Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Công tác tư tưởng với việc ổn định tình hình chính trị xã hội ở tây nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.65 KB, 103 trang )

LUẬN VĂN:

Công tác tư tưởng với việc ổn
định tình hình chính trị - xã hội ở
Tây Nguyên hiện nay


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ổn định chính trị - xã hội là thành quả tổng hợp của sức mạnh kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa và sức mạnh an ninh, quốc phòng. Ổn định về chính trị - xã hội chỉ thật sự
vững chắc khi các lĩnh vực khác cũng đạt được trạng thái ổn định tương ứng. Sự xáo trộn
hay khủng hoảng ở lĩnh vực nào đó cũng sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định chung
và nếu chậm được khắc phục sẽ dẫn tới mất ổn định chính trị - xã hội, kéo theo những
hậu quả khó lường.
Sau sự sụp đổ của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cuộc đấu tranh
giữa hai hệ tư tưởng Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa vẫn diễn ra gay gắt và quyết liệt.
Bên cạnh cuộc chạy đua vũ trang, tấn công bằng quân sự dưới chiêu bài chống khủng bố và
bao vây, cô lập, gây sức ép về kinh tế, các thế lực thù địch vẫn xác định phá hoại tư tưởng là
mũi nhọn trong triển khai chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ đối với nước ta.
Âm mưu của các thế lực thù địch là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng tìm mọi cách chống phá, trong đó
dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, bảo vệ quyền dân tộc thiểu số để can
thiệp vào công việc nội bộ, gây mất ổn định về chính trị - xã hội, kích động chủ nghĩa ly
khai…Với quan niệm: “Chủ nghĩa dân tộc là một lực lượng hùng hậu nhất cuối thế kỷ XX
có thể sử dụng làm sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa”. Các thế lực thù địch đã gia tăng và
lợi dụng vấn đề dân tộc, tuyên truyền chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gắn vấn đề dân
tộc với tôn giáo để thực hiện mưu đồ kích động ly khai khi đưa ra luận thuyết “Một quốc gia
- một dân tộc”, tìm cách lập các kiểu “vương quốc”, “nhà nước” như: “Vương quốc Mông” ở
Tây Bắc, “Nhà nước Đêga” ở Tây Nguyên, “Nhà nước Khmer Crôm” ở Tây Nam bộ,


“Vương quốc Chăm” ở Nam Trung bộ… nhằm phá vỡ sự thống nhất quốc gia dân tộc của
Việt Nam.


Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế - xã
hội và quốc phòng, an ninh của nước ta. Là địa bàn rất nhạy cảm về kinh tế, văn hoá, dân
tộc, tôn giáo cũng như về an ninh, quốc phòng, Tây Nguyên đang là nơi tập trung nhiều
vấn đề bức xúc về kinh tế, chính trị - xã hội và về công tác tư tưởng. Do vậy từ sau ngày
thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư xây dựng, phát triển kinh
tế - xã hội vùng Tây Nguyên, đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống chính trị các cấp
(nhất là ở cơ sở) nhằm khai thác tiềm năng kinh tế; bảo đảm an ninh, quốc phòng; tổ chức
cho đồng bào các dân tộc phát triển kinh tế, văn hóa, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, từng bước đi lên CNXH. Đến nay, đời sống của đồng bào
các dân tộc thiểu số tuy có được cải thiện, song nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ
đói nghèo còn cao, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tư
tưởng của đồng bào và công tác tư tưởng của Đảng.
Trong những năm qua, đội ngũ những người chuyên trách làm công tác tư tưởng ở
Tây Nguyên đã tăng cường về bám trụ ở cơ sở để nắm bắt diễn biến tư tưởng và tâm
trạng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư
tưởng đã vận động, giáo dục đồng bào giữ gìn và phát huy truyền thống cách mạng, bản
sắc văn hóa dân tộc, sự đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc và tôn giáo, tuyên truyền giải
thích cho đồng bào hiểu rõ các âm mưu, thủ đoạn và các luận điệu lừa bịp của các thế lực
thù địch; cảm hóa, giáo dục và kịp thời tháo gỡ những băn khoăn, bức xúc về tư tưởng để
những người: “lầm đường lạc lối” (vượt biên, gây rối) trở về an tâm làm ăn, hòa nhập với
cộng đồng.v.v. Tuy nhiên, công tác tư tưởng trên địa bàn Tây Nguyên thời gian qua còn
nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, thiếu sắc bén và thiếu kịp thời; tính chiến đấu, tính thuyết
phục chưa cao; chưa làm tốt yêu cầu bồi dưỡng nâng cao tình cảm, niềm tin của cán bộ,
đảng viên và nhân dân các dân tộc thiểu số đối với Đảng và Nhà nước; nội dung tuyên
truyền chưa sát với tâm tư, tình cảm của từng đối tượng, phong tục tập quán của từng dân
tộc nên hiệu quả chưa cao.

Sự kiện bạo loạn chính trị tháng 2/2001, tháng 4/2004 và dịp Noel năm 2004 đã
cho thấy âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên trong chiến lược “Diễn
biến hòa bình” với bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đồng thời cũng gióng lên hồi


chuông cảnh tỉnh về những yếu kém trong hệ thống chính trị nói chung và trong công tác
tư tưởng nói riêng ở địa bàn Tây Nguyên. Những yếu kém đó cho thấy, sự ổn định chính
trị - xã hội ở địa bàn Tây Nguyên phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố tư tưởng có
tầm quan trọng đặc biệt.
Thực tế cho thấy, công tác tư tưởng ở Tây Nguyên trong những năm qua chưa
giúp cho một bộ phận đồng bào hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, chưa
nhận thức rõ những thuận lợi, khó khăn của từng địa phương, chưa đề kháng được với
những luận điệu xuyên tạc từ bên ngoài, góp phần củng cố HTCT, ổn định tình hình...
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới;
nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác tư tưởng nhằm ổn định
chính trị - xã hội, nhất là ở địa bàn trọng điểm như Tây Nguyên, để thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tôi chọn đề tài: “Công tác tư tưởng với việc ổn
định tình hình chính trị - xã hội ở Tây Nguyên hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian từ năm 1980 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu tổng thể
về tình hình Tây Nguyên. Tập trung nhất là Chương trình cấp Nhà nước 48-09 do Ủy ban
Khoa học xã hội (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) thực hiện trong những năm 80.
Kết quả của chương trình được xuất bản thành 3 cuốn sách: Một số vấn đề kinh tế - xã hội
Tây Nguyên, Nxb KHXH, Hà Nội, 1986; Tây Nguyên trên đường phát triển, Nxb KHXH,
Hà Nội, 1990; Một số vấn đề kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Dak Lak, Nxb
KHXH, Hà Nội, 1990. Ba cuốn sách nói trên chủ yếu phân tích thực trạng tình hình kinh tế xã hội của Tây Nguyên từ sau ngày giải phóng miền Nam đến những năm 80 – 90, quá trình
phát triển kinh tế của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, đề xuất một số giải pháp phát triển
kinh tế ở Tây Nguyên.
Trong những năm 90 của thế kỷ XX cũng có một số đề tài nghiên cứu khoa học

cấp nhà nước nghiên cứu về Tây Nguyên như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 05-11
về cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong đổi mới hệ thống chính trị hiện nay
ở Dak Lak (1993-1994); Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 09-11: “Đánh giá thực trạng


và dự báo tình hình chính trị - xã hội. Xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần đảm bảo cho
quốc phòng an ninh”; Đề tài KHXH 05-02: “Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay”.
Các đề tài nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề cán bộ, đảm bảo tiềm lực quốc
phòng, an ninh cho địa bàn Tây Nguyên... Các nghiên cứu này khá công phu, nhưng
nhiều vấn đề mới đặt ra hiện nay chưa phản ánh trong các công trình này. Đặc biệt là
công tác tư tưởng từ sau sự kiện tháng 2 năm 2001.
Ngoài ra, cũng có một số luận án phó tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu những vấn
đề kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên: Của các tác giả như Trung Giang Vim,
Phạm Thanh Khiết, Nguyễn Ngọc Hòa; Nguyễn Mậu Linh; Đoàn Triệu Long..., tuy nhiên
các luận án và luận văn nói trên không đặt ra mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu về công tác tư
tưởng ở Tây Nguyên.
Gần đây có một số đề tài khoa học nghiên cứu về xây dựng hệ thống chính trị và
xử lý điểm nóng ở Tây Nguyên: Khoa Chính trị học, Phân viện Đà Nẵng, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Điểm nóng chính trị - xã hội và một số kinh nghiệm rút ra từ
việc xử lý điểm nóng chính trị - xã hội ở các tỉnh Tây Nguyên; Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp cơ sở, năm 2003. PGS.TS. Phạm Hảo - TS Trương Minh Dục (đồng chủ biên),
Một số vấn đề xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, năm 2003; PGS.TSKH. Phan Xuân Sơn – ThS. Lưu Văn Quảng (đồng chủ biên),
Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị,
Hà Nội, năm 2006. Các đề tài này đã cập nhật được những diễn biến mới trong đời sống
chính trị khu vực, tuy các công trình này có đề cập đến vấn đề tư tưởng ở Tây Nguyên,
nhưng không nghiên cứu vấn đề này một cách hệ thống và có tính chuyên biệt.
Mới đây, có Đề án cấp Chính phủ: "Chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với
Phật giáo Nam tông và đạo Tin lành vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm phục vụ công

tác chỉ đạo, điều hành của Đảng và Chính phủ" do PGS.TS Tô Huy Rứa làm chủ nhiệm,
nghiệm thu năm 2006 đã cung cấp nhiều tư liệu cho luận văn, nhất là về tình hình tôn
giáo nói chung và Tin lành nói riêng ở vùng đồng bào DTTS.
Ngoài ra, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương có nhiều


báo cáo, nghiên cứu chuyên đề về vấn đề này, nhưng đó là những báo cáo công tác.
Những báo cáo này cũng cung cấp nhiều thông tin, tư liệu cập nhật cho luận văn.
Đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách toàn diện,
đầy đủ và hệ thống về công tác tư tưởng nhằm góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã
hội ở Tây Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng đối với ổn định chính trị - xã hội , trên
cơ sở đó, đổi mới nhận thức và hoạt động của đội ngũ làm công tác tư tưởng ở Tây
Nguyên hiện nay, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở địa bàn chiến lược này.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác tư tưởng trong đời sống xã hội.
- Đánh giá thực trạng công tác tư tưởng ở Tây Nguyên trong thời gian qua (từ khi
xẩy ra sự kiện mất ổn định chính trị - xã hội, năm 2001 đến nay) chỉ ra nguyên nhân và
rút ra các bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng nhằm
góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội ở Tây Nguyên.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
- Công tác tư tưởng của các cơ quan tư tưởng ở Trung ương và ở các tỉnh Tây
Nguyên.
- Luận văn nghiên cứu tư tưởng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân,
nhưng chủ yếu tập trung vào đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo trên địa bàn
Tây Nguyên.

- Các tỉnh Tây Nguyên (Dak Lak, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Dak Nông).
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận


- Những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác tư
tưởng.
- Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về công tác tư tưởng, về ổn định chính trị - xã hội.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng các tác phẩm và các bài phát biểu của các đồng
chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tài liệu của các cơ quan làm công tác tư tưởng ở Trung
ương và trên địa bàn Tây Nguyên, của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan
đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê,
so sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, các phương pháp chuyên ngành và liên
ngành khác.
6. Đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn
- Góp phần luận giải rõ hơn vai trò của công tác tư tưởng với việc ổn định tình
hình chính trị - xã hội ở Tây Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định, điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về công tác tư tưởng; đề xuất, kiến nghị các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác tư tưởng nhằm nâng cao vai trò của nó trong đời sống xã hội nói chung và trong
việc ổn định tình hình chính trị - xã hội ở Tây Nguyên nói riêng.
- Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
những vấn đề có liên quan đến công tác tư tưởng, dân vận, xử lý tình huống chính trị...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, lết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

gồm 3 chương, 6 tiết.


Chương 1
VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VỚI VIỆC
ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.1. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm tư tưởng và công tác tư tưởng
1.1.1.1. Khái niệm tư tưởng
"Tư tưởng hiểu theo nghĩa chung nhất là một hình thức tồn tại của ý thức xã hội,
kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh nghiệm và sự hiểu
biết của con người" [50, tr.10]. Tư tưởng là sản phẩm chủ quan của con người, nhưng tư
tưởng của mỗi người lại phụ thuộc chặt chẽ vào đối tượng phản ánh và trình độ nhận thức
của họ.
Là một phạm trù thuộc ý thức xã hội, do đó, tồn tại xã hội nào thì tư tưởng (bộ
phận của ý thức xã hội) ấy. Tư tưởng vừa có sự thụ động nhất định so với những thay đổi
của tồn tại xã hội; vừa có tính năng động tác động trở lại tồn tại xã hội, tư tưởng có khả
năng vượt trước so với những vận động của hiện thực khách quan do tính năng động của
nó. Như vậy, tư tưởng không chỉ dừng lại ở sự phản ánh, mà còn có năng lực dự báo, đề
ra mục tiêu, chương trình, kế hoạch, dự định nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo hiện
thực.
1.1.1.2. Công tác tư tưởng và các yếu tố của công tác tư tưởng
* Hệ tư tưởng
Hệ tư tưởng là hệ thống những quan điểm và tư tưởng: Chính trị, luật pháp, đạo
đức, thẩm mỹ, tôn giáo, triết học... Hệ tư tưởng là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng
và với tính cách là kiến trúc thượng tầng, xét cho cùng, phản ánh những quan hệ kinh tế,
quan hệ xã hội đang tồn tại.
Hệ tư tưởng là sản phẩm của xã hội có giai cấp, do đó hệ tư tưởng luôn mang tính

giai cấp; phản ánh vị trí lợi ích của một giai cấp. Hệ tư tưởng thường gắn liền với giai cấp


đại diện cho một phương thức sản xuất nhất định. Các giai cấp thống trị, qua những nhà tư
tưởng của mình tiếp tục phát triển, hoàn thiện hệ tư tưởng; xây dựng các mục tiêu, chương
trình, thiết chế để bảo vệ và truyền bá tư tưởng đó trong xã hội. Do hệ tư tưởng của một giai
cấp gắn liền với lợi ích của giai cấp đó nên cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ là
cuộc đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Có thể nói, trong cuộc đấu tranh giai cấp vai trò của tư
tưởng rất to lớn, điều này C.Mác đã chỉ rõ: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập
vào quần chúng" [57, tr. 580].
* Công tác tư tưởng
Sự tác động của chủ thể hệ tư tưởng đến các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng
để đạt mục đích đặt ra chính là công tác tư tưởng. "Công tác tư tưởng là hoạt động có mục
đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành và phát triển hệ tư tưởng, truyền bá
hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư
tưởng" [60, tr.11-12].
Dưới CNXH, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản và
Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, biến hệ tư tưởng xã
hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, động
viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
* Các yếu tố của công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng bao gồm các yếu tố sau: Chủ thể, khách thể của công tác tư
tưởng, mục đích, nội dung, nguyên tắc, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức và
hiệu quả công tác tư tưởng.
- Chủ thể công tác tư tưởng: Bao gồm chủ thể của hệ tư tưởng (giai cấp và chính
đảng của nó); các cơ quan và thiết chế công tác tư tưởng (thường gắn liền với hệ thống tổ
chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền); các nhà tư tưởng của chủ thể đó và đội

ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng. Do công tác tư tưởng là hoạt động có
mục đích, có chủ định của chính đảng của một giai cấp, nên vai trò của chủ thể công tác


tư tưởng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của nó.
Trong chủ nghĩa xã hội, khi Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì chủ thể
công tác tư tưởng là toàn Đảng (trước hết là tổ chức đảng, bí thư cấp uỷ và toàn thể cán bộ,
đảng viên); cơ quan tuyên giáo các cấp, các ngành; cơ quan chính trị các cấp trong lực
lượng vũ trang là lực lượng tham mưu giúp cấp uỷ chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác
tư tưởng trong Đảng và trong toàn xã hội. Cán bộ tuyên giáo và các cơ quan có chức
năng giáo dục tư tưởng là lực lượng trực tiếp tiến hành công tác tư tưởng trên phạm vi
toàn xã hội.
- Khách thể của công tác tư tưởng: Đó là các đối tượng chịu sự tác động về mặt tư
tưởng của chủ thể (bao gồm cá nhân, tập thể, tầng lớp, giai cấp…). Khách thể của công
tác tư tưởng còn là các quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người trong xã hội. Nói
tóm lại, khách thể của công tác tư tưởng là các cá nhân, tập thể mà chủ thể tư tưởng chọn
để tác động.
Cho nên, xét trong mối quan hệ này, có thể là chủ thể của công tác tư tưởng; còn
trong mối quan hệ khác, có thể là đối tượng của công tác tư tưởng. Vì vậy công tác tư
tưởng phải được tiến hành cả trong Đảng và ngoài xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội tồn tại nhiều thành phần kinh tế và trong điều kiện toàn cầu hoá, bùng nổ
thông tin hiện nay, khách thể của công tác tư tưởng chịu sự tác động của nhiều luồng tư
tưởng khác nhau; chịu sự tác động của các yếu tố lợi ích kinh tế, thái độ được đối xử, quan
hệ giao tiếp, trạng thái tâm lý, đức tin, sự quan tâm và chăm lo đến đời sống hàng ngày
của họ...
- Nội dung công tác tư tưởng: Là nội dung các hoạt động mà chủ thể xác định
nhằm thực hiện mục đích đặt ra.
Nội dung công tác tư tưởng gồm việc xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng của
giai cấp, biến nó thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội; giáo dục ý thức tự giác chính trị,
hình thành niềm tin. "Nội dung do mục đích công tác tư tưởng và nhiệm vụ cụ thể của mỗi

giai đoạn cách mạng quy định" [60, tr.15].
- Phương pháp công tác tư tưởng: là con đường, cách thức mà chủ thể của công
tác tư tưởng sử dụng để tác động vào khách thể của công tác tư tưởng nhằm làm chuyển


biến tư tưởng của khách thể theo mục tiêu xác định. Phương pháp công tác tư tưởng trước
hết do nội dung và đối tượng của công tác tư tưởng quy định.
- Nguyên tắc công tác tư tưởng: Là những quy định cơ bản do chủ thể công tác tư
tưởng xác định để trên cơ sở đó lựa chọn nội dung, cách thức tổ chức và phương pháp tác
động đến khách thể nhằm đạt mục đích đặt ra. Nguyên tắc cũng là cơ sở phương pháp luận
để xem xét phương hướng tư tưởng chính trị của nội dung giáo dục và đánh giá chính xác
hiệu quả công tác tư tưởng. Những nguyên tắc cơ bản nhất trong công tác tư tưởng là:
nguyên tắc tính đảng, nguyên tắc tính khoa học, nguyên tắc tính thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn. Nguyên tắc này là một thể thống nhất không tách rời; cơ sở của sự thống nhất
đó là bản chất cách mạng, khoa học của hệ tư tưởng Mác - Lênin.
- Hiệu quả công tác tư tưởng: Là sự so sánh giữa kết quả mà công tác tư tưởng đạt
được với mục đích công tác tư tưởng được đặt ra từ trước, sau một chu trình tác động tư
tưởng, trong một điều kiện nhất định và với một chi phí nhất định. Trong công tác tư
tưởng, hiệu quả được đánh giá bằng sự cố gắng của chủ thể công tác tư tưởng và những
chuyển biến của nhận thức, tư tưởng mỗi giai cấp, tầng lớp và toàn xã hội, thể hiện trong
những kết quả kinh tế, chính trị, xã hội, phong trào.
* Các hình thái công tác tư tưởng
"V.I. Lê nin cho rằng, công tác tư tưởng có ba hình thái là: công tác lý luận, công
tác tuyên truyền và công tác cổ động" [60, tr.28].
Công tác lý luận là một hình thái của công tác tư tưởng hướng vào việc nghiên
cứu, xây dựng bảo vệ và phát triển sáng tạo hệ tư tưởng, biến nó thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong xã hội.
Xây dựng hệ tư tưởng là cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối chính trị của
giai cấp, của một chính đảng. Với cách hiểu đó, công tác lý luận của Đảng ta bao gồm
việc nghiên cứu nhằm xây dựng hệ thống quan điểm lý luận và cơ sở lý luận cho việc

hoạch định đường lối, chính sách, các quyết định của Đảng và Nhà nước; đấu tranh, phê
phán các trào lưu tư tưởng sai trái, thù địch; thông tin lý luận, tổng kết thực tiễn để làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận của Đảng. Trên mặt trận tư tưởng nói chung, công tác lý
luận là hình thái giữ vai trò trọng yếu nhất.


Công tác tuyên truyền là một hình thái của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ
tư tưởng và đường lối chiến lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng
thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm
tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó. Công tác
tuyên truyền của Đảng ta là hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách của Đảng; xây dựng niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách
mạng; khơi dậy tính sáng tạo của quần chúng, động viên lực lượng quần chúng tham gia,
góp phần tổ chức các phong trào cách mạng.
Công tác cổ động là một hình thái của công tác tư tưởng, là sự tác động của chủ thể
vào tâm lý, tình cảm của đối tượng, nhằm tạo nên một ấn tượng mạnh ở đối tượng, kích thích
và thúc đẩy họ hăng hái hành động, góp phần chuyển biến hành vi của đối tượng. Công tác
cổ động có vai trò hết sức quan trọng, nó là hoạt động có hiệu quả rất cao trong việc thuyết
phục, vận động quần chúng nhân dân tham gia vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của
đất nước.
Tất cả các yếu tố, các bộ phận trên đây tác động, quy định lẫn nhau và hình thành
nên hệ thống công tác tư tưởng. Hệ thống này vận hành theo những quy luật của lĩnh vực
tư tưởng.
1.1.2. Vai trò của công tác tư tưởng trong đời sống xã hội
Công tác tư tưởng thuộc lĩnh vực truyền bá sản phẩm tinh thần, là một bộ phận của
ý thức xã hội, do đó tư tưởng có tính độc lập tương đối, có những quy luật đặc thù của
lĩnh vực tư tưởng – văn hoá. Không phải lúc nào tư tưởng cũng song hành cùng kinh tế;
quy luật đặc thù của tư tưởng còn chịu sự tác động của các nhân tố phi kinh tế, thể hiện ở
tính kế thừa và giao lưu văn hoá, tính lan tỏa, tính vượt trước của tư tưởng, lý luận. v.v.
Các quá trình tư tưởng do chủ thể công tác tư tưởng thực hiện với mục đích tác

động vào toàn bộ ý thức xã hội: từ giáo dục phổ thông đến giáo dục đại học, từ nghiên
cứu và giáo dục lý luận, định hướng phát triển của sáng tác văn học, nghệ thuật, bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức, định hướng, hình thành các chuẩn mực và thang bậc giá trị...
Tất cả các lĩnh vực đó đều thuộc về hoạt động tư tưởng của các chủ thể công tác tư
tưởng, tác động trực tiếp tới mọi mặt hoạt động của xã hội, phản ánh lợi ích chủ đạo của


lực lượng tiến hành công tác tư tưởng. Mọi chính đảng, nhà nước, của mọi giai cấp trong
mọi thời đại đều tiến hành công tác tư tưởng, sử dụng thành tựu văn hoá, trí tuệ, phát
minh khoa học mới nhất, kể cả những thành tựu công nghệ tiên tiến nhất cho công tác tư
tưởng. Khi chính quyền của một giai cấp được thành lập thì công tác tư tưởng cùng với
các thiết chế của nó là một bộ phận trong hệ thống chính trị với chức năng phát triển hệ
tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp mình dần dần chiếm
địa vị thống trị trong xã hội.
Trong đời sống xã hội, công tác tư tưởng có vai trò hết sức quan trọng:
- Công tác tư tưởng tạo cơ sở xã hội để xây dựng đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
- Công tác tư tưởng góp phần giáo dục ý thức tự giác chính trị, xây dựng nhân
cách con người mới.
- Công tác tư tưởng vận động, tổ chức quần chúng giành và củng cố chính quyền,
xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
- Công tác tư tưởng tạo ra sự đồng thuận xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đấu
tranh trực diện trên lĩnh vực tư tưởng – văn hoá, định hướng giá trị và xây dựng đời sống
tinh thần XHCN.
- Công tác tư tưởng góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng khoa học cho đời sống tinh
thần của xã hội (xây dựng, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng khoa học).
Khi Đảng lãnh đạo chính quyền, công tác tư tưởng là một trong những phương
thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong đó có
nội dung và yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học mà trực tiếp và đặc

biệt quan trọng là các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn. Trong xã hội ta, cùng với các
môn khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các môn
chính trị học, xã hội học, tâm lý - giáo dục học ngày càng tỏ rõ vai trò và có tác dụng to
lớn đối với công tác tư tưởng. Các lĩnh vực văn hoá, văn nghệ bao gồm cả nghiên cứu,
sáng tác, biểu diễn... với ưu thế riêng, sinh động, đa dạng của chúng, có tác dụng trực tiếp
trong đời sống tinh thần xã hội và trong công tác tư tưởng của Đảng. Sự phát triển và


những thành tựu của các ngành khoa học, văn học, nghệ thuật tạo điều kiện để đổi mới
công tác tư tưởng và mặt khác, công tác tư tưởng phải không ngừng được đổi mới để
định hướng đúng cho sự phát triển của các ngành khoa học, văn học, nghệ thuật.
Công tác tư tưởng còn là một trong những phương thức lãnh đạo chủ yếu của
Đảng cầm quyền. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta hết sức coi trọng vai
trò, vị trí của công tác tư tưởng; coi công tác tư tưởng là quan trọng hàng đầu, như Bác
Hồ đã khẳng định: lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng.
1.2. ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TƯ
TƯỞNG TRONG VIỆC GIỮ VỮNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở NƯỚC
TA
1.2.1. Ổn định chính trị - xã hội, điều kiện quan trọng hàng đầu của sự phát
triển
Ổn định chính trị - xã hội nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải giữ
vững, tăng cường được quyền lực chính trị của mình; nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và
có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh; chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững; người
dân ủng hộ, tham gia bảo vệ và tuân thủ trật tự xã hội đã được xác lập; đời sống vật chất và
tinh thần của các tầng lớp nhân dân được đáp ứng, chí ít cũng trên những nhu cầu cơ bản và
thiết yếu; lòng tin của người dân vào chế độ xã hội được giữ vững và nâng cao. Sự ổn định
chính trị - xã hội nhìn chung được khái quát qua các tiêu chí cơ bản sau:
- Thứ nhất: HTCT không bị rối loạn; hoạt động của các bộ phận trong đó nhịp
nhàng, thống nhất đáp ứng yêu cầu của chủ thể quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước,
đảm bảo các yêu cầu cơ bản của phát triển kinh tế - xã hội.

- Thứ hai: Có sự đồng thuận xã hội về những vấn đề cơ bản của chế độ chính trị
như đường lối của Đảng cầm quyền và những chính sách của Nhà nước trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội.v.v.
- Thứ ba: Bản thân nhà nước của giai cấp cầm quyền nói riêng và hệ thống xã hội
nói chung có khả năng ngăn chặn và đập tan mọi hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch bên trong và bên ngoài; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị: Suy cho cùng, kinh tế là nhân


tố quyết định chính trị, chính trị chỉ là sự biểu hiện tập trung của kinh tế; cơ sở kinh tế
như thế nào, thì kiến trúc thượng tầng cơ bản như thế ấy. Song, chính trị không thể không
giữ vai trò hàng đầu so với kinh tế: Chính trị có ổn định, thì kinh tế mới phát triển được;
nếu chính trị bị khủng hoảng, thì mọi thành tựu kinh tế đều có thể đổ vỡ hết; nếu chính trị
mất ổn định, thì văn hoá cũng bị tàn phá, xã hội khủng hoảng...
Như vậy, ổn định chính trị - xã hội không chỉ đối lập với sự khủng hoảng, rối loạn
đổ vỡ; mà còn đối lập với sự trì trệ, bảo thủ. Với ý nghĩa đó, ổn định chính trị - xã hội là
sự ổn định của một hệ thống đang liên tục vận động và biến đổi trong các quỹ đạo được
xác định là phù hợp với quy luật vận động, phát triển của đời sống xã hội. Đó là ổn định
động - gắn với sự phát triển, nhằm phát triển - sự ổn định này không phải vì mục tiêu tự
thân; mà ổn định chỉ là điều kiện cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Ổn định chính trị - xã hội đối lập với sự hỗn loạn, nhưng không thể đối lập với
những thay đổi cần thiết cho sự phát triển; mà phải chủ động nhìn thấy trước các yêu cầu
khách quan để thực hiện các đổi thay cần thiết đó. Như vậy, ổn định và ổn định chính trị xã hội không đối lập với đổi mới chính trị. Do đó, không vì ổn định chính trị - xã hội mà
không dám đổi mới chính trị; “không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống
chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và thực
hiện dân chủ" [35, tr.54].
Muốn đổi mới chính trị phải ổn định chính trị - xã hội; nhưng muốn ổn định chính
trị - xã hội một cách thực chất và lâu dài thì đổi mới chính trị phải đúng hướng và có hiệu
quả. Sự ổn định được thực hiện bằng cách đổi mới và thông qua đổi mới. Ổn định chính

trị - xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết quả của đổi mới chính trị. Như vậy ổn định chính trị
- xã hội bao hàm những thay đổi; nhưng đó không phải là sự thay đổi vô nguyên tắc mà
những thay đổi đó phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra chứ
không phải đi ngược lại mục tiêu đó, và về cơ bản phải được kiểm soát bởi chủ thể lãnh
đạo và quản lý, ở nước ta là của Đảng và Nhà nước. Tác động trở lại của chính trị phải
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế khách quan mới có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát
triển, nếu không sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Ở khía cạnh này có thể nói: ổn


định chính trị - xã hội ở nước ta là đổi mới chính trị được thực hiện có nguyên tắc, phù
hợp với đường lối đổi mới của Đảng ta. Sự ổn định chính trị - xã hội chỉ có thể thực hiện
được thông qua sự đổi mới hệ thống chính trị đúng hướng, hợp quy luật và có hiệu quả.
Việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội để đổi mới chính trị và các mặt khác, về cơ bản
bao hàm các nội dung:
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động chính trị và
toàn xã hội, đối với sự nghiệp đổi mới của chúng ta, đó là nhân tố cơ bản, nhân tố quyết định
hàng đầu. Điều đó đặt ra yêu cầu Đảng phải thật sự đổi mới phương thức lãnh đạo với những
nội dung phù hợp với điều kiện mới; phải quán triệt mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc trong
đường lối đổi mới của Đảng.
- Giữ vững định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường, trong
đó kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, vươn lên trở thành lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Giữ vững chế độ chính trị với Nhà nước là nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân. Dù cơ cấu tổ chức và nhân sự của bộ máy nhà nước có thay đổi, song
không thay đổi bản chất chính trị của Nhà nước ta. Giữ vững mục đích, bản chất chế độ
pháp luật của Nhà nước ta và hiệu lực của pháp luật trên phạm vi cả nước cũng như từng
địa phương. Pháp luật có thể sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; song không làm thay đổi bản
chất giai cấp và vì lợi ích nhân dân của nó. Chế độ pháp luật ràng buộc mọi công dân, kể
cả cán bộ, đảng viên, những người cầm quyền, các tổ chức của Đảng và Nhà nước, các tổ

chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp...
- Tạo được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước, vào tính hiệu lực và nghiêm minh của pháp luật. Mẫu số chung của bất cứ sự
ổn định chính trị - xã hội nào cũng là niềm tin. Chỉ có niềm tin của nhân dân mới tạo
được cơ sở vững chắc cho sự ổn định chính trị - xã hội, mới giữ được bản chất chính trị
của sự ổn định, tức là một hệ thống chính trị mà chủ thể là nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Để thực hiện những nội dung đó, Đảng ta đã giải quyết mối quan hệ biện chứng


giữa kinh tế và chính trị, văn hoá và xã hội, quan hệ giữa ổn định và phát triển trong quá
trình đổi mới. Đảng ta khẳng định ngay từ đầu: chúng ta đổi mới toàn diện nhưng trước
hết phải đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, giữ vững định hướng phát triển kinh tế, giữ vững
chính trị, ổn định xã hội.
Có thể nói quan điểm "không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối
loạn" [36, tr.262] là một đòi hỏi có tính nguyên tắc trong công cuộc đổi mới nói chung và
đổi mới hệ thống chính trị nói riêng.
Qua 20 năm đổi mới, chúng ta “đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử”. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ vững được sự ổn định
chính trị - xã hội. Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X đánh giá một trong những thành tựu to lớn là "Chính trị - xã hội ổn định;
quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới" [38,
tr.59].
Việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội như vừa qua đã trở thành điều kiện tiên
quyết để bảo đảm thắng lợi cho công cuộc đổi mới. Mỗi bước phát triển tiến bộ về kinh
tế, văn hóa, xã hội là thêm một cơ sở vững chắc cho ổn định chính trị - xã hội. Khi chính
trị - xã hội càng ổn định, lại càng tạo thêm tiền đề và điều kiện để đổi mới mạnh mẽ, có
hiệu quả để kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Ổn định và đổi mới luôn luôn tác động
qua lại với nhau, cùng là động lực của sự phát triển hướng tới mục tiêu XHCN. Ngoài ra,
ổn định chính trị - xã hội còn là nhân tố cơ bản để mở rộng quan hệ quốc tế, thu hút vốn

đầu tư của nước ngoài. Sự ổn định chính trị - xã hội sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Nhờ có ổn định chính trị - xã hội, qua 20 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng
định:
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại
đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định.


Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp [38, tr.
67-68].
1.2.2. Những nhân tố tác động gây mất ổn định chính trị - xã hội và vai trò của
công tác tư tưởng trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội
Mất ổn định chính trị - xã hội là hiện tượng không bình thường, rối loạn, xảy ra trong
lĩnh vực chính trị - xã hội liên quan đến việc giữ vững quyền lực và thể chế chính sách của
chính đảng, chính quyền nhà nước, làm cho lòng dân không yên. Khi đó, HTCT bị rối loạn;
hoạt động của các bộ phận trong HTCT thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, không đáp ứng yêu
cầu của thực thể quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, không đảm bảo các yêu cầu
cơ bản của phát triển kinh tế - xã hội. Xã hội thiếu sự đồng thuận về những vấn đề cơ bản
của chế độ chính trị.v.v. Nhà nước của giai cấp cầm quyền nói riêng và xã hội nói chung
không đủ sức ngăn chặn và đập tan các hoạt động xâm nhập, chống phá của các thế lực
thù địch bên trong và bên ngoài.
Thông thường, những nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội thường được thấy
rõ từ các điểm nóng chính trị - xã hội (nơi biểu hiện ở mức cao nhất của sự rối loạn, xung
đột xã hội).
Điểm nóng chính trị - xã hội là địa bàn tập trung sự chống đối của đám đông

quần chúng hướng trực tiếp vào những người nắm quyền lực chính trị, vào hệ thống
chính trị và vào thể chế, chính sách của Nhà nước, làm cho sự đồng thuận và đoàn kết
xã hội bị giảm sút nghiêm trọng. Ở đây, an ninh chính trị và an toàn xã hội không
được bảo đảm; hệ thống chính trị mất hiệu lực trước sự chống đối của đám đông, của
lực lượng đối lập; các xung đột xã hội không được giải toả, cản trở, làm trì trệ sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Mất ổn định chính trị - xã hội do nhiều nhân tố tác động đến. Có thể là do sự tác
động của các nhân tố bên ngoài, có thể là do những nhân tố phát sinh ngay từ trong lòng
chế độ xã hội, có thể do những nhân tố chủ quan hoặc khách quan về kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá, dân tộc, tôn giáo.v.v. Thông thường, các nhân tố trên đều liên quan với


nhau, thậm chí nhân tố này là kết quả của nhân tố khác và ngược lại. Việc tìm ra những
nhân tố tác động gây mất ổn định chính trị - xã hội, để có biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi
nó, bảo đảm ổn định, thúc đẩy xã hội phát triển là vấn đề rất quan trọng và cấp thiết trong
giải quyết những điểm nóng chính trị - xã hội. Có thể thấy một số nhân tố cơ bản gây mất
ổn định chính trị - xã hội sau:
- Đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới vẫn tồn tại.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng.
- Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục.
- Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo
loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta.
Những vấn đề xã hội nói trên nếu chậm được giải quyết; hay giải quyết thiếu triệt
để, nửa vời thì đều có thể chuyển thành vấn đề chính trị (thậm chí sẽ có xảy ra điểm nóng
như đã xẩy ra ở Thái Bình, Thừa Thiên - Huế, Tây Nguyên...). Đây cũng là vấn đề mà
các thế lực thù địch rất quan tâm chú ý để lợi dụng, phá hoại chính sách đại đoàn kết dân
tộc, ly gián Đảng với nhân dân, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm

kích động gây rối, phá vỡ sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Ngoài những nhân tố cơ bản trên, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi xin nêu
một số nhóm nguyên nhân tác động gây mất ổn định chính trị - xã hội nói chung:
* Nhóm nhân tố kinh tế
Đây là nhóm nhân tố nằm ngay trong lĩnh vực kinh tế, liên quan đến quan hệ sở
hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối.
Một quốc gia bị tụt hậu về kinh tế (nền kinh tế thấp kém, thu nhập của đông đảo
người dân thấp), đời sống của đại bộ phận nhân dân khó khăn, không đủ để tái sản xuất
xã hội. Một khi kinh tế tụt hậu, thường kéo theo các cuộc khủng hoảng kinh tế. Từ đó,
dẫn đến lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp không thống nhất, dẫn đến sự bất bình, bất tín
nhiệm, thậm chí chống đối chế độ, chính phủ trong điều hành, lãnh đạo đất nước, thậm


chí làm sụp đổ cả chế độ hiện hành.
Biểu hiện của tình trạng đó là: thu nhập cơ bản của nhân dân thấp, bấp bênh, lạm phát
phi mã; tình trạng thất nghiệp, nghèo đói gia tăng; xung đột lợi ích kinh tế gay gắt, phân phối
không công bằng; kinh tế ngầm phát triển mạnh, các kế hoạch kinh tế không phát huy tác
dụng, sản xuất đình trệ và rối loạn...
Nhìn chung kinh tế tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng có thể tác động đến tình hình
chính trị của một đất nước theo các cách khác nhau, chẳng hạn:
- Nó có thể gây ra sự thay đổi chế độ tức thì - tức là dẫn đến sự sụp đổ đột ngột
của toàn bộ HTCT.
- Nó cũng có thể góp phần thay đổi chế độ bằng cách phá hoại dần dần lòng tin
của nhân dân đối với các nhà lãnh đạo đang cầm quyền và luật pháp hiện hành.
- Nó có thể kéo theo sự lật đổ các đảng, các nhà lãnh đạo đang cầm quyền do không
làm thay đổi được thực trạng theo chiều hướng tốt hơn [101, tr.37].
* Nhóm nhân tố chính trị.
Vấn đề trung tâm, then chốt và trực tiếp nhất của chính trị là vấn đề quyền lực nhà
nước. Theo V.I.Lênin: “Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là
việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung

hoạt động của nhà nước” [54, tr. 404].
Mất ổn định chính trị có thể do chính những nhân tố cấu thành nó gây ra. Những
nhân tố này có thể liên quan đến vấn đề then chốt nhất của chính trị - vấn đề quyền lực
nhà nước, hoặc liên quan đến đường lối, chính sách thiết chế và thể chế chính trị hoặc
con người chính trị [101, tr. 45].
- Xét về nguyên nhân: Mức độ thực hiện các mục tiêu đề ra là thước đo tính hiệu
quả của hệ thống chính trị. Nhưng việc giữ vững ổn định chính trị, không chỉ phụ thuộc
vào “mục tiêu” đặt ra… Việc đặt mục tiêu cao hay thấp đều ảnh hưởng đến sự vận hành
và phát triển của hệ thống. Mục tiêu cao, làm cho hệ thống chính trị quá tải, hoạt động
không bình thường, nguy cơ trục trặc, đổ vỡ ở một khâu, một bộ phận nào đó là rất cao.
Khi không đạt được mục tiêu, hoạt động của hệ thống bị mất phương hướng, không hiệu
quả. Sự chệch choạc bắt đầu từ một bộ phận, sau đó lan ra cả hệ thống. Nếu như mục tiêu


đặt ra quá thấp, hệ thống sẽ chạy không tải. Vấn đề không những là lãng phí nguồn lực
mà còn gây ra những rối loạn không kém như khi đặt mục tiêu quá cao.
Sự sai lệch trong việc đặt mục tiêu, định hướng, tính kém hiệu quả hoặc chậm đổi
mới của các hệ thống chính trị thường không dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội ngay.
Nói cách khác, chúng không phải là nguyên nhân trực tiếp của những hiện tượng mất ổn
định chính trị - xã hội, mà là nguyên nhân sâu xa, là nhân tố tiềm năng của mất ổn định
chính trị - xã hội. Vì vậy, có thể nói sự ổn định chính trị- xã hội nói chung, hoạt động
chính trị nói riêng phụ thuộc chủ yếu vào thể chế nhà nước.
Nguyên nhân của mất ổn định chính trị - xã hội còn do cả cá nhân một bộ phận
cán bộ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về đạo đức, lối sống, làm tổn hại đến uy tín của
Đảng và chính quyền...
- Xét về biểu hiện: Điểm nóng chính trị - xã hội là biểu hiện cao độ sự mất an ninh
chính trị và an toàn xã hội.
Điểm nóng chính trị - xã hội có thể tạm chia làm hai loại:
Thứ nhất, loại điểm nóng chứa đựng mâu thuẫn đối kháng, có sự can thiệp của các
thế lực phản động trong và ngoài nước âm mưu can thiệp nội bộ, lật đổ chính quyền bằng

nhiều thủ đoạn và con đường khác nhau.
Thứ hai, loại điểm nóng phát sinh từ những mâu thuẫn nội bộ do quan liêu, tham
nhũng, bất công, bất bình đẳng, vi phạm quyền dân chủ quá mức... gây bất bình trong
nhân dân. Những vi phạm pháp luật của cán bộ, đảng viên không được xử lý nghiêm,
HTCT ở cơ sở yếu kém, mất sức chiến đấu, tình trạng mất đoàn kết trầm trọng kéo dài
trong nội bộ Đảng, cơ quan nhà nước.
Ở nước ta, trong hơn mười năm trở lại đây, các điểm nóng chính trị - xã hội
thường xẩy ra chủ yếu thuộc nhóm thứ hai. Tuy nhiên, việc phân chia như trên cũng chỉ
là tương đối, thực tế khi phát sinh những mâu thuẫn từ nội bộ nhân dân, các thế lực thù địch
thường tìm cách lợi dụng, kích động nhằm thực hiện “diễn biến hoà bình” kết hợp với bạo
loạn lật đổ, gây mất ổn định từ bên trong (điển hình là các sự kiện ở Tây Nguyên tháng
2/2001 và tháng 4/2004). Cũng phải khách quan mà nhìn nhận, trong nhóm các nhân tố
chính trị tác động đến sự mất ổn về chính trị - xã hội, thì cả nhân tố từ bên trong và từ bên


ngoài đều nguy hiểm, nhưng những nhân tố bên trong giữ vai trò, vị trí quyết định.
Việc gần đây, hiện tượng khiếu nại, tố cáo, chống người thi hành công vụ xẩy ra
nhiều nơi, gây nên những hiện tượng xung đột căng thẳng cục bộ ở nơi này, nơi khác, chủ
yếu không phải do tác động từ bên ngoài, mà do những mâu thuẫn bên trong nội tại, có
nguồn gốc từ những yếu kém từ các bộ phận cấu thành của cả hệ thống chính trị. Chính vì
vậy, tập trung giải quyết những nhân tố bên trong mang tính cơ bản đối với việc ổn định
chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên cũng phải hết sức cảnh giác, sẵn sàng đề
phòng để chủ động đối phó với những tình huống xấu xẩy ra do những nhân tố bên ngoài.
* Nhóm nhân tố thuộc về lĩnh vực văn hoá – xã hội
Đối với nước ta, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, yêu cầu phải kế
thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa
văn hoá của nhân loại trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi là
một yêu cầu và là động lực của sự nghiệp đổi mới và phát triển.
Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường như hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực,
mặt tốt là chủ đạo, cũng còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội. Đó

là nhiều giá trị truyền thống có nguy cơ bị mai một, lãng quên; sự xuống cấp của đạo đức
xã hội, lối sống thực dụng, hưởng thụ, chạy theo đồng tiền bằng mọi giá, vun vén cho lợi
ích cá nhân đang có chiều hướng gia tăng; một bộ phận thanh niên sống thiếu ước mơ,
hoài bão và lý tưởng cao đẹp, thiếu tình yêu quê hương, đất nước. Đó là tư tưởng coi
thường pháp luật, tư tưởng địa vị, cục bộ, quan liêu, những yếu kém trong giải quyết các
vấn đề xã hội như việc làm cho người lao động, tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo…
đang gây bức xúc trong đời sống chính trị - xã hội cũng là nhân tố có nguy cơ gây mất ổn
định chính trị - xã hội.
* Nhóm nhân tố liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo.
+ Về vấn đề dân tộc: Dân tộc là một trong những hình thái cộng đồng người, được
hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài người và đang là một
trong những vấn đề quan trọng, nổi lên trên thế giới.
Dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong mỗi quốc gia và trên thế giới là những
vấn đề rất quan trọng và rất nhạy cảm. Trong một quốc gia đa dân tộc, nếu mối quan hệ


giữa các dân tộc, lợi ích dân tộc không được giải quyết đúng đắn thì dễ phát sinh mâu
thuẫn và có thể dẫn đến xung đột kéo dài. Mặt khác, những sai lầm trong chính sách dân
tộc, như không quán triệt đầy đủ những nguyên tắc cơ bản về quyền dân tộc tự quyết,
quyền bình đẳng; trong thực hiện chính sách kinh tế - xã hội, không quán triệt đầy đủ đến
vấn đề dân tộc, đến đặc điểm của mỗi dân tộc, dẫn tới những sai lầm, khuyết điểm, cũng
có thể dẫn đến những xung đột dân tộc, từ đó gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sự giải quyết chưa
thỏa đáng vấn đề dân tộc trong một quốc gia, sự can thiệp của các nước đế quốc vào công
việc nội bộ của các nước khác là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn, xung đột giữa các dân
tộc trên thế giới đang tăng lên.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn
đề dân tộc, công tác dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng. Đảng đã đề ra các chủ trương
và chính sách dân tộc nhất quán với nội dung: “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển”. Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình miền núi và vùng

đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển biến quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cơ bản nói trên, vấn đề dân tộc và công tác
dân tộc ở nước ta nhìn chung còn nhiều hạn chế, yếu kém như: Kinh tế miền núi và các
vùng dân tộc còn chậm phát triển, tình trạng du canh, du cư, di cư tự do còn diễn biến
phức tạp; một bộ phận đồng bào DTTS còn thiếu đất sản xuất, kết cấu hạ tầng ở một số
vùng sâu, vùng xa còn rất thấp kém. Tỷ lệ đói nghèo ở nhiều vùng dân tộc và miền núi
còn cao so với bình quân chung của cả nước. Chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo còn
thấp; một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển, một số bản sắc tốt
đẹp trong văn hoá của các dân tộc đang bị mai một. HTCT, trình độ đội ngũ cán bộ ở
nhiều vùng dân tộc còn rất yếu. Một số nơi, đồng bào bị các thế lực thù địch, kẻ xấu kích
động ly khai, lôi kéo vào các hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, âm mưu thành
lập “Vương quốc Mông”, “Nhà nước Đêga”, “Nhà nước Chăm pa”, “Nhà nước Khmer
Crôm”... đó là những nhân tố đang hàng ngày, hàng giờ tác động làm mất ổn định chính
trị - xã hội.
+ Về tôn giáo:


Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống
chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều
dân tộc, quốc gia.
Với vị trí địa lý rất thuận lợi trong việc giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là
nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới. Vì vậy, Việt Nam
là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt động bình thường,
ổn định, chiếm 25% dân số.
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số nhóm tôn
giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo, hoặc mới du nhập
ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên
Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái Tin lành.

Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường ví Việt
Nam như "bảo tàng tôn giáo" của thế giới. Về khía cạnh văn hoá, sự đa dạng các loại
hình tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú và đặc
sắc. Tuy nhiên đó là những khó khăn đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách
đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể.
Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi
dụng vấn đề tôn giáo, chúng xác định tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng “đối trọng”
với Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, các thế lực thù địch đã và đang hậu thuẫn cho các
phần tử phản động trong các tôn giáo chống phá Việt Nam quyết liệt hơn. Chúng âm mưu
lập ra cái gọi là “Uỷ ban liên tôn giáo chống cộng”, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất”, “Tin lành Đêga”, “Đạo Vàng Chứ”, “Thìn Hùng”...Vấn đề tôn giáo được chúng
gắn với vấn đề dân chủ, nhân quyền và được thực hiện qua nhiều thủ đoạn.
Ở một số nơi, các hoạt động tôn giáo trái phép đã gây ra mất ổn định chính trị - xã
hội. Tuy Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, nhưng vẫn còn nhiều
vấn đề đặt ra, không ít cán bộ, nhất là ở cơ sở còn nhận thức thiển cận đối với tôn giáo,


có thái độ hẹp hòi, định kiến với đồng bào có đạo. Chưa quan tâm đến những hoạt động
tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của
tín đồ được đảm bảo. Những giá trị văn hoá và đạo đức tốt đẹp của tôn giáo chưa được
tôn trọng và khuyến khích phát huy.
Nhìn chung hiện nay, tình hình tôn giáo vẫn còn có những diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Trước tình hình đó, công tác tư tưởng có vai trò hết sức quan trọng trong việc giữ
vững ổn định chính trị - xã hội
Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành chủ yếu trong toàn bộ hoạt động cách
mạng của Đảng ta và có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc. Nó không chỉ góp phần tích cực trong việc ổn định chính trị - xã hội,
phát triển kinh tế, xây dựng nhân tố con người, mà nó còn là một động lực cơ bản của sự

nghiệp đổi mới. Là động lực cách mạng, công tác tư tưởng giải quyết những vấn đề lý
luận do thực tiễn đặt ra, đồng thời hình thành ý chí, nhiệt tình cách mạng của quần chúng,
hiện thực hoá từng bước lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Công tác tư tưởng là sự tác động lên trạng thái tư tưởng, tinh thần, tình cảm của
những đối tượng khác nhau nhằm tạo nên sự nhất trí về tư tưởng và đồng thuận xã hội,
thúc đẩy cách mạng tiến lên. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác tư
tưởng, coi nó là một mặt trận và mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải là chiến sĩ xung
kích trên mặt trận ấy. "Trong tổ chức thực hiện, công tác tư tưởng phải đi trước một bước,
không ngừng đổi mới để phù hợp nhất với những điều kiện cụ thể của hoàn cảnh, đối
tượng, nâng cao hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp chung của cách mạng" [50, tr. 51-52].
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, công tác tư tưởng trở nên vô cùng quan trọng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, trong bối cảnh tình hình
quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, công tác tư tưởng càng có vai trò quan trọng để tạo
ra sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng và trong xã hội. Nhiều văn kiện
của Đảng đã khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ của công tác tư tưởng.
Có thể nói, tầm quan trọng của công tác tư tưởng là biến lý luận, ý chí lãnh đạo của
Đảng thành nhận thức và hành động của đảng viên và nhân dân, thành sức mạnh vật chất


×