Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Nghiên cứu các mối liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ mía đường của các hộ nông dân tại xã đồng văn, huyện tân kỳ, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.28 KB, 108 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa từng sử dụng trong bất cứ luận văn, luận án nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khoá luận đều
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2010
Sinh viên

Phạm Thị Thịnh

i


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình, ngoài sự nỗ lực cố gắng của
bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Với lòng biết ơn chân thành, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu
nhà trường, Ban chủ nhiệm Khoa KT&PTNT, cảm ơn các thấy cô giáo đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu trong suốt quá trình rèn
luyện và học tập tại Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình
của cô giáo TS. Nguyễn Phượng Lê người trực tiếp hướng dẫn tôi, cùng toàn
thể các thầy cô giáo khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn - Trường Đại học
Nông Nghiệp Hà Nội đã giúp đỡ tôi thực hiện khoá luận này
Tôi cũng xin gửì lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các cô chú, anh chị
đang công tác tại Phòng NN0&PTNT, UBND huyện Tân Kỳ; Tập thể cán bộ,
công nhân viên Công ty Cổ Phần Mía Đường Sông Con, Cơ sở chế biến Tư
Nhân Hùng Hoàng; các hộ nông dân sản xuất mía đã tham gia phỏng vấn, tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thu thập tài liệu phục vụ
khóa luận.


Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã động viên
tôi và giúp đỡ tôi về vật chất và tinh thần trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu đề tài, để tôi hoàn thành khoá luận một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 05 năm 2010
Sinh viên

Phạm Thị Thịnh

ii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQ
BVTV
CBTN
CC
CCS
CN
CTCPMĐ
DV
ĐBSCL
ĐVT
SX
SL
GTSX

NTTS
NN0&PTNT
TB

THCS
THPT
TTCN
Trđ
UBND
GAP

Bình quân
Bảo vệ thực vật
Chế biến tư nhân
Cơ cấu
Chữ đường
Công nghiệp
Công ty cổ phần mía đường
Dịch vụ
Đồng bằng sông Cửu Long
Đơn vị tính
Sản xuất
Số lượng
Giá trị sản xuất
Lao động
Nuôi trồng thuỷ sản
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Trung bình
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Tiểu thủ công nghiệp
Triệu đồng
Uỷ ban nhân dân
Nguyên tắc sản xuất an toàn


iii


TÓM TẮT
Mía là cây công nghiệp lấy đường quan trọng của ngành công nghiệp
đường. Hơn một thập kỷ qua, ngành mía đường đã có nhiều đóng góp cho nền
kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng vào công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Tuy nhiên những năm gần đây “phong trào” ồ ạt xây dựng nhiều nhà máy quy
mô nhỏ và chưa gắn với công tác quy hoạch vùng nguyên liệu đang đặt ngành
mía đường trước nhiều khó khăn, thách thức.
Sau 7 năm triển khai Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6
năm 2002 của chính phủ về chính sách tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng
xã Đồng Văn cũng đã thu được những thành tựu nhất định trong quá trình liên
kết để sản xuất và tiêu thụ mía. Song bên cạnh đó còn rất hạn chế và chưa
thực sự hiệu quả. Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài “Nghiên cứu các mối liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ mía
đường của các hộ nông dân tại xã Đồng Văn, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An”
nhằm xác định các mối liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ mía, phân
tích đặc điểm cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến các mối liên kết kinh tế đó.
Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các mối liên kết
kinh tế đó.
Điều tra 60 hộ nông dân trồng mía trên địa bàn xã và các cơ sở thu mua
mía trên địa bàn xã, kết quả cho thấy:
- Liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ mía trên địa bàn xã Đồng Văn
diễn ra theo hai hướng liên kết theo chiều ngang và liên kết theo chiều dọc, liên
kết kinh tế diễn ra trong lĩnh vực sản xuất và cả lĩnh vực tiêu thụ mía.
- Liên kết theo chiều ngang trong sản xuất và tiêu thụ mía mới chỉ có
người sản xuất liên kết với nhau, thể hiện trong trao đổi đầu vào như giống,
phân bón, các yếu tố trong quy trình sản xuất như thuê mướn đất, đổi công,

thuê mướn lao động,... Mỗi liên kết theo chiều ngang chủ yếu dựa trên sự thỏa
thuận miệng giữa các tác nhân.

iv


- Liên kết theo chiều dọc trong sản xuất và tiêu thụ mía bao gồm mối
liên kết thông qua hợp đồng chính thống giữa các hộ nông dân trồng mía với
CTCPMĐ Sông Con và liên kết dựa trên sự thỏa thuận miệng giữa cơ sở
CBTN Hùng Hoàng với các hộ nông dân. CTCPMĐ Sông Con tiến hành đầu
tư ứng trước cho nông dân sản xuất và đến cuối vụ thì thu mua sản phẩm cho
nông dân, cơ sở CBTN Hùng Hoàng không đầu tư ứng trước cho nông dân
mà chỉ liên kết với nông dân trong tiệu thụ mía nguyên liệu.
- Hộ nông dân tham gia liên kết có nhiều lợi ích hơn hộ không tham gia
liên kết. Và cơ sở liên kết với nông dân thông qua hợp đồng chính thống có
mức độ chủ động đầu vào cao hơn. Thực tế vẫn có nhiều hộ không tham gia
liên kết với tác nhân nào, nguyên nhân chủ yếu là do người dân hiểu biết rất ít
về mối liên kết đó.
- Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động liên kết kinh tế trong sản
xuất và tiêu thụ mía ở địa phương, xuất phát cả từ phía hộ nông dân trồng mía
và cả cơ sở thu mua, cũng như những biến động của thị trường và chính sách
của nhà nước.
- Để khắc phục được những khó khăn và hạn chế các yếu tố xấu ảnh
hưởng đến liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ mía thì cần thực hiện
đồng bộ giữa giải pháp phát triển ngành mía đường và các giải pháp hoàn
thiện các mối liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ mía. Bên cạnh việc
nâng cao nhận thức cũng như trình độ của người trồng mía cần bổ sung, hoàn
thiện hợp đồng liên kết giữa hộ nông dân trồng mía với cơ sở chế biến; Nâng
cao vai trò của chính quyền địa phương đồng thời có nhiều chính sách khuyến
khích người trồng mía,…


v


MỤC LỤC

vi


DANH MỤC BẢNG

vii


DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ

Đồ thị 4.3 Lý do hộ không tham gia liên kết Error: Reference source not found
Đồ thị 4.4 Quyết định của hộ về liên kết......Error: Reference source not found

viii


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Mía là cây công nghiệp lấy đường quan trọng của ngành công nghiệp
đường. Đường là loại thực phẩm không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày
của con người, cũng như là loại nguyên liệu quan trọng của nhiều ngành sản
xuất công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như bánh kẹo...
Hơn một thập kỷ qua, ngành mía đường đã có nhiều đóng góp cho nền
kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng vào công cuộc xoá đói giảm nghèo,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một số vùng. Nhiều nhà máy được mở rộng và
xây mới, đưa tổng số nhà máy đường lên 44 đủ năng lực hàng năm chế biến
từ 12-15 triệu tấn mía nguyên liệu, mỗi năm sản xuất được trên 1,2 triệu tấn
đường [Báo cáo Bộ NN và PTNT, 2006]. Từ năm 2000 đến nay về cơ bản đã
đáp ứng được nhu cầu đường tiêu dùng trong nước.
Tuy nhiên, “phong trào” ồ ạt xây dựng nhà máy đường không chỉ với
quy mô “mini” mà còn chưa có sự gắn kết với công tác quy hoạch vùng
nguyên liệu, một số nhà máy nhập thiết bị công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ
cộng với công tác điều hành yếu kém đã làm cho giá thành sản phẩm bình
quân của các nhà máy đường lên cao nên khả năng cạnh tranh để xuất khẩu
đối với sản phẩm này hầu như không có. Mặt khác, do không bảo đảm nguồn
nguyên liệu đầu vào ổn định, nên tỷ lệ sử dụng công suất bình quân của các
nhà máy đường trong những năm qua đạt rất thấp. Niên vụ mía 2008-2009 là
niên vụ thứ 2 ngành mía đường thực hiện Quyết định số 26/2007/QĐ-TTg của
chính phủ nhưng diện tích trồng mía cả nước chỉ đạt 270.600 ha, giảm 36.000
ha so với vụ trước [Thúy Nga, 2009]. Để các nhà máy đường có nguồn
nguyên liệu mía ổn định và chủ động, nâng cao dần công suất hoạt động và
hiệu quả sản xuất kinh doanh, vấn đề nghiên cứu để phát triển vùng nguyên
liệu mía có ý nghĩa hết sức quan trọng.

1


Xã Đồng Văn là một xã miền núi có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
thuận lợi cho phát triển cây mía. Hiện nay cây mía được xác định là cây có vị
trí quan trọng của địa phương, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo,
tăng thêm thu nhập cho các hộ nông dân trồng mía. Sau 7 năm triển khai
Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002 của chính phủ về
chính sách tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng đã mở ra hướng đi tích cực
giúp cho sản xuất nông nghiệp gắn với chế biến, tiêu thụ, thu hút nhiều doanh

nghiệp và nông dân tham gia. Xã Đồng Văn cũng đã thu được những thành
tựu nhất định trong quá trình liên kết để sản xuất và tiêu thụ mía. Thông qua
hợp đồng tiêu thụ mía, bước đầu đã gắn trách nhiệm giữa các xí nghiệp với
người sản xuất.
Bên cạnh những kết quả đạt được sản xuất mía ở xã Đồng Văn vẫn còn
tồn tại nhiều vấn đề về vốn, kỹ thuật cho nông dân…Tuy nhiên vấn đề lớn
nhất mà các hộ trồng mía đang phải đối mặt đó chính là đầu ra cho sản phẩm.
Hiện nay trên địa bàn xã đã hình thành nên các mối liên kết giữa những người
sản xuất, giữa người sản xuất và cơ sở thu mua, chế biến. Song còn rất hạn
chế và chưa thực sự hiệu quả, doanh nghiệp và hộ nông dân chưa thực sự gắn
bó và thực hiện đúng cam kết đã ký, doanh nghiệp chưa quan tâm đến đầu tư
vùng nguyên liệu…
Để góp phần giải quyết những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu các mối liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ
mía đường của các hộ nông dân tại xã Đồng Văn, huyện Tân Kỳ, tỉnh
Nghệ An”.

2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu các mối liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ mía
đường của các hộ nông dân tại xã Đồng Văn, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường các mối liên kết và đảm bảo lợi ích cho nông dân và
các tác nhân tham gia vào liên kết.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
 Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về liên kết kinh tế, hợp đồng
liên kết kinh tế
 Xác định các mối liên kết kinh tế và đặc điểm của các mối liên kết

kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ mía của hộ nông dân tại xã Đồng Văn
 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến các mối liên kết kinh tế trong sản
xuất và tiêu thụ mía của hộ nông dân tại xã Đồng Văn
 Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các mối liên
kết kinh tế, bảo đảm lợi ích cho các bên tham gia
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Hộ nông dân trồng mía, các cơ sở thu mua mía nguyên liệu
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các mối liên kết kinh tế trong sản
xuất và tiêu thụ mía
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện tại xã Đồng Văn, huyện
Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An
- Phạm vi về thời gian:
+ Đánh giá thực trạng qua 3 năm 2007-2009
+ Đề tài nghiên cứu được tiến hành từ ngày 23/12/2009 đến 26/5/2009

3


PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Khái niệm về liên kết kinh tế
2.1.1.1 Khái niệm về liên kết kinh tế
Theo từ điển Thuật ngữ kinh tế học của viện nghiên cứu và phổ biến tri
thức bách khoa thì “liên kết kinh tế là hình thức hợp tác phối hợp hoạt động
do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật nhà nước”. Mục
tiêu là tạo mối liên kết kinh tế ổn định thông qua các hoạt động kinh tế hoặc
các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt các tiềm

năng của các đơn vị tham gia liên kết để tạo ra thị trường tiêu thụ chung và
bảo vệ lợi ích cho nhau.[9]
Theo quyết định số 38/1989/QĐ – HĐBT ngày 4 tháng 4 năm 1989 của
Hội đồng bộ trưởng về liên kết kinh tế trong sản xuất lưu thông và dịch vụ và
các văn bản của nhà nước thì liên kết kinh tế được hiểu là những hình thức
phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tiến hành để cùng nhau bàn bạc và
đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất kinh
doanh của mình nhằm thúc đẩy sản xuất theo hướng có lợi nhất.
Tác giả Phạm Thị Minh Nguyệt (2006) cho rằng: “ Liên kết kinh tế
chính là những phương thức hoạt động của các hình thức hợp tác kinh tế, liên
kết kinh tế phát triển ngày càng phong phú, đa dạng theo sự phát triển của hợp
tác kinh tế; tất cả các mối quan hệ kinh tế được hình thành giữa hai hay nhiều
đối tác với nhau dựa trên những hợp đồng đã ký kết với những thoả thuận
nhất định được gọi là liên kết kinh tế”.
Nếu xét về vai trò, quan hệ kinh tế giữa các tác nhân từ sản xuất đến
tiêu dùng, người ta phân thành liên kết dọc và liên kết ngang
Liên kết theo chiều dọc là liên kết được thực hiện theo trật tự các khâu
của quá trình sản xuất kinh doanh (theo dòng vận động của sản xuất). Kiểu

4


liên kết theo chiều dọc toàn diện nhất bao gồm các giai đoạn từ sản xuất, chế
biến nguyên liệu đến phân phối thành phẩm. Trong mối liên kết này, thông
thường mỗi tác nhân tham gia vừa có vai trò là khách hàng của tác nhân trước
đó đồng thời là người cung cấp sản phẩm cho tác nhân tiếp theo của quá trình
sản xuất kinh doanh. Kết quả của liên kết dọc là hình thành nên chuỗi giá trị
của một ngành hàng và có thể làm giảm đáng kể chi phí vận chuyển, chi phí
cho khâu trung gian. [1].
Liên kết theo chiều ngang là hình thức liên kết mà trong đó mỗi tổ chức

hay cá nhân tham gia là một đơn vị hoạt động độc lập nhưng có mối quan hệ
với nhau thông qua bộ máy kiểm soát chung. Trong liên kết này mỗi thành
viên tham gia có sản phẩm hoặc dịch vụ cạnh tranh nhau nhưng họ liên kết lại
để nâng cao khả năng cạnh tranh cho từng thành viên nhờ phát huy tính lợi
ích kinh tế nhờ quy mô của tổ chức kinh tế. Kết quả của liên kết theo chiều
ngang hình thành nên những tổ chức liên kết như hợp tác xã, liên minh, hiệp
hội…và cũng có thể dẫn đến độc quyền trong một thị trường nhất định. Với
hình thức liên kết này, ngành nông nghiệp có thể hạn chế được sự ép cấp, ép
giá nông sản của các cơ sở chế biến nhờ sự làm chủ thị trường nông sản. [3].
Như vậy liên kết kinh tế là sự biểu hiện của chế độ hợp tác, nó phản
ánh mối quan hệ về hợp tác và phân công lao động trong các quá trình sản
xuất xã hội của các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế, các thành phần
kinh tế…Liên kết kinh tế là sự hợp tác, phối hợp giữa các chủ thể kinh tế trên
cơ sở tự nguyện nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi nhất.
Liên kết kinh tế có thể diễn ra trong mọi ngành sản xuất kinh doanh thu hút
tất cả sự tham gia của tất cả các chủ thể kinh tế có nhu cầu của mọi thành
phần kinh tế và không bị giới hạn bởi phạm vi địa lý.
2.1.1.2 Đặc trưng của liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là một phạm trù khách quan phản ánh những quan hệ
xuất phát từ lợi ích kinh tế khác nhau của những chủ thể kinh tế cũng như quá

5


trình vận động và phát triển theo tự nhiên của lực lượng sản xuất, xuất phát từ
trình độ, phạm vi của phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất
kinh doanh [2].
Liên kết kinh tế là những quan hệ kinh tế đạt tới trình độ gắn bó chặt
chẽ, ổn định, thường xuyên, lâu dài thông qua những thoả thuận, hợp đồng từ
trước giữa các bên tham gia liên kết. Tuy nhiên không phải tất cả các quan hệ

kinh tế nào cũng là liên kết kinh tế. Những quan hệ kinh tế nhất thời, những
trao đổi ngẫu nhiên không thường xuyên giữa các chủ thể kinh tế không phải
là liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế là một quá trình làm xích lại gần nhau và ngày càng cố
kết với nhau, trên tinh thần tự nguyện giữa các bên tham gia liên kết. Quá
trình này vận động, phát triển qua những nấc thang từ quan hệ hợp tác, liên
doanh đến liên hợp, liên minh, hợp nhất lại. Như vậy phân công lao động và
chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh là điều kiện hình thành các liên kết kinh
tế còn hợp tác hoá, liên hợp hoá là những hình thức biểu hiện của những nấc
thang, những bước phát triển của liên kết kinh tế. [3].
Liên kết kinh tế là những hình thức hoặc biểu hiện của sự hành động
giữa chủ thể liên kết thông qua những thoả thuận, những giao kèo, hợp đồng,
hiệp định, điều lệ…nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong tất cả các
lĩnh vực khác nhau của hoạt động kinh tế (đầu tư, sản xuất, kinh doanh…).
Tuỳ theo góc độ xem xét, quá trình liên kết có thể diễn ra liên kết theo ngành,
liên kết giữa các thành phần kinh tế, liên kết theo vùng lãnh thổ…
2.1.1.3 Những nguyên tắc cơ bản trong liên kết kinh tế
Một là, phải đảm bảo sản xuất kinh doanh của các chủ thể tham gia liên
kết phát triển và có hiệu quả ngày càng tăng
Dù liên kết kinh tế dưới hình thức và mức độ nào đi nữa thì yêu cầu của
hoạt động liên kết kinh tế ấy phải đảm bảo để sản xuất và kinh doanh của chủ
thể tham gia không ngừng phát triển, doanh thu ngày càng tăng, năng suất và

6


chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Liên kết kinh tế phải nâng cao được trình
độ công nghệ, mở rộng mặt hàng, sản xuất ngày càng phù hợp với nhu cầu thị
trường, giá thành hạ, đem lại nhiều lợi nhuận cho các chủ thể trên cơ sở giá
bán và chất lượng sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận.

Hai là, phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và tự chịu trách nhiệm giữa
các bên tham gia liên kết.
Các hoạt động hợp tác, liên kết kinh tế giữa các chủ thể tham gia được
thực hiện một cách thuận lợi, trôi chảy, thành công và đem lại hiệu quả cao
khi các chủ thể tự nguyện tìm đến với nhau, tự thoả thuận quan hệ hợp tác,
liên kết làm ăn với nhau lâu dài trên tinh thần bình đẳng, cùng chịu trách
nhiệm đến cùng về các thành công cũng như thất bại và rủi ro. Tất cả các hình
thức hợp tác, liên kết kinh tế, tổ chức kinh tế được thiết lập trên cơ sở những
ý đồ không xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, từ những liên hệ tất yếu về
phương diện kinh tế, nghĩa là tiến hành trên cơ sở gò bó, gượng ép bắt buộc
đều hoạt động không thành công, kém hiệu quả.
Ba là, phải bảo đảm sự thống nhất hài hoà lợi ích kinh tế giữa các bên
tham gia liên kết.
Lợi ích kinh tế chính là động lực thúc đẩy các bên tham gia liên kết
kinh tế với nhau, là chất kết dính với nhau trong quá trình liên kết. Các bên
tìm đến với nhau thoả thuận tiến hành hợp tác, liên kết với nhau vì họ tìm
thấy những lợi ích lâu dài. Cho nên việc đảm bảo thống nhất hài hoà lợi ích
giữa các bên sẽ tạo nên chất kết dính bền vững. Khi lợi ích kinh tế của một
hoặc một số chủ thể nào đó bị xâm phạm hoặc thiếu sự công bằng, thống nhất
sẽ tạo ra sự rạn nứt của mối liên hệ bền vững, dẫn đến sự phá vỡ tổ chức liên
kết, mối liên hệ đã được thiết lập. Sự phân chia lợi nhuận, phổ biến thiệt hại,
rủi ro, các tính toán về chi phí giá cả…cần được tiến hành thoả thuận, bàn bạc
một cách công khai, dân chủ, bình đẳng và đảm bảo công bằng trên cơ sở
những đóng góp của các bên liên kết. [3].

7


Bốn là, phải thực hiện được trên cơ sở những ràng buộc pháp lý giữa
các bên tham gia ràng buộc giữa các bên tham gia liên kết, và thông qua hợp

đồng kinh tế.
Hợp đồng kinh tế là khế ước, là những thoả thuận, những điều khoản
ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi giữa các bên tham gia liên kết,
được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt
động kinh tế đều phải tiến hành trên cơ sở pháp luật của Nhà nước cho phép,
đồng thời được pháp luật bảo hộ những tranh chấp giữa các bên quan hệ làm
ăn với nhau. Cho nên, để có những căn cứ pháp lý cho các cơ quan pháp luật
phán quyết nhưng tranh chấp giữa các bên có quan hệ kinh tế với nhau đều
phải có khế ước hay hợp đồng kinh tế được ký kết theo đúng luật pháp của
quốc gia. Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, mọi mối liên
kết kinh tế muốn phát triển lâu dài, cần phải thực hiện theo đúng pháp luật,
phải thông qua hợp đồng kinh tế. Có như vậy nhà nước mới đủ căn cứ pháp lý
để giải quyết tranh chấp, bất đồng xảy ra giữa các bên. Đối với hoạt động liên
kết kinh tế là những mối quan hệ kinh tế ổn định, thường xuyên, lâu dài lại
càng cần được tiến hành qua hợp đồng kinh tế. Nó còn là những căn cứ để các
bên tiến hành đàm phán giải quyết những bất đồng, tranh chấp nhỏ xảy ra
giữa các bên, làm cho các quan hệ kinh tế liên kết ngày càng bền chặt hơn.
Việc thực hiện tốt các hợp đồng kinh tế sẽ tạo thuận lợi cho các bên tham gia
liên kết thực hiện tốt các kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình.
Sự phát triển của liên kết kinh tế làm cho lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, mực độ tập trung hoá ngày càng cao, làm cho các khu vực kinh tế
ngày càng xích lại gần nhau, gắn bó với nhau hơn. Liên kết kinh tế là sợi dây,
là chất nhựa gắn bó các doanh nghiệp, các chủ thể liên kết lại với nhau trên cơ
sở đảm bảo lợi ích sống còn trên thị trường. Hoạt động liên kết kinh tế là
nhằm phát triển, tìm kiếm, khai thác ngày càng nhiều nguồn nguyên liệu cho
sản xuất, đa dạng hoá mặt hàng, tăng nhanh khối lượng và chất lượng sản

8



phẩm, rút ngắn và đẩy nhanh quá trình lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng
và phát triển thị trường, tức là nâng cao năng suất lao động, tồn tại, phát triển
và mang lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao. [7]
Tùy từng loại hình tổ chức và yêu cầu của sản xuất kinh doanh, mức độ
liên kết giữa các thành viên có thể theo từng loại công việc, từng bước của
công nghệ sản xuất, theo từng loại sản xuất hoặc theo từng lĩnh vực hoạt động
chuyên môn hóa cũng như cung ứng, chuẩn bị sản xuất, bảo quản, tiêu thụ…
2.1.1.4 Vai trò của liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là một hình thức đem lại lợi ích chắc chắn cho các bên
liên quan. Khác với mọi liên kết lỏng lẻo giữa nông dân và các doanh nghiệp
chế biến, tiêu thụ sản phẩm, liên kết kinh tế thông qua hợp đồng loại bỏ các
tầng lớp mua bán trung gian nên trực tiếp bảo vệ được người sản xuất, nhất là
người nghèo khi bán sản phẩm. Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp chế
biến và hộ nông dân cho phép xóa bỏ độc quyền đối với doanh nghiệp trong
việc ép cấp, ép giá khi mua sản phẩm của người nông dân. Mặt khác, thực
hiện liên kết thông qua hợp đồng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến
có nguồn cung cấp ổn định để phấn đấu giảm giá thành, tăng chất lượng sản
phẩm, nâng cao được năng lực cạnh tranh đối với sản phẩm của mình trên thị
trường trong nước và quốc tế. [6]
Thực hiện liên kết thông qua hợp đồng giúp cho các cơ sở chế biến,
xuất khẩu có điều kiện mở rộng quy mô hoạt động do có sự đảm bảo ổn định
về số lượng, chất lượng và tiến độ của nông sản cung cấp cho sản xuất.
Như vậy, việc thực hiện liên kết theo hợp đồng sẽ đưa lại lợi ích cho cả
hai bên, tạo nên cơ hội để đầu tư theo chiều sâu, áp dụng đồng bộ công nghệ,
kỹ thuật mới để phát triển sản xuất một cách bền vững. Việc tăng khả năng
tiếp cận các công nghệ, kỹ thuật mới còn giúp người nông dân giải phóng
được sức lao động, cho phép giảm giá thành và tăng khả năng cạnh tranh của
hàng nông sản. Đây là hướng tích cực và có nhiều triển vọng giúp cho hàng

9



triệu hộ nông dân sản xuất nhỏ chưa có điều kiện tích lũy đất đai và điều kiện
áp dụng công nghệ mới trong sản xuất, đồng thời là chìa khóa mở lối thoát
cho thị trường nông sản Việt Nam.
Nhờ chuyển tổ chức sản xuất từ liên kết ngang (người sản xuất/ người
thu gom/ người kinh doanh lớn xuất khẩu…) sang hình thức liên kết dọc theo
ngành hàng (sản xuất – chế biến – tiêu thụ), liên kết kinh tế thông qua hợp
đồng giữa người sản xuất nguyên liệu và doanh nghiệp chế biến đem lại tác
dụng to lớn sau:
- Chuyển một phần lợi nhuận của người mua bán trung gian hoặc công
ty kinh doanh sang cho người sản xuất, trực tiếp đầu tư phát triển vùng
nguyên liệu.
- Chia sẻ một phần rủi ro trong sản xuất nông nghiệp sang cho các cơ
sở chế biến, tiêu thụ tham gia gánh chịu, người sản xuất nông nghiệp chỉ còn
chịu rủi ro ở khâu sản xuất nguyên liệu.
- Nối kết thông tin hai chiều giữa thị trường tiêu dùng với người sản
xuất, nhờ đó sản phẩm đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, vệ
sinh an toàn thực phẩm do thị trường đòi hỏi, trên cơ sở đó tăng được khả
năng cạnh tranh và nâng cao được giá trị của sản phẩm.
- Thông qua hợp đồng sẽ tập trung được nhiều hộ sản xuất tiểu nông
nhỏ lẻ thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung với chất lượng đồng đều và
ổn định.
- Gắn kết được công nghiệp chế biến và hoạt động kinh doanh phục vụ
với địa bàn nông thôn, góp phần quan trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng đa dạng hóa, công nghiệp hóa – công nghiệp phát triển.
- Thông qua liên kết, các đơn vị kinh tế, các tổ chức có điều kiện hỗ
trợ, giúp cho các nhóm hộ, hợp tác xã phát triển, tạo ra những khả năng để
phát triển năng lực nội tại của kinh tế hộ, đồng thời tạo lập môi trường kinh tế
- xã hội cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển.


10


Có thể tóm tắt những lợi ích của quá trình thực hiện liên kết đối với các
bên tham gia thông qua nội dung chủ yếu sau đây:
- Đối với sản xuất nguyên liệu, đặc biệt là hộ nông dân:
 Bảo đảm ổn định được thị trường tiêu thụ và giảm rủi ro về giá cả đối
nông sản sản xuất ra.
 Được hỗ trợ về giống, vốn, kỹ thuật và các thông tin trên thị trường nên
khắc phục được nhiều hạn chế của hộ nông dân, đồng thời tạo điều kiện
cho hộ nông dân tiếp cận với công nghệ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến.
 Ổn định và phát triển được sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo
cho một bộ phận nông dân ở các vùng khó khăn.
- Đối với doanh nghiệp chế biến nông lâm sản:
 Bảo đảm có nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định và chất lượng cao,
đồng đều, đáp ứng theo yêu cầu kỹ thuật của xuất nên có thể mở rộng
được theo quy mô hoạt động, tăng được chất lượng sản phẩm đầu ra.
 Do có nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định, nên các đơn vị giảm chi phí
thu mua vật liệu, tạo ra nhiều khả năng hạ giá thành và nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
 Giảm thiểu được các rủi ro nên các doanh nghiệp có thể lập được kế
hoạch sản xuất kinh doanh lâu dài, ổn định và phát triển sản xuất bền
vững.
2.1.2 Các hình thức liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp
2.1.2.1 Liên kết thông qua hợp đồng chính thống
Liên kết thông qua hợp đồng chính thống là quan hệ mua bán chính
thức được thiết lập giữa các tác nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản
phẩm.

Eaton và Shepherd (2001) định nghĩa liên kết thông qua hợp đồng hợp
đồng chính thống là “thỏa thuận giữa những người nông dân với các doanh

11


nghiệp chế biến hoặc doanh nghiệp kinh doanh trong việc sản xuất và cung
cấp các sản phẩm nông nghiệp dựa trên thỏa thuận giao hàng trong tương lai,
giá cả đã định trước”.
Theo Sykuta và Parcell (2003), hợp đồng trong sản xuất, chế biến và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp đưa ra những luật lệ cho việc giao dịch nông sản qua
việc phân bổ thật rõ 3 yếu tố chính: lợi ích, rủi ro và quyền quyết định.
Như vậy, bản chất của hình thức sản xuất theo hợp đồng hoàn toàn
khác với hình thức giao ngay mang tính truyền thống (đó là mua bán trực tiếp
hoặc thông qua các chợ) hoặc giao dịch giao sau. Điểm khác biệt về bản chất
của ba hình thức giao dịch này chính là cơ chế hình thành giá. Đối với giao
dịch ngay, giá thỏa thuận trên hợp đồng phản ánh cung cầu thị trường hiện tại;
đối với giao dịch giao sau, giá cả phản ánh cung cầu thị trường tương lai; đối
với sản xuất theo hợp đồng, giá cả phản ánh lợi ích, rủi ro và quyền quyết
định của người mua và người bán. Điều này có nghĩa là, giá đã được thỏa
thuận phía đảm bảo người bán thu được lợi ích nhất định và người mua có thể
mua hàng với mức giá có thể chấp nhận được; cho dù vào thời điểm giao
hàng, giá thị trường có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá thỏa thuận.
Có thể phân loại liên kết thông qua hợp đồng theo cấu trúc tổ chức của
hợp đồng. Cấu trúc tổ chức của sản xuất theo hợp đồng phụ thuộc vào quy
trình sinh học của sản phẩm nông nghiệp, nguồn lực của doanh nghiệp chế biến,
tiêu thụ và tính chất của mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp chế biến,
tiêu thụ. Eaton và Shepherd (2001) đã chia các hình thức sản xuất theo hợp đồng
trong nông nghiệp thành 4 hình thức, đó là: Hình thức tập trung, hình thức trang
trại tập trung, hình thức đa thành phần, hình thức trung gian.

* Hình thức tập trung
Hình thức tập trung là hình thức các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ
trực tiếp ký hợp đồng với nông dân. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm cung cấp
hầu hết các yếu tố đầu vào, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và giám sát toàn bộ

12


quá trình sản xuất từ khâu xuống giống đến khâu thu hoạch. Nông dân chịu
trách nhiệm cung cấp nguồn lực đầu vào là đất đai, chuồng trại và công lao
động để thực hiện khâu trực tiếp sản xuất mang tính sinh học. Bản chất của
mô hình này là sản xuất theo hợp đồng gia công. Lợi ích và rủi ro được chia
sẻ giữa các bên tham gia hợp đồng tùy theo sự đóng góp của mỗi bên nhưng
quyền quyết định thuộc về doanh nghiệp.
Hình thức liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân là
mô hình liên kết kinh tế giữa một bên là doanh nghiệp công nghiệp chế biến
nông sản với nông dân là những người sản xuất và cung ứng nông sản nguyên
liệu để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội.
Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân mang bản
chất kinh tế - chính trị - xã hội rất sâu sắc.
Về mặt kinh tế, đó là mối quan hệ liên kết giữa công nghiệp và nông
nghiệp; là hai khâu nối tiếp nhau trong quá trình sản xuất và chế biến nông
sản phẩm.
Về mặt chính trị, liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với nông
dân lại là cơ sở vật chất của mối quan hệ liên minh công nhân với nông dân.
Về mặt xã hội, đó là một trong những cơ sở nền tảng của mối quan hệ
giữa nông thôn và thành thị. Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến với
nông dân là một trong nhiều mối quan hệ trao đổi kinh tế hàng hóa giữa nông
thôn với thành thị, tạo cơ sở để quan hệ thành thị, nông thôn phát triển ra
nhiều lĩnh vực khác như trao đổi tín dụng, tiền tệ, giao thông, thông tin liên

lac…
Đặc điểm của hình thức liên kết tập trung
Hình thức này thường chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp có nhà máy
chế biến đủ khả năng mua hết sản phẩm của nông dân trồng vùng và người
nông dân có diện tích đất lớn thì khi đó họ cần sản xuất theo hợp đồng để đảm
bảo nông dân tiêu thụ hết. Ngoài ra, hình thức này còn áp dụng cho trường

13


hợp có tính chuyên biệt (đặc thù) về tài sản như con người, vật chất và địa
điểm. Ví dụ như sản xuất sản phẩm hữu cơ, theo GAP, HACCP.
* Hình thức trang trại hạt nhân
Hình thức trang trại hạt nhân tương tự như hình thức tập trung, nhưng
bên mua sản phẩm và doanh nghiệp nắm quyền sở hữu đất đai, chuồng trại,
vườn cây. Bên bán sản phẩm chỉ được thực hiện hoạt động sản xuất tạo ra sản
phẩm và bán lại sản phẩm cho doanh nghiệp. Hình thức này hình thành kể từ
khi thực hiện nghị định của chính phủ số 01/CP ngày 04/01/1995 về việc
“giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản trong các doanh nghiệp nhà nước và nay theo nghị định số
135/2005/NĐ – CP ngày 08/11/2005 về giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng
sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản trong các nông trường quốc
doanh, lâm trường quốc doanh”. Trong hình thức này, giữa người sản xuất và
người mua ký một hợp đồng gọi là “hợp đồng khoán” [8]. Đây chính là kiểu
sản xuất theo hợp đồng với hình thức trang trại hạt nhân. Hình thức này hình
thành dựa trên cơ sở doanh nghiệp quy mô lớn nhưng chỉ làm dịch vụ đầu vào
– đầu ra cho các trang trại gia đình tham gia ký hợp đồng với doanh nghiệp,
họ thực hiện các quá trình sản xuất gắn với cây trồng, vật nuôi. Để hợp đồng
đã ký được thực hiện nghiêm chỉnh thì doanh nghiệp phải làm đủ và đúng
chức năng của mình đối với những hộ gia đình nhận khoán.

Đặc điểm của hình thức liên kết trang trại hạt nhân
Hình thức này nông dân sản xuất trên nông trại của doanh nghiệp kinh
doanh, chế biến nông sản. Đây là hình thức doanh nghiệp tự đầu tư vùng
nguyên liệu để chế biến sản phẩm tiêu thụ. Doanh nghiệp kinh doanh nông
nghiệp giữ vai trò định hướng sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật (khuyến nông)
cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra theo nguyên tắc sản xuất an toàn (GAP).
Giám sát các hoạt động kinh doanh sản xuất trên vườn cây… Quan hệ giữa
doanh nghiệp giao khoán và bên nhận khoán được thiết lập theo nguyên tắc

14


thị trường, thuận mua, vừa bán. Doanh nghiệp có nông trại quy mô lớn, có
nhà máy chế biến, đủ tiềm lực tài chính và kỹ thuật để cung cấp cho nông
dân. Mô hình này phù hợp với các cây lâu năm. Hình thức này cũng có ý
nghĩa và tác dụng như hình thức tập trung. Ngoài ra hình thức này góp phần
nâng cao hiệu quả của các nông trại nhà nước và các dự án di dân, tái định cư.
* Hình thức đa chủ thể
Hình thức đa chủ thể tham gia hợp đồng sản xuất nông nghiệp ở Việt
Nam thường gọi là mô hình “liên kết 4 nhà”. Tham gia hình thức này bao
gồm nhiều chủ thể khác nhau như: Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ nông dân. Đặc điểm của hình thức này là các chủ thể khác nhau
sẽ có trách nhiệm và vai trò khác nhau. Trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò
hạt nhân gắn kết nhà khoa học với nông dân, gắn kết nhà tài chính với nông
dân và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Doanh nghiệp là người quyết định
việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân, nên họ biết được thị trường cần gì để đặt
hàng cho nông dân sản xuất. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng chính là người đặt
hàng cho các nhà khoa học, ngân hàng, cung cấp các dịch vụ cho mình và cho
nông dân. Vai trò của nhà nước là xử lý các mối quan hệ giữa các bên ký kết
hợp đồng, quy hoạch vùng sản xuất, đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng, giải

quyết các vấn đề khó khăn nảy sinh do thị trường, thiên tại gây ra và vận động
giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các bên tham gia sản
xuất theo hợp đồng.
- Mục đích chung của mô hình liên kết bốn nhà:
• Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của “các nhà”, tận dụng có hiệu
quả nhất tiềm năng, lợi thể so sánh về sản xuất nông nghiệp của nước ta
nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng sức cạnh
tranh trên thị trường, xuất khẩu thu nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

15


• Hai là, thông qua đó tăng cường cải tiến quản lý nhà nước cải cách hành
chính – đưa nền hành chính thực sự vì dân phục vụ. Mặt khác, từ đó phát
triển khoa học công nghệ, gắn khoa học với sản xuất nông nghiệp, đưa
các nhà khoa học về trực tiếp phục vụ nông dân, nông thôn.
• Ba là, tăng cường sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà kinh doanh
(DN) hướng vào mục tiêu, đối tượng chung là phục vụ sản xuất nông
nghiệp – là nhà nông, và thông qua đó mà tạo điều kiện để mọi nhà
kinh doanh đều phát triển kinh doanh có hiệu quả.
• Bốn là, về phương thức hành động không phải chỉ liên kết song
phương (từng “nhà” riêng biệt với nhà nông) mà còn liên kết tổng hợp,
tác động qua lại giữa các “nhà” với nhau, hỗ trợ cho mỗi nhà thực hiện
tốt vai trò, chức năng hoạt động của mình.
- Các nguyên tắc liên kết trong mô hình:
Mục đích chung chỉ có thể đạt được khi sự liên kết diễn ra theo các nguyên
tắc cơ bản sau đây:
• Với nhà nước: Thực hiện được các nguyên tắc quản lý vĩ mô về kinh tế
như: tập trung dân chủ; phân công phân cấp mạnh cho cấp dưới và cơ sở

kinh doanh; vận dụng có hiệu quả các quy luật khách quan, đặc biệt là các
quy luật, phạm trù của kinh tế thị trường; hiệu quả kinh tế kết hợp hài hòa
các lợi ích nhà nước, tập thể, cá nhân người lao động, trong đó lợi ích cá
nhân là động lực trực tiếp…
• Với các “nhà” khác: Tuân thủ pháp luật; thích nghi với thị trường; tự
nguyện, bình đẳng, dân chủ; hiệu quả kinh doanh và cùng có lợi.
Đặc điểm của hình thức liên kết đa chủ thể
Đặc trưng của hình thức này là mối quan hệ đa chiều. Các bên có trách
nhiêm, nghĩa vụ riêng và lấy nông dân làm trung tâm. Khó khăn ở mô hình
này là nhiều người tham gia nên đòi hỏi việc phân chia trách nhiệm phải rõ
ràng và phải có sự phối hợp tốt giữa các bên.

16


Hình thức đa thành phần được áp dụng trong điều kiện sản xuất nông
nghiệp manh mún, lạc hậu. Bản thân nông dân không thể tự giải quyết 3 vấn
đề của nền nông nghiệp hàng hóa là thị trường, công nghệ và vốn, do quy mô
kinh doanh quá nhỏ. Doanh nghiệp chỉ có thể đảm đương vấn đề thị trường
cho nông dân, vốn sẽ do ngân hàng đảm nhận và công nghệ sẽ do nhà khoa
học đảm nhận. Bên cạnh đó cần có các tổ chức dân sự xã hội để thúc đẩy mối
quan hệ xã hội giữa các bên và trên cùng là nhà nước đóng vai trò giải quyết
mâu thuẫn các bên.
Hình thức này có ý nghĩa và tác dụng trong việc chuyển giao khoa học
kỹ thuật hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Sản xuất theo hình
thức này sẽ tạo ra vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn theo tiêu chuẩn
quốc tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
* Hình thức trung gian
Đây là hình thức doanh nghiệp ký hợp đồng mua sản phẩm của nông dân
thông qua các đầu mối trung gian như hợp tác xã, tổ hợp tác, nhóm công dân

hoặc người đại diện cho một số hộ nông dân. Đặc điểm của hình thức này là
doanh nghiệp không ký kết hợp đồng trực tiếp với nông dân mà thay vào đó là
doanh nghiệp thuê các tổ chức trung gian thực hiện vai trò của mình.
Quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp với nông dân theo hình thức trung
gian sẽ góp phần giúp cho các doanh nghiệp giảm đầu mối ký hợp đồng,
nhưng doanh nghiệp cũng sẽ gặp rủi ro lớn khi đối tác trung gian không thực
hiện tốt vai trò của mình.
Đặc điểm của hình thức liên kết trung gian
Mỗi cá nhân hoặc mỗi tổ chức trung gian này có trách nhiệm kiểm soát
và giám sát hoạt động sản xuất của nông dân và chịu toàn bộ trách nhiệm
trong nông trại từ gieo hạt cho đến khi thu hoạch theo quy định của doanh
nghiệp và họ được hưởng hoa hổng cho việc kiểm soát và giám sát.

17


×