phó lao động 1cuốn sổ theo dõi (xem
phụ lục).
- Nhiệm vụ của lớp phó văn thể mỹ:
+ Lập danh sách HS thuộc diện đối tượng ưu tiên, hoàn cảnh khó khăn, báo
cáo với giáo viên chủ nhiệm.
+ Tổ chức và quản lý các bạn học sinh thực hiện các hoạt động liên quan đến
sinh hoạt đời sống vật chất và tinh thần của lớp mà nhà trường tổ chức như các
phong trào chào mừng ngày 20-11, ngày 8-3 ngày 26-3....
+ Tổ chức động viên, thăm hỏi những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, ốm
đau, tai nạn...
+Theo dõi về mặt nề nếp của lớp.
+ Lớp phó văn thể mỹ kiêm nhiệm luôn thư kí lớp ghi lại các biên bản sinh
hoạt lớp cuối tuần hoặc các cuộc họp đột xuất.
- Cờ đỏ của trường: Thực hiện nhiệm vụ do Tổng phụ trách đội giao.
- Các cán sự bộ môn:
+ Thực hiện và duy trì sinh hoạt 15 phút đầu giờ theo chủ đề lớp đã chọn (sửa
bài tập hay giải đáp một số câu hỏi khó của các môn học)
- Các tổ trưởng, tổ phó: Theo dõi chi tiết về học tập, nề nếp của các tổ viên (sổ
theo dõi – Phần phụ lục) cuối tuần nộp sổ cho lớp trưởng tổng hợp.
II.3.2.3. Lập sơ đồ tổ chức lớp học:
+ Căn cứ để lập sơ đồ lớp:
- Căn cứ vào học lực của học sinh, học sinh yếu kém, chậm tiến ngồi trước,
xen kẽ học sinh khá giỏi .
- Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của học sinh, học sinh thấp trước, cao sau;
học sinh mắt yếu ngồi gần bảng.
- Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp: ngồi giữa và sau.
9
Sơ đồ tổ chức lớp tôi chủ nhiệm như sau :
Lớp
trưởng
Tổ phó
Tổ phó
Tổ trưởng
Tổ trưởng
Lớp phó
học tập
Tổ trưởng
Tổ phó
Lớp phó
VTM
Lớp phó
LĐ
Tổ 1
Tổ 2
Tổ 3
Cửa ra - vào
Bàn giáo viên
(Sơ đồ lớp học các dãy tổ sẽ thay đổi thứ tự theo tháng)
* Mỗi bàn kí hiệu như trên có 2 học sinh ngồi
Lớp có 36 HS, chia làm 3 tổ có 3 dãy ghế, mỗi dãy có 6 bàn.
* Ngoài ra, vị trí bàn trên cùng đối diện với bàn giáo viên, tôi gặp thầy hiệu
phó cơ sở vật chất đề nghị xin thêm một bàn, thứ nhất là để cho học sinh ngồi
khi lớp có thầy cô giáo bộ môn vào dự giờ, các em sẽ dồn lên ngồi bàn trên,
thứ hai nếu có học sinh vi phạm nội qui trường lớp, sẽ phạt em học sinh đó lên
ngồi bàn đầu, đối diện với bàn giáo viên, để các em tự kiểm điểm, sửa đổi, nếu
trong tuần các em tiến bộ, sẽ cho các em ngồi vị trí cũ.
* Với sơ đồ trên, dãy nào cũng có học sinh khá giỏi, trong các giờ học rất
thuận lợi khi các em hoạt động nhóm, hay khi học sinh tham gia phát biểu bài
dãy nào cũng sôi nổi, học sinh khá giỏi ngồi xen kẽ với học sinh trung bình
yếu, nên có thể kèm và giúp đỡ nhau trong việc học.
* Trong quá trình lập sơ đồ, có thể thay đổi một số vị trí nếu thấy không phù
hợp.
10
II.3.2.4. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc kết hợp nhà
trường - gia đình - xã hội:
Giáo viên chủ nhiệm có vai trò rất lớn trong việc hình thành nhân cách
cũng như kỹ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên, để làm tốt và phát huy hết vai
trò đó, giáo viên chủ nhiệm phải có sự kết hợp với nhà trường, gia đình học
sinh và với xã hội.
- Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc kết hợp với nhà trường:
Hàng tuần giáo viên chủ nhiệm theo dõi nắm tình hình của lớp chủ
nhiệm, qua sự theo dõi của cờ đỏ trường, cán sự lớp, và giáo viên bộ môn , báo
cáo lại lại với ban giám hiệu (BGH) qua các buổi họp giao ban, hay họp hội
đồng sư phạm. BGH sẽ tăng cường chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát học sinh bỏ
giờ, bỏ tiết, vi phạm nội qui, qui chế nhà trường và có những biện pháp xử lý
nghiêm khắc đúng mực, dứt khoát với những học sinh vi phạm có hệ thống.
Đó cũng là co sở để tuyên dương, khen thưởng xứng đáng, đúng người, đúng
việc để cỗ vũ tinh thần cho những cá nhân, tập thể có thành tích đóng góp nhất
định trong các phong trào.
Giáo viên chủ nhiệm cũng cần phối hợp với giáo viên bộ môn trong việc
giáo dục học sinh, giáo viên chủ nhiệm nhờ giáo viên bộ môn kèm cặp, theo
dõi các em trong vấn đề học tập cũng như nề nếp tác phong trong các tiết học,
như thế giáo viên chủ nhiệm mới nắm bắt được một cách toàn diện nhất về
tình hình lớp chủ nhiệm cũng như các em học sinh trong lớp.
- Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc kết hợp với gia đình và
xã hội:
* Phương pháp thảo luận bàn bạc:
Hàng năm nhà trường thường tổ chức khoảng 2-3 lần họp phụ huynh
học sinh toàn trường, những lúc ấy giáo viên chủ nhiệm có thể gặp tất cả các
phụ huynh của học sinh lớp mình, cùng ngồi bàn bạc và đưa ra các biện pháp
giáo dục học sinh, đồng thời giáo viên chủ nhiệm có thể yêu cầu phụ huynh
cam kết về việc, học sinh và gia đình sẽ thực hiện tốt nội qui trường, lớp.
Qua cuộc họp đó giáo viên chủ nhiệm có thể xin được số điện thoại của
phụ huynh và chữ kí của phụ huynh (qua bản sơ yếu lí lịch giáo viên đưa cho
phụ huynh học sinh điền vào) lưu vào sổ chủ nhiệm để có thể chủ động liên lạc
với phụ huynh học sinh. Đối với học sinh hay vi phạm, các em thường giả chữ
kí của phụ huynh để viết đơn xin phép nghỉ học, hay giả chữ kí phụ huynh khi
các em phải viết bản tự kiểm điểm những lúc vi phạm nội qui trường lớp. Giáo
viên chủ nhiệm căn cứ trên bản sơ yếu lý lịch có chữ ký của phụ huynh học
sinh để so sánh và có biện pháp xử lí thích hợp nhất. Ngoài ra, đề nghị phụ
huynh khi viết giấy xin phép, cần để lại số điện thoại trên giấy xin phép để
GVCN tiện lien lạc để thăm hỏi, biết được lí do các em nghỉ học cũng như hạn
chế việc học sinh vắng học không phép và ký khống giấy phép.
11
Có thể sử dụng bản sơ yếu lý lịch theo mẫu sau:
BẢN SƠ YẾU LÝ LỊCH
STT
HỌ VÀ TÊN HỌC SINH
HỌ VÀ TÊN PHỤ
HUYNH HS
SỐ ĐIỆN
THOẠI LIÊN
HỆ
ĐỊA CHỈ
CHỮ KÝ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
34
35
36
....
Giáo viên chủ nhiệm lưu bản sơ yếu lí lịch trên vào sổ chủ nhiệm phần
thông tin học sinh để tiện theo dõi, quản lý các em.
12
Giáo viên chủ nhiệm thông qua sổ liên lạc định kỳ nên gửi một số thông
tin về việc học tập, rèn luyện trên trường lớp về gia đình, để nhà trường và phụ
huynh học sinh có thể phối hợp trong việc giáo dục các em học sinh.
Ngay từ buổi họp phụ huynh học sinh (PHHS) đầu năm, tôi đã đưa ra
kiến nghị và yêu cầu PHHS cùng kết hợp với GVCN để rèn nề nếp học sinh
như sau:
- Thường xuyên trao đổi qua điện thoại với GVCN để kịp thời uốn nắn
nề nếp cũng như việc học của con em mình ở trường và ở nhà.
- Cuối tuần, PHHS ký và nhận xét vào sổ liên lạc thường xuyên (Tôi
yêu cầu mỗi họ sinh phải có một cuốn sổ liên lạc theo tuần ghi chép những ưu,
nhược điểm của các em trong mỗi tuần), như thế, PHHS sẽ nắm rõ những điều
mà con, em mình làm được trong tuần và những hạn chế cần khắc phục đồng
thời có ý kiến đề xuất với GVCN cho tuần tiếp theo.
- Tôi cũng thông báo về thời khóa biểu và quy định thực hiện đồng phục
trong trường: Thứ 2, 4, 6 mặc áo trắng và áo khoác đồng phục của trường. Thứ
3, 5, 7 mặc áo màu xanh và có thể mặc áo khoác màu. Theo đó, trước khi các
em tới lớp, phụ huynh sẽ nhắc nhở nếu các em chưa thực hiện đúng như quy
định của nhà trường. Những lỗi như thế, trách nhiệm sẽ thuộc về gia đình các
em. Nhờ vậy, tôi có thể phát huy tối đa vai trò của cha mẹ học sinh, giảm thiểu
đáng kể việc thiếu quan tâm, phó mặc con, em mình ở một số phụ huynh.
Đối với HS thường xuyên vi phạm, GVCN phải đến tận gia đình HS để
thông báo và tìm hiểu xem hoàn cảnh của HS đó như thế nào để cùng gia đình
kịp thời uốn nắn và định hướng đúng cho HS. Đồng thời trong lớp GVCN cần
quan tâm, động viên nhiều hơn để HS tìm được niềm tin để phấn đấu.
* Đối với chính quyền thôn, xóm, theo tôi cũng nên nắm bắt kịp thời những
thông tin về học tập, đạo đức của học sinh để uốn nắn giáo dục, đồng thời
buộc gia đình phải có biện pháp quản lí giáo dục con em mình tốt hơn. Thế
nên, mỗi GVCN cũng cần có mối liên hệ thường xuyên với chính quyền địa
phương để cùng phối, kết hợp và định hướng, giúp các em tiến bộ từng ngày.
II.3.2.5. Biện pháp thực hiện nhằm giáo dục học sinh cá biệt và tránh
tình trạng học sinh bỏ học:
Giáo viên chủ nhiệm là người đứng ra giải quyết mọi rắc rối do học sinh
gây ra, đồng thời phải đưa ra được các giải pháp cụ thể để hạn chế, giảm thiểu
trường hợp học sinh cá biệt. Trước hết giáo viên chủ nhiệm cần phải hiểu rõ
học sinh, nguyên nhân nào mà học sinh trở thành cá biệt.
* Tìm hiểu nguyên nhân:
Lâu nay, ta chỉ thường nghe cụm từ “học sinh cá biệt” , ám chỉ những đứa
trẻ có vẻ khác thường, khó dạy, thậm chí hư hỏng. Trong trường, học sinh
dạng cá biệt về đạo đức thường quậy phá, đánh nhau, thậm chí trộm cắp, nổi
bật vai trò thủ lĩnh, lập băng nhóm... nhẹ hơn một chút là về học tập, học sinh
không học bài, làm bài, học sinh chậm hiểu và rất mau quên, hay học sinh vi
phạm một số qui định của trường lớp như không mặc đồng phục, không đeo
13
khăn quàng, bảng tên.. Và học sinh bị gọi "cá biệt" là học sinh có khiếm
khuyết về tâm lý, do học sinh bị ảnh hưởng từ trong gia đình của mình, đa số
chúng ta khi thấy hành động khác thường, không ngoan của học sinh thì cho là
cá biệt và xử lý trên hành động do học sinh gây ra mà quên là cần phải tìm cho
ra nguyên nhân.
Theo tôi qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm có một số nguyên nhân
dẫn tới học sinh trở thành cá biệt đó là:
+ Do ảnh hưởng từ gia đình, đa số các em có gia đình không hạnh phúc, bố
mẹ li hôn, hay bố mẹ chỉ lo làm ăn không quan tâm tới các em, có một số em
không sống với bố mẹ mà sống với người thân trong gia đình như ông, bà, cô,
chú.
+ Do ảnh hưởng khi chơi với bạn xấu, ý thức các em còn non trẻ dễ bị lôi
kéo .
+ Do ảnh hưởng của internet, các em thích chơi game, chat, truy cập vào các
trang web không lành mạnh.
+ Do các em lười học, ham chơi, ỷ lại.
+ Do gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các em phải phụ giúp bố mẹ.
* Giải pháp:
- Trước hết giáo viên chủ nhiệm cần phải hiểu rõ hoàn cảnh của học sinh.
Tránh buông ra những lời nói nặng nề khiến học sinh chán nản, buông xuôi.
Sau đó là tình thương đó là biện pháp để giáo dục tốt nhất. Khi uốn nắn giáo
dục học sinh vi phạm chúng ta nên làm từ từ, tìm hiểu sự việc cho cặn kẽ, rõ
ràng, xử lí nghiêm khắc nhưng cũng mềm dẻo, tránh trường hợp dồn các em
vào bước đường cùng.
- Trường hợp học sinh có gia đình không hạnh phúc, thì các học sinh thường
bị tổn thương về tình cảm, tâm lý. Các em hay tự ti, sống khép mình, hoặc một
số em sẽ gồng mình lên tự vệ, các em dễ nổi nóng, cáu gắt, thậm chí đánh bạn.
Đa số các em học yếu, chán học đó là các vết thương tâm lý mà các em mang
trên mình, các em rất đáng thương. Giáo viên chủ nhiệm cần gần gũi các em,
nói chuyện để hiểu các em vì những học sinh này rất cần sự quan tâm, động
viên và giúp đỡ trong học hành, lối sống. Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm
cần nói chuyện với tập thể lớp để lớp hòa đồng với học sinh cá biệt, giúp đỡ
bạn trong học tập. Lôi kéo bạn vào những hoạt động chung, hoạt động phong
trào, giúp học sinh cá biệt thấy được trường học, bạn bè, thầy cô là ngôi nhà
thứ hai để các em cố gắng trong cuộc sống và học tập.
Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm cần gặp gỡ gia đình học sinh cá biệt, trao đổi
tâm tư nguyện vọng của các em, để cả gia đình và nhà trường cùng có biện
pháp tốt nhất giáo dục các em.
- Trường hợp ảnh hưởng khi chơi với bạn xấu trở thành cá biệt:
Các học sinh THCS đều trong giai đoạn hình thành và phát triển tâm sinh lí,
nên bạn bè rất ảnh hưởng đến các em.Do địa bàn miền núi, rất nhiều đối tượng
xấu muốn lợi dụng, lôi kéo các em,các em rất dễ bị sa ngã.Giáo viên chủ
nhiệm tìm hiểu thông qua bạn bè cùng lớp hay khác lớp của các em ,phối hợp
14
với gia đình khuyên răn các em,cho các em thấy đâu là điều hay, điều dở,
khyuyến khích động viên kịp thời khi các em tiến bộ.Hãy nói chuyện với học
sinh như những người bạn thật sự, hiểu các em đó sẽ là động lực cho các em
cố gắng.
- Trường hợp ảnh hưởng của internet, các em thích chơi game, chat, truy
cập vào các trang web không lành mạnh, dẫn tới lười học, ham chơi, ỷ lại.
Đa số các em rất thích lướt web, đó là một kho tàng kiến thức khổng lồ
nếu các em biết khai thác học hỏi thì rất tốt, nhưng rất tai hại khi các em mê
muội chơi game, chat, truy cập vào các trang web không lành mạnh, các em
học sinh sẽ không còn suy nghĩ tới việc học, trong đầu các em chỉ nghĩ tới lên
mạng, mà đa số nhà các em không có mạng internet nên các em phải nghĩ cách
xin tiền bố mẹ, thậm chí trộm cắp chỉ để chơi game, lướt web. Đó là một vấn
nạn mà xã hội đang đề cập và tìm cách giải quyết.
Giáo viên chủ nhiệm cần theo dõi giờ giấc ra vào lớp của các em, kết hợp
với gia đình học sinh và khuyên phụ huynh không nên cho học sinh tiền tiêu
vặt theo dõi giờ giấc sinh hoạt, học tập ở nhà không để học sinh có cơ hội đi
chơi game.. Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm nhờ giáo viên bộ môn kèm cặp các
em trong các giờ học một vài học sinh gương mẫu kèm cặp giúp đỡ học sinh
cá biệt trong học tập, rèn luyện. Các em sẽ thấy tầm quan trọng của việc học
mà tách rời khỏi chơi game, lướt web.
- Trường hợp gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các em phải phụ giúp bố mẹ,
Giáo viên chủ nhiệm hỏi ý kiến nhà trường xin miễn giảm cho các em một số
khoản tiền đóng góp. Trong các cuộc họp phụ huynh học sinh, giáo viên chủ
nhiệm xin ý kiến phụ huynh lập quỹ khuyến học của lớp, ủng hộ cho các học
sinh có hoàn cảnh khó khăn, các học sinh học giỏi của lớp để các em có thể
yên tâm, tập trung cho việc học.
- Trường hợp các em lười học, ham chơi, ỷ lại: Giáo viên chủ nhiệm kết hợp
với giáo viên bô môn, cán sự lớp, kiểm tra việc chuẩn bị bài vở của các em
trước khi tới lớp. Hàng ngày vào giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên chủ
nhiệm sẽ dựa trên thời khóa biểu để đưa ra các nội dung thích hợp nhất trong
sinh hoạt 15phút đầu giờ, qua đó sẽ kiểm tra được việc học tập ở nhà của các
em. Đồng thời giáo viên chủ nhiệm sẽ liên lạc với phụ huynh yêu cầu phụ
huynh kiểm tra đôn đốc việc học tập ở nhà của con em mình.
II.3.2.6. Giáo dục học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm, tiết
hoạt động ngoài giờ lên lớp và sinh hoạt 15 phút đầu giờ:
* Giáo dục học sinh qua sinh hoạt 15 phút đầu giờ:
- Trước mỗi buổi học sẽ có 15 phút sinh hoạt đầu giờ, giáo viên chủ nhiệm
ngày nào cũng cần phải lên sinh hoạt 15 phút đầu giờ, để quản lí các em học
sinh, kiểm tra sĩ số, kiểm tra đồng phục, vệ sinh lớp học và đảm bảo lớp chủ
nhiệm sinh hoạt đầu giờ đúng nội dung qui định.
- Tùy theo thời khóa biểu mà giáo viên chủ nhiệm đưa ra các nội dung thích
hợp nhất, bên cạnh nội dung sinh hoạt 15 phút đầu giờ do Liên đội quy đinh,
có thể linh hoạt các nội dung khác. Ví dụ:
15
+ Thứ 2: Cán sự lớp sẽ kiểm tra bài tập, nội dung bài học các môn học thuộc
+ Thứ 3: Cán sự lớp sẽ kiểm tra bài tập ở nhà, cán sự bộ môn chữa bài tập khó.
+ Thứ 4: Cán sự lớp sẽ kiểm tra bài tập, nội dung bài học các môn học thuộc
cán sự bộ môn chữa bài tập khó .
+ Thứ 5: Lớp phó văn thể đọc báo, hoặc tập hát những bài hát truyền thống
cho lớp.
+ Thứ 6: Cán sự lớp sẽ kiểm tra bài tập ở nhà, nội dung bài học các môn học
thuộc.
+ Thứ 7: Cán sự lớp sẽ kiểm tra nội dung bài học các môn học thuộc, cán sự
bộ môn chữa bài tập khó.
(Cách theo dõi thi đua của cán sự lớp có trong bảng phụ lục)
* Giáo dục học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm:
- Theo qui định, tiết chủ nhiệm chỉ dành khoảng 15 phút để giáo viên
tổng kết tình hình học tập, vệ sinh, chuyên cần... của lớp; 30 phút còn lại tổ
chức cho học sinh sinh hoạt ...Mỗi tiết sinh hoạt chủ nhiệm đều phải có biên
bản (mẫu ở trang phụ lục).
- Giờ sinh hoạt bắt đầu bằng những tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện
của cả lớp trong tuần của ban cán sự lớp (mẫu ở trang phụ lục).
Thông qua sổ đầu bài, sổ cờ đỏ của Liên đội, các giáo viên bộ môn tôi
nhận xét, đánh giá từng học sinh. Tôi luôn luôn nhắc nhở và động viên tinh
thần các em, tạo động lực giúp cả lớp cố gắng hơn (dù lớp tôi thường xuyên
xếp ở 3 vị trí đầu). Những học sinh vi phạm nội quy thì tùy theo mức độ mà có
hình thức xử lí .
* Giáo dục học sinh thông qua tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Trong trường THCS mỗi tháng một lớp có 2 buổi hoạt động ngoài giờ
lên lớp theo chủ điểm. Đây là khoảng thời gian để các em học sinh vừa học
vừa chơi, các em có thể hiểu nhau hơn, gần gũi hơn, đồng thời giáo viên chủ
nhiệm có thể trò chuyện với học sinh, tạo điều kiện cho các em phát huy mọi
năng lực của mình như vẽ trang trí, làm thơ, hát, kể chuyện ...như thế giữa học
sinh và giáo viên không có khoảng cách, các em có thể tin tưởng tâm sự nói
chuyện với giáo viên chủ nhiệm, hiểu các em học sinh xem như đã thành công
50% trong việc giáo dục các em.
Ngoài ra, muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, ngoài những biện pháp trên,
theo tôi mỗi GVCN còn phải biết vận dụng nhiều phương pháp giáo dục khác
nhau trong đó có phương pháp giáo dục cá biệt và giáo dục tập thể. Tức là
cùng một lỗi vi phạm, tùy vào từng đối tượng để có biện pháp xử lí, có học
sinh tôi phê bình nghiêm khắc, nhưng có học sinh tôi chỉ nhắc nhẹ, có khi nhắc
nhở riêng.
Ở lớp tôi, có một vài em có lòng tự trọng cao thì nên khi các em vi
phạm, tôi không trách móc, bới tội trước lớp, để xử lý, tôi gặp trực tiếp các
em, tách các em ra khỏi tập thể để giáo dục riêng, dùng nhiều câu biểu cảm,
thể hiện thái độ, tâm trạng của chính mình. Cách xử lý này cũng phù hợp với
học sinh và giúp các em biết nhận lỗi và sửa.
16
Trước học sinh lì lợm, bất cần thì tôi tìm hiểu điểm yếu về tình cảm của
học sinh đó, từ đó tác động trực tiếp. Những học sinh kiểu này giáo viên
không nên la mắng, khiêu khích vì các em rất dễ làm liều.
Với học sinh có tính ganh đua thì nên khiêu khích, so sánh em đó với
một học sinh nào đó hơn em…
Học sinh khi có lỗi thường che giấu, vì vậy trước khi xử lý, bằng mọi
cách phải cho các em thấy lỗi và nhận lỗi của mình. Làm vậy trước hết học
sinh sẽ nể vì các em không thể giấu nổi hành vi sai trái của mình và học sinh
sẽ có cảm giác GVCN luôn biết những việc mình làm. Đó là cơ sở để các biện
pháp xử lý của mình có hiệu quả. Bên cạnh đó, theo tôi khi xử lý tình huống
cần bảo đảm giữ được thể diện cho các em, làm cho học sinh thấy mình được
tôn trọng nhưng cũng cần cho học sinh thấy sự nghiêm túc và cứng rắn của
thầy.
Để vận dụng phương pháp này hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm cần
nắm được tâm lý của từng cá nhân trong lớp cũng như tâm lí – tính cách chung
của học sinh lớp mình chủ nhiệm. Trên cơ sở đó việc chủ nhiệm sẽ hiệu quả
hơn.
II.3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
Sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm và học hỏi, tham khảo kinh
nghiệm chủ nhiệm của nhiều giáo viên trong và ngoài trường, tôi nhận thấy để
làm tốt công tác chủ nhiệm, mỗi giáo viên cần có những điều kiện và tố chất
sau:
- Điều quan trọng trước hết là tình thương và trách nhiệm, giáo viên chủ
nhiệm phải thật sự yêu nghề, yêu công việc trồng người, ngoài ra giáo viên chủ
nhiệm phải là một con người hành động, có tầm nhìn rộng vì đối tượng giáo
dục là các thế hệ học sinh, nên nhà giáo dục không được máy móc, phải linh
động, thay đổi theo từng học sinh, hiểu các em, vừa là thầy, vừa là bạn của học
trò, đồng thời còn phải là một nhà tâm lý của lứa tuổi THCS để hiểu các em
học sinh.
- Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải là tấm gương sáng cho học
sinh noi theo. Theo khảo sát, các em học sinh THCS thần tượng nhiều nhất là
các thầy cô giáo, nếu hỏi 10 em học sinh thì 7 em đã có mong ước là sau này
được trở thành giáo viên như thầy, như cô. Vì vậy ta càng thấy sự ảnh hưởng
của thầy cô giáo tới sự hình thành nhân cách của các em học sinh. Thế nên khi
đi tới trường tôi luôn tạo ra một tác phong nghiêm túc, mẫu mực cho học sinh
noi theo.
- Theo tôi giáo viên cần có thái độ mẫu mực, chỉn chu trước học sinh,
điều đầu tiên thể hiện là phải chuẩn bị tốt bài giảng ở nhà, luôn đặt ra các tình
huống giáo dục để xử lý. Khi lên lớp giáo viên cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt
khoát. Khi nói nhìn thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em chứ đừng nói
như nói với chính mình hay nói khơi khơi giữa lớp. Dùng từ, câu dễ hiểu, hợp
với trình độ học sinh, biết lắng nghe học sinh nói - mỗi khi các em phát biểu ý
17
kiến hay nói một điều gì, thầy cô dù bận rộn cũng phải lắng nghe các em nói.
Có như vậy khi thầy cô nói các em mới chú ý nghe trở lại. Bên cạnh đó,
GVCN biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các em. Trả lời những
câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có câu trả lời, hứa sẽ tìm câu
trả lời chính xác). Cho các em biết là các em có thể điện thoại cho thầy cô để
nói chuyện hay hỏi bài vở. Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống,
những khó khăn ở trường... giúp các em giải quyết những khó khăn này. Trong
lớp học hay ngoài lớp học, thầy cô còn phải đóng vai người cha người mẹ,
người anh, người chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua đó các
em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái.
II.3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Để thực hiện tốt các giải pháp trên, mối quan hệ giữa GVCN – Nhà trường
và việc kết hợp giữa GVCN với gia đình – xã hội cũng rất cần chú ý.
Bản chất con người vốn lương thiện, nhưng về sau sẽ chịu sự tác động
của môi trường ngoài, còn nhỏ vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm
non gia đình và nhà trường góp phần quyết định, tuổi trung học cơ sở vai trò
của nhà trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để làm tốt việc giáo dục toàn
diện cho học sinh thì gia đình và nhà trường cần phải phối kết hợp chặt chẽ.
Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự
hình thành và phát triển phẩm chất đạo đức, lối sống của HS. Trong mối quan
hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng trong việc
phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện
nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp nhất
nên nhà trường nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ
những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình
và xã hội,do trường ở miền núi, địa bàn phức tạp, dân trí thấp, kinh tế khó
khăn., nên ít nhiều các tệ nạn xã hội cũng len lỏi vào trường học và có tác
động không nhỏ đến một bộ số phận học sinh ngoài ra do sự phát triển mạnh
mẽ của xã hội, trong thời kỳ đất nước hội nhập, đó là sự du nhập nền văn hoá
thời mở cửa. ảnh hưởng tới sự nhận thức của các em đặc biệt là các hoc sinh
đua đòi chạy theo lối sống hiện đại, ý thức tự giác học tập, rèn luyện của HS
chưa tốt, còn ỷ lại, và sự thiếu quan tâm của một đại bộ phận phụ huynh học
sinh.
II.3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã rút ra được một số kết quả như
sau:
Muốn cho học sinh làm một việc gì đó thì người giáo viên phải tạo cho
các em ham muốn làm việc đó, cho các em thấy được lợi ích của nó.
Luôn tôn trọng học sinh, nhất là ở nơi đông người.
Luôn đặt lợi ích của học sinh làm đầu, xem các em là trung tâm của mọi
vấn đề trong lớp học.
18
Từng bước rèn luyện cho các em năng lực tự quản, tự giải quyết các vấn
đề. Từ đó học sinh sẽ cảm nhận được vai trò làm chủ của mình.
Người GVCN tuy cho lớp tự quản nhưng phải luôn luôn đồng hành cùng
các em, nhanh chóng nắm bắt tình hình lớp để giải quyết những vấn đề vượt
khỏi phạm vi của các em. Việc đồng hành cùng các em cũng làm cho học sinh
cảm thấy an tâm vì thầy cô luôn ở bên – các em sẽ tự tin hơn trong mọi hoạt
động…
Chúng ta không nên áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một phương
pháp giáo dục nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”.
II.4. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM, GIÁ TRỊ KHOA
HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Sau khi thực hiện những biện pháp trên với lớp 8C (Năm 2010-2011)
Lớp 9E (Năm 2012-2013) đã đạt được một số kết quả khả quan:
- Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng học sinh trong ban cán
sự lớp đã đem lại hiệu quả trong việc quản lí nề nếp và chất lượng học tập. Các
em thực hiện nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Có những trường
hợp giáo viên chủ nhiệm không cần có mặt nhưng các em vẫn quản lí lớp tốt.
Đây là một trong những nhân tố quyết định thành tích lớp đạt được. Cùng với
việc duy trì nề nếp sinh hoạt 15 phút đầu giờ đã giúp học sinh chủ động trong
học tập, nên đã có nhiều tiến bộ. Số lượng học sinh khá giỏi tăng lên, giảm tỉ lệ
học sinh yếu kém, cụ thể :
- Lớp 8C (Năm 2010-2011):
+ Về học tập: Học sinh giỏi 6 hs (16,7%), học sinh tiên tiến 12hs
(33,3%), học sinh trung bình 13hs (36,1%), học sinh yếu 5hs (13,9%).
+ Về hạnh kiểm: hạnh kiểm tốt 29 hs (80,6%), hạnh kiểm khá 7 hs
(19,4%).
+ Về phong trào thi đua lớp 8C được xếp là lớp xuất sắc nhất trường.
+ Duy trì sĩ số : 100%.
- Lớp 9E (Năm 2012-2013)
+ Về học tập: học sinh giỏi 7hs (16,7%), học sinh tiên tiến
14hs(36,8%), học sinh trung bình 17hs (44,8%)
+ Thi học sinh giỏi cấp trường: em Phạm Thị Uyên (Lớp 9E) đạt giải II
môn Ngữ văn, em Quách Thu Phương (Lớp 9E) giải III môn Ngữ văn, em Ngọ
Thị Ngọc Ánh (Lớp 9E) giải III môn Địa, em Phan Minh Thuần, Đinh Văn Tú
(Lớp 9E) giải II môn Toán, giải khuyến khích môn máy tính cầm tay, em
Nguyễn Thu Diệu (Lớp 9E) giải II môn Anh văn.
+ Về hạnh kiểm: Hạnh kiểm tốt 32 hs (84,2%), hạnh kiểm khá 6hs
(15,8%).
+ Về phong trào thi đua lớp 9E là một trong ba lớp xuất sắc nhất trường
+ Duy trì sĩ số : 100%.
19
* Các em học sinh học yếu: Nguyễn Phương Dương, Nguyễn Tiến Anh,
Nguyễn Văn Cường, Bùi Thị Hiền… (Lớp 8C) đã có rất nhiều tiến bộ, ở lớp 7
các em đều phải thi lại mới được lên lớp, lớp 8 các em học sinh trên đều có
điểm trung bình các môn trên 5.0 là học sinh trung bình. Các em có học lực
yếu ở lớp 8E năm trước đến năm lớp 9 đều có những bước tiến khả quan và
đều có học lực từ trung bình trở lên, 100% được công nhận tốt nghiệp. Như
vậy lớp tôi chủ nhiệm đã có sự tiến bộ vượt bậc về nhiều mặt, đã đạt được
nhiều giấy khen của nhà trường và Liên đội.
BẢNG SO SÁNH MỘT SỐ KẾT QUẢ TRƯỚC VÀ SAU KHI CHỦ NHIỆM:
Trước khi chủ nhiệm:
Lớp 8C:
Sĩ số
36 HS
Học lực
Giỏi
Khá
Tb
Yếu-kém
3HS (8%)
8HS (22,2%)
15HS
10HS
(42%)
(27,8%)
Hạnh
Tốt
Khá
TB
Yếu-kém
kiểm
26 (72,2%)
9 (25%)
1 (2,8%)
Về phong trào thi đua lớp 8C không có thành tích, chỉ xếp nửa sau phong trào
thi đua.
Lớp 9E:
Sĩ số
Học lực
38 HS
Giỏi
Khá
Tb
Yếu-kém
3HS(7,8%) 9HS(23,8%) 16HS(42,1%) 10HS(26,3%)
Hạnh kiểm
Tốt
Khá
TB
Yếu-kém
24 (63,2%)
10 (26,3%) 4 (10,5%)
Về phong trào thi đua lớp 9E không được đánh giá cao trong trường.
Sau khi chủ nhiệm
Lớp 8C:
Sĩ số
Học lực
36 HS
Giỏi
Khá
6HS (16,7%) 12HS (33,3%)
Hạnh kiểm
Tb
13HS
(36,1%)
TB
Yếu-kém
5HS (13,9%)
Tốt
Khá
Yếu-kém
29 (80,6%)
7 (19,4%)
Về phong trào thi đua lớp 8C được xếp là lớp xuất sắc nhất trường.
20
Lớp 9E:
Sĩ số
Học lực
Hạnh kiểm
38 HS
Giỏi
Khá
Tb
Yếu-kém
7HS
14HS
17HS
(18,4%)
(36,8%)
(44,8%)
Tốt
Khá
TB
Yếu-kém
32 (84,2%)
6 (15,8%)
100% học sinh được công nhận tốt nghiệp
Thi đua hàng tuần giữa các lớp trong trường: (Lớp 9E - Học kỳ I)
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
Tuần
01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
Hạng
Ghi chú
Chưa xếp hạng
2
4
3
1
2
3
2
1
3
2
1
4
2
4
1
3
1
Thi HK I (Không xếp hạng
Học kỳ II, những thành tích đạt được trong HK I tiếp tục được duy trì và
phát huy. Về phong trào thi đua lớp 9E được xếp là 1 trong 2 Chi đội vững
mạnh, xuất sắc nhất trường, được nhà trường và Liên đội khen thưởng.
Ngoài ra, việc tham gia phong trào của các em cũng nhiệt tình, hiệu quả
từ đó ý thức xây dựng tập thể, tinh thần đoàn kết của các em cũng cao hơn
PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận:
Sáng kiến kinh nghiệm này qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng
giáo dục đạo đức học sinh thành công hay thất bại còn phụ thuộc vào yếu tố
21
khác nữa. Chúng ta không nên áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một
phương pháp giáo dục nào bởi lẽ sản phẩm ở đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát
thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng học sinh…
Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các
phong trào khác, những hoạt động khác, và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa
nhà trường với hội phụ huynh học sinh, sự quan tâm lãnh đạo của cấp Ủy,
chính quyền, các đoàn thể và nhân dân địa phương để tạo sức mạnh đồng bộ,
toàn xã hội cùng giáo dục thế hệ trẻ đồng thời giữ vững được hướng đi đúng.
Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm lớp
phải là người có uy tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ,
dám làm, đi trước, đề xuất được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh
tổng hợp, vai trò con chim đầu đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành
công hay thất bại ở mỗi học sinh, mỗi lớp học, mỗi trường học…
III.2. Kiến nghị:
Như trên đã đề cập giáo viên chủ nhiệm có vai trò hết sức to lớn trong
vấn đề giáo dục toàn diện học sinh. Tuy nhiên một số giáo viên vẫn chưa thấy
rõ vai trò này, coi nhẹ công tác chủ nhiệm. Theo tôi hàng năm, nên có cuộc
họp bổ nhiệm giáo viên chủ nhiệm, đưa ra các tiêu chí yêu cầu giáo viên chủ
nhiệm phải làm và đạt được gì trong một năm học, nếu giáo viên chủ nhiệm
nào chưa đạt được các tiêu chí thì cần bãi nhiệm, thậm chí miễn nhiệm, tùy
theo kết quả mà họ đã đạt được. Những giáo viên chủ nhiệm đã đạt được, thậm
chí vượt các tiêu chí yêu cầu, thì cần có các chế độ ưu đãi riêng, để động viên
khuyến khích kịp thời, chẳng hạn tặng bằng khen giáo viên chủ nhiệm giỏi,
tuyên dương trước trường, trước Ngành.
Giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và
phát triển nhân cách học sinh, nhưng công tác chủ nhiệm từ lâu chỉ được xem
là công tác kiêm nhiệm, khi còn ngồi trên giảng đường Cao đẳng – Đại học,
mỗi giáo viên chỉ được làm quen với công tác chủ nhiệm trong 2 tháng thực
tập, chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ làm công tác chủ nhiệm. Từ lý thuyết đến
thực tiễn đã là một khoảng cách xa mà mỗi giáo viên lại được trang bị quá ít
kiến thức về công tác chủ nhiệm nên khi bước vào thực hành, chúng tôi đều rất
lúng túng, gặp không ít khó khăn. Vì vậy, kính mong các cấp lãnh đạo thường
xuyên xây dựng chương trình bồi dưỡng giáo viên chủ nhiệm theo định kỳ
giúp GVCN tích lũy thêm kinh nghiệm và kiến thức để góp phần quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh, thực sự trở thành tấm
gương đạo đức tự học và sáng tạo để học sinh noi theo.
Trên đây là một vài ý kiến của tôi trong quá trình giáo dục học sinh với
vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của
Hội đồng xét duyệt sáng kiến kinh nghiệm cùng các đồng nghiệp.
22
Xin trân trọng cám ơn Hội đồng và các bạn đồng nghiệp đã dành thời
gian để đọc bài viết này của tôi!
Trang phụ lục
(Các mẫu theo dõi của cán sự lớp, biên bản sinh hoạt lớp)
23
Phụ lục 1
SỔ THEO DÕI HOẠT ĐỘNG CỦA BAN CÁN SỰ LỚP
Tuần thứ :….
Kính thưa cô giáo chủ nhiệm và các bạn HS lớp...
Thay mặt ban cán sự lớp em xin được tổng kết những ưu và nhược điểm của
lớp trong tuần qua:
* Ưu điểm :
Nề nếp :
- Sinh hoạt đầu giờ..........................................................................................................
- Đồng phục..................................................................................................
- Tập thể dục giữa giờ..................................................................................................
- Ăn quà...................................................................................................................
- Nói chuyện..........................................................................................................
- Vắng học, đi trễ....................................................................................................
- Đánh nhau.............................................................................................................
- Làm việc riêng trong giờ học............................................................................
- Những lỗi vi phạm khác...................................................................................
......................................................................................................................................
Học tập:
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
* Khuyết điểm :
Nề nếp :
- Sinh hoạt đầu giờ..........................................................................................................
- Đồng phục..................................................................................................
- Tập thể dục giữa giờ..................................................................................................
- Ăn quà...................................................................................................................
- Nói chuyện..........................................................................................................
- Vắng học, đi trễ....................................................................................................
- Đánh nhau.............................................................................................................
- Làm việc riêng trong giờ học............................................................................
- Những lỗi vi phạm khác...................................................................................
......................................................................................................................................
Học tập:
- Số giờ B, giờ C
- Không học bài...........................................................................................................
- Không làm bài.............................................................................................................
Phụ lục 2
SỔ THEO DÕI VÀ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG, TRỰC NHẬT CỦA
LỚP PHÓ LAO ĐỘNG
24
Tuần thứ :….
Nhận xét việc thực hiện vê sinh, lao động lớp tuần: .......
..................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
................................................................................................................................................
Những vi phạm của các tổ trong tuần: ….
Tổ 1:..................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Tổ 2:..................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Tổ 3:..................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
• Tuần ....
Phạt LĐ- Trực nhật lớp:
Ngày
Thứ 2
Thứ 3
Thứ 4
Thứ 5
Thứ 6
Thứ 7
Tên HS
trực nhật,
LĐ
Công việc
được giao
Phụ lục 3
Phòng giáo dục huyện Eahleo
Trường THCS Lê Hồng Phong
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
EaNam, ngày …..tháng….năm…
25