Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Giám sát của quốc hội đối với hoạt động xét xử của tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.3 KB, 83 trang )

LUẬN VĂN:

Giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy nhà nước nói riêng và trong hệ thống chính trị nói chung ở Việt
Nam hiện nay, Tòa án nhân dân (TAND) có một vị trí đặc biệt quan trọng. Với những
đặc trưng của hoạt động xét xử, hệ thống tòa án có khả năng đem đến cho các bên tranh
tụng sự công bằng, góp phần thiết lập trật tự xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống
tòa án cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ nếu những nguyên tắc sống còn của hoạt động tố
tụng không được bảo đảm. Khi đó, không những quyền lợi chính đáng của các đương sự
không được bảo đảm, mà uy tín của Nhà nước cũng bị giảm sút.
Trước tình hình trên, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba (khóa
VIII), Đảng đã đặt vấn đề tiếp tục đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội, trong đó có
giám sát hoạt động xét xử của TAND. Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XI năm 2003,
Quốc hội đã thông qua Luật hoạt động giám sát. Đây là đạo luật rất quan trọng, thể chế
hóa đường lối của Đảng và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, các luật về tổ chức
bộ máy nhà nước, về trình tự, thủ tục thẩm quyền giám sát của Quốc hội nói chung và
hoạt động xét xử của hệ thống tòa án nói riêng. Trên cơ sở đường lối chủ trương của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, những năm qua công tác giám sát của
Quốc hội đối với công tác xét xử của Tòa án đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Thông qua hoạt động giám sát giúp cho hoạt động xét xử của Tòa án, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật hơn, tránh được những oan, sai trong xét xử... Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với công tác xét xử của
TAND cũng còn nhiều bất cập như: hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ này còn
thiếu tính cụ thể. Công tác giám sát còn mang tính thời điểm, không thường xuyên.
Kiến thức pháp luật nói chung và kiến thức pháp luật tố tụng nói riêng của các đại biểu


đi giám sát còn hạn chế và không đồng đều… Tất cả những điều đó ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả, chất lượng đối với công tác giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét
xử của TAND. Vì lẽ đó việc nghiên cứu một cách tương đối toàn diện có hệ thống về


giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam là yêu cầu bức
xúc, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa của các hoạt động của Quốc hội, trong
những năm gần đây, về hoạt động của Quốc hội nói chung và hoạt động giám sát của
Quốc hội nói riêng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan nghiên cứu
khoa học, các nhà luật học, chính trị học, xã hội học. Qua nghiên cứu tài liệu hiện hành
và công trình khoa học đã được công bố cho thấy hoạt động giám sát của Quốc hội được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Điều đó được thể hiện qua các nhóm vấn đề:
Nhóm thứ nhất, là nghiên cứu hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung.
Nhóm này đề cập tới những vấn đề lý luận chung của giám sát, như khái niệm, bản chất,
hình thức, nội dung…được thể hiện qua các công trình nghiên cứu sau: tác phẩm: "Về
quyền giám sát tối cao của Quốc hội" của Tiến sĩ Phạm Văn Kỳ, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996, trong tác phẩm này, tác giả Phạm Văn Kỳ đã tập trung làm sáng tỏ
nội hàm của khái niệm quyền giám sát tối cao của Quốc hội, đối tượng của quyền giám
sát tối cao, các phương thức giám sát của hoạt động giám sát, cũng như thực trạng của
hoạt động giám sát này, trên cơ sở đó, tác giả đã có những đề xuất tương đối sát hợp…
Bên cạnh đó phải kể đến nhiều công trình khác như: Đề tài "Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam - những khía cạnh pháp lý theo hiến pháp và luật tổ chức
Quốc hội" PGS,TS Nguyễn Đăng Dung chủ trì; Đề tài "Tăng cường hoạt động giám sát
của Quốc hội nước ta hiện nay" do Viện Nhà nước và Pháp luật, thuộc Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đáng chú ý như "Hoàn
thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở nước ta" của TS. Lê Minh Thông, đặt
vấn đề Quốc hội cần thiết phải thành lập một ủy ban chuyên trách; GS.TSKH Đào Trí
úc: "Về chức năng kinh tế, xã hội của nhà nước ta và những cơ sở hiến định của cơ chế

thực hiện quyền lực nhà nước", đã đề cập vấn đề nghiên cứu, xem xét việc thành lập cơ
quan giám sát chuyên trách thuộc Quốc hội; bài viết "Giám sát thực hiện quyền lực nhà
nước" của tác giả Võ Khánh Vinh...


Nhóm thứ hai, nghiên cứu hoạt động giám sát trên một số lĩnh vực cụ thể được thể
hiện qua các công trình nghiên cứu sau: đề tài "Quyền giám sát của Quốc hội với Tòa án
nhân dân và viện kiểm sát nhân dân" do TS. Phạm Văn Hùng chủ trì; Luận văn thạc sĩ luật
học: "Nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của ủy ban pháp luật Quốc hội ở nước ta
hiện nay" của tác giả Nguyễn thị Dung. Bài của tác giả Nguyễn Thị Nguyệt " Một vài suy
nghĩ về hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội" đã kiến
nghị tăng cường mối quan hệ phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện chức năng giám
sát.
Liên quan tới vấn đề quyền giám sát của Quốc hội đối với tòa án trong nhà
nước tư sản đã có một số công trình nghiên cứu như "Luật Hiến pháp đối chiếu" của
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung; "Hệ thống chính trị Mỹ" của TS. Vũ Đăng Hinh và các
đồng tác giả...
Các công trình khoa học nói trên đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất
lượng hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung cũng như TAND thời gian qua nói
riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu hoạt
động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND. Mặc dù vậy, các công
trình nói trên là những tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện
luận văn này.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung nghiên cứu: luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý
luận và thực tiễn cơ bản liên quan tới giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử
của TAND trong giai đoạn hiện nay. trên cơ sở đó đề ra nhưng giải pháp tăng cường
giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét sử của TAND.
- Đây là một đề tài có phạm vi rộng, trong khuôn khổ một luận văn cao học, chỉ đề
cập nghiên cứu những nét khái quát chung nhất về giám sát của Quốc hội đối với hoạt

động xét xử của TAND trên một số lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế,
lao động. Thời gian từ năm 2003 đến nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của Quốc hội
đối với hoạt động xét xử của TAND ở nước ta hiện nay, luận văn nêu ra những giải
pháp nhằm tăng cường hơn nữa công tác giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử
của TAND trong thời gian tới.
*Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của
TAND thông qua thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.
- Phân tích đánh giá thực trạng về giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét
xử của TAND từ năm 2003 đến nay.
- Nêu một số giải pháp tăng cường giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét
xử của TAND hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận chung nhà
nước và pháp luật nói chung và hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu, để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ đặt ra, luận văn sử
dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng như: phân tích - tổng
hợp, lịch sử - cụ thể, kết hợp các phương pháp khác như: So sánh, thống kê, điều tra xã
hội ...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn "Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân" là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện có hệ thống cả
lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của Quốc hội đối với TAND. Vì vậy, luận

văn có những đóng góp khoa học mới cụ thể như sau:
Đưa ra khái niệm, đặc điểm, giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử
của TAND.


Phân tích chỉ ra được thực trạng, nguyên nhân của hoạt động giám sát của Quốc
hội đối với TAND từ năm 2003 đến nay, trên cơ sở đó đưa ra hệ giải pháp tăng cường
giám sát của Quốc hội đối với TAND trong thời gian tới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* ý nghĩa lý luận:
Với kết quả đạt được, luận văn làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về
giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND qua đó nâng cao hơn nữa
nhận thức của nhân dân nói chung, của cán bộ công chức nhà nước nói riêng về vị trí
pháp lý, vai trò tầm quan trọng của Quốc hội - là một thiết quyền lực nhà nước.
* ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy
vấn đề liên quan đến hoạt động giám sát của Quốc hội đối với TAND.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết.


Chương 1
Cơ sở lý luận về giám sát của Quốc hội
đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

1.1. Khái niệm, đặc trưng, nguyên tắc, vai trò hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân
1.1.1. Khái niệm
Hoạt động xét xử của TAND là biểu hiện tập trung cao nhất của cả quá trình

giải quyết một vụ án. Tại phiên tòa mọi hoạt động của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Tòa án đều thể hiện một cách công khai. Những người tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng đều được công khai tranh tụng, đưa ra những lý lẽ bảo vệ mình
hoặc bác bỏ lý lẽ của người khác… Và cuối cùng là những phán quyết của Hội đồng xét
xử. Có thể nói rằng, một vụ án dù lớn hay nhỏ, điều mà xã hội quan tâm là Tòa án xét
xử như thế nào, phán quyết cuối cùng ra sao?
Thật vậy, xét xử là hoạt động đặc trưng của Tòa án, ngay trong Hiến pháp năm
1946 - Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập - mặc dù không quy định
rõ Tòa án là cơ quan xét xử nhưng trên tinh thần Hiến pháp, chúng ta cũng có thể hiểu
Tòa án là cơ quan xét xử, Điều 46 Hiến pháp năm 1946 quy định: "Trong khi xét xử
các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp".
Đến các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 đã quy định rõ về chức năng xét xử của
Tòa án, Điều 127 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án
nhân dân địa phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [12, tr. 71]. Trên cơ sở của
Hiến pháp, Luật tổ chức TAND cũng đã quy định về thẩm quyền xét xử của TAND.
Pháp luật tố tụng nước ta quy định nguyên tắc xét xử hai cấp, sơ thẩm và phúc
thẩm. Xét xử sơ thẩm vụ án là xét xử lần thứ nhất, là giai đoạn tố tụng mở đầu cho toàn
bộ hoạt động xét xử. Trong giai đoạn này, Hội đồng xét xử sơ thẩm tiến hành các hoạt
động tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng, căn cứ vào các tình tiết vụ án cụ thể, vào quy


định của pháp luật lần đầu tiên nhân danh Nhà nước ra bản án hoặc quyết định để giải
quyết vụ án đó.
Xét xử phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng, Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ
án do Tòa án cấp dưới xét xử những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, nhằm sửa chữa sai lầm của bản án hoặc quyết định
sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử vụ án được nghiêm minh, khách quan, đúng người đúng
tội, đúng pháp luật. Vậy xét xử là gì?
Theo Đại từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1998: "Xét xử; xét và xử các vụ án

nói chung" [45, tr. 1859].
Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng: "Xét xử; hoạt động do tòa án tiến
hành theo pháp luật tố tụng, trong đó tòa án sau khi nghiên cứu một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành giải quyết, xử lý vụ án bằng cách
việc ra bản án và quyết định cần thiết có liên quan" [29, tr. 418].
Với quan niệm xét xử như trên, có thể hiểu hoạt động xét xử của TAND là hoạt
động mang tính tổ chức, tính quyền lực của nhà nước, được thực hiện thông qua thẩm
phán và Hội đồng xét xử nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho đương sự góp phần làm ổn định trật tự xã hội.
1.1.2. Đặc trưng hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
Một là, hoạt động xét xử của TAND là quá trình áp dụng pháp luật vào việc giải
quyết vụ án cụ thể.
áp dụng pháp luật là một hoạt động phổ biến, hoạt động của rất nhiều chủ thể
trong xã hội. Đó là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan hành pháp, hoạt động áp
dụng pháp luật của cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, khi nói áp dụng pháp luật đối với hoạt
động xét xử thì chúng ta chỉ liên hệ đến hoạt động của cơ quan tư pháp. Để giải quyết
một vụ án. có sự tham gia của rất nhiều cơ quan, tổ chức có chức danh đại diện riêng
như: cơ quan điều tra với chức danh điều tra viên; cơ quan kiểm sát với chức danh kiểm
sát viên; cơ quan tòa án vói chức danh thẩm phán, hội thẩm nhân dân, luật sư... mỗi
chức danh đều đại diện cho từng cơ quan tư pháp đều thực hiện áp dụng pháp luật. Nếu


như hoạt động áp dụng pháp luật của luật sư là đưa ra lý lẽ để thuyết phục hội đồng xét
xử, để bảo vệ thân chủ, nếu như hoạt động áp dụng pháp luật của kiểm sát viên để buộc
tội, để đề xuất một chế tài nhất định với bị cáo… thì hoạt động áp dụng pháp luật của
thẩm phán để đưa ra phán quyết. có nghĩa là kết quả công việc của chức danh khác
không có tính quyết định, tất cả các hoạt động đó đều phụ thuộc vào tòa án có lựa chọn
hay không lựa chọn đề nghị của cơ quan tổ chức đó và đây là đặc trưng trong hoạt động
xét xử của tòa án.
Hai là, hoạt động xét xử của TAND là hoạt động giải thích pháp luật, hướng

dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
Một trong những nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) là ban hành
văn bản hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật. Các văn bản này được đặt dưới tên
gọi Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC hay Thông tư liên tịch. Đây là hoạt
động hết sức đặc trưng của hoạt động xét xử. Bởi vì, TAND không phải là cơ quan lập
pháp nhưng bằng thực tiễn công tác của mình, TAND đã chỉ ra những quy định pháp
luật còn mơ hồ, không rõ ràng, hoặc khó hiểu, hoặc có quá nhiều cách hiểu khác nhau.
Từ đó Tòa án đưa ra cách hiểu và cách áp dụng thống nhất. Sự giải thích này, rõ ràng,
có ảnh hưởng tới quyền lợi ích của các đương sự, thậm chí, còn ảnh hưởng đến quyết
định của các cơ quan tổ chức có liên quan.
Ba là, hoạt động xét xử của TAND là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.
Nói đến đặc trưng trong hoạt động xét xử không thể không nói đến hoạt động ra
bản án, quyết định của thẩm phán, đây là một hoạt động mang tính quyền lực cao, nhân
danh nhà nước và chỉ tuân theo pháp luật. Bản án, quyết định của Hội đồng xét xử có
liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức và mọi công dân.
Trong đó có những quyền chỉ Tòa án mới phán quyết được. Ví dụ, đó là quyền sống,
quyền tự do của con người. Tính quyền lực này được thể hiện ngay phần mở đầu của
bản án, quyết định, đó là "nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" Tính
quyền lực này còn thể hiện trong các quy định của pháp luật buộc "bản án, quyết định
của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được mọi công dân, cơ


quan tổ chức tôn trọng. cá nhân, cơ quan tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết
định của tòa án".
1.1.3. Nguyên tắc hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
Nguyên tắc hoạt động xét xử của TAND là những quan điểm, tư tưởng cơ bản
chỉ đạo toàn bộ quá trình tổ chức, thực hiện xét xử tại phiên tòa nhằm đưa ra những bản
án đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nguyên
tắc xét xử của TAND bao gồm những điểm sau.
1.1.3.1. Nguyên tắc xét xử của Tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia

Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và từ tính quyền lực của Nhà nước là quyền lực của nhân dân.
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa (XHCN) Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vì vậy, các hoạt động quyền lực của Nhà nước
đều phải có sự tham gia của nhân dân. Trong hoạt động tư pháp mà chủ yếu là hoạt
động xét xử của Tòa án phải đảm bảo cho nhân dân trực tiếp tham gia. Nguyên tắc này
được thể hiện ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa năm 1946. Điều 65: "Trong khi xét xử việc hình thì có phụ thẩm nhân dân để hoặc
tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc
đại hình". Điều này tiếp tục được khẳng định tại Điều 99 Hiến pháp năm 1959 và quy
định rõ thẩm quyền của Hội thẩm nhân dân là: "Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có
Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật khi xét xử thì hội thẩm nhân
dân ngang quyền với thẩm phán". Đến Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc này còn quy định
rõ thêm chế độ Hội thẩm nhân dân như sau: "Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm
nhân dân của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp
luật khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán"[12].
Như vậy, trong hoạt động xét xử gồm có thẩm phán là người có nghiệp vụ
chuyên môn do nhà nước bổ nhiệm và các Hội thẩm nhân dân và Tòa án quân sự có Hội
thẩm quân nhân tham gia vào hoạt động xét xử. Cơ cấu thành phần như vậy giúp cho


TAND đưa ra những phán quyết đúng đắn, khách quan, công bằng, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
1.1.3.2. Nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
Đây là nguyên tắc quan trọng mang tính nền tảng đối với hoạt động xét xử của
TAND. Nguyên tắc này xuất phát từ đòi hỏi, yêu cầu của xã hội dân chủ đồng thời.
chống lại sự can thiệp của các cá nhân và cơ quan nhà nước khác vào hoạt động tư pháp
nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng. ở Việt Nam, nguyên tắc này được

thừa nhận ngay từ khi thành lập Tòa án cách mạng. Tại Điều 47 Sắc lệnh số 13 ngày 24
tháng 01 năm 1946 quy định "Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành chính". Điều
69 Hiến pháp năm 1946 cũng quy định: "Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân
theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp". Các bản Hiến pháp 1959,
1980, 1992 cũng khẳng định nguyên tắc này. Điều 130 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi
năm 2001) quy định: "khi xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp
luật". Thực chất của nguyên tắc này là đảm bảo cho hoạt động xét xử được độc lập
không bị lệ thuộc bởi tác động của cơ quan nào và cá nhân nào. Từ đó hoạt động xét xử
mới đưa ra được phán quyết đúng đắn kết quả chính xác. Nội dung của nguyên tắc này
là khi xét xử thẩm phán và Hội thẩm độc lập đánh giá chứng cứ thu thập được, độc lập
xem xét tình tiết vụ án, độc lập trong nhận định và vận dụng đúng quy định pháp luật để
đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội đúng pháp luật. Tòa án cấp trên cũng không
được dùng mệnh lệnh hành chính buộc Tòa án cấp dưới xử theo ý mình. Đảng đối với
Tòa án chủ yếu là bằng chủ trương, đường lối chính sách, chứ không nhất thiết can thiệp
vào các vụ án cụ thể.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi các thẩm phán phải có trình độ chuyên
môn cao, tinh thông về pháp luật: Hội thẩm nhân dân phải có hiểu biết về pháp luật về
lĩnh vực được đề cập trong từng vụ án cụ thể.
1.1.3.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Trên thế giới hiện nay có nhiều nước áp dụng một thẩm phán xét xử đối với
những vụ án đơn giản. Tuy nhiên, các vụ án phức tạp liên quan tới lợi ích nhiều chủ thể


khác nhau, đến quyền công dân và sinh mạng của con người thì đều tiến hành xét xử tập
thể. Việc xét xử tập thể phát huy được trí tuệ tập thể thẩm phán, hội thẩm nhân dân, từ
đó có những cân nhắc kỹ lưỡng thận trọng để đưa ra được những phán quyết đứng đắn.
Đối với Việt Nam, nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các vụ án. là nguyên tắc nhất
quán được ghi trong Hiến pháp và Luật tổ chức TAND. Điều 131 Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi năm 2001) quy định: "Tòa án nhân dân là xét xử độc lập và quyết định theo đa
số". Theo nguyên tắc này thì thì hoạt động xét xử phải là tập thể gồm các thẩm phán

hoặc thẩm phán và hội thẩm nhân dân, ít nhất ba thành viên trở lên. Hiện nay, nhiều nhà
khoa học pháp lý cũng cho rằng, để đáp ứng yêu cầu xét xử nhanh, có hiệu quả các vụ
án cũng có thể áp dụng nguyên tắc xét xử một thẩm phán đối với vụ án đơn giản như
một số nước trên thế giới.
1.1.3.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai
Nguyên tắc này xuất phát từ phát huy dân chủ đối với nhân dân trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và TAND nói riêng. Nguyên tắc này đảm
bảo cho nhân dân tham gia phiên tòa xét xử, giám sát việc xét xử của Tòa án, đồng thời
góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân thông qua hoạt động xét xử của Tòa
án. Trong một số trường hợp đặc biệt có những vụ án không xét xử công khai theo luật
định. Điều 131 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Điều 7 Luật tổ chức TAND quy
định: "Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định". Nguyên tắc này
đòi hỏi các TAND phải có lịch xét xử các vụ án, công khai lịch xét xử hàng tuần tại trụ
sở Tòa án. Thông báo cho những người liên quan đến vụ án về thời gian địa điểm xét
xử. Riêng các vụ án xét xử kín thì khi tuyên án phải công khai cho mọi người biết.
1.1.3.5. Nguyên tắc xét xử bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật
Đây là nguyên tắc phán ánh bản chất của nền dân chủ trong hoạt động tư pháp.
Nguyên tắc này được quy định tại Điều 8 Luật tổ chức TAND năm 2002: "Tòa án xét
xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật". Với nguyên tắc này,
tính công bằng trước pháp luật và niềm tin vào công lý xã hội được thông qua Tòa án.


Nội dung của nguyên tắc này khẳng định: mọi hành vi phạm tội, mọi tranh chấp pháp lý
dù người đó là ai thì đều bị Tòa án xét xử nghiêm minh, công bằng.
Ngoài những nguyên tắc cơ bản trên trong hoạt động xét xử của Tòa án còn
phải tuân theo các nguyên tắc. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng dùng chữ viết tiếng
nói của dân tộc mình, đảm bảo xét xử hai cấp.
1.1.4. Vai trò hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân

Hệ thống TAND là một bộ phận của cơ quan tư pháp Việt Nam. Các cơ quan tư
pháp có chức năng bảo vệ và gìn giữ pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm, giải
quyết các tranh chấp xẩy ra trong đời sống xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền
lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa án là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, nơi
mà các kết quả của hoạt động điều tra truy tố, bào chữa, giám định tư pháp... được kiểm
tra, đánh giá, xem xét một cách công khai và thông qua thủ tục tố tụng để đưa ra phán
xét cuối cùng mang tính quyền lực nhà nước. Các cơ quan xét xử nhà nước ta chủ yếu là
các TAND và Tòa án quân sự. Còn các tòa án đặc biệt chỉ được thành lập trong những
trường hợp đặc biệt. Việc xác định các TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam có nghĩa là ngoài TAND, bất cứ cơ quan nhà nước nào khác cũng
không có quyền xét xử. Như vậy, Tòa án là cơ quan thay mặt nhà nước xử lý các vi
phạm pháp luật nhằm duy trì nền công lý, bảo đảm pháp luật đã ban hành được thực
hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của
công dân, cá nhân. Tòa án cũng là phương tiện hữu hiệu để tổ chức, công dân bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của mình. Vai trò to lớn đối với hoạt động xét xử của TAND thể
hiện qua các phương diện sau:
Một là, thông qua hoạt động xét xử đảm bảo quyền lực nhà nước đi vào đời
sống xã hội, góp phần bảo đảm an ninh chính trị xã hội.
Thông qua hoạt động xét xử để TAND giải quyết các vi phạm pháp luật, các tội
phạm và các tranh chấp xẩy ra trong đời sống xã hội. Do đó, có thể coi hoạt động xét xử
như là một bộ phận chuyền tải quyền lực nhà nước được thể hiện trong pháp luật đi vào
đời sống xã hội thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể.


Người ta chưa ý thức đầy đủ rằng, Tòa án chính là một cơ quan có trách
nhiệm làm cho tất cả những người nghèo khổ, không trừ một ai, đều có thể
tham gia việc quản lý nhà nước; rằng Tòa án là một cơ quan chính quyền của
giai cấp vô sản và của nông dân nghèo; rằng Tòa án là một công cụ để giáo
dục kỷ luật [10, tr. 124].
Nếu hoạt động xét xử của Tòa án không tốt thì bộ máy nhà nước ấy hoạt động

kém hiệu lực hiệu quả, chính thông qua hoạt động xét xử đảm bảo quyền lực nhà nước
đi vào đời sống xã hội. và là chất kích thích mạnh mẽ cho sự phát triển tiến bộ của pháp
luật XHCN. Do vậy, công tác đấu tranh, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật và
tội phạm của hoạt động xét xử là cần thiết nhằm duy trì trật tự, kỷ cương của đất nước,
các quyết định của Tòa án không chỉ buộc người vi phạm pháp luật phải hành sử theo
đúng pháp luật, mà tạo nên một môi trường an toàn cho cộng đồng xã hội.
Trong xã hội, các mâu thuẫn, tranh chấp nẩy sinh là một hiện tượng tự nhiên và
việc giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội là việc làm cần thiết nhằm ổn
định xã hội. Thông qua hoạt động xét xử góp phần củng cố sự đoàn kết, gắn bó, thương
yêu, đùm bọc ở từng gia đình trong cộng đồng xã hội.
Hai là, hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là một công cụ quan trọng trong
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Vai trò tích cực của TAND đối với tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật
được thể hiện ở chỗ: Thông qua việc xét xử các vụ án đúng pháp luật đã tác động vào ý
thức các tầng lớp nhân, qua đó nâng cao ý thức pháp luật, góp phần định hướng dư luận
xã hội nâng cao ý thức lên án những hành vi tội ác, đồng thời khuyến khích hành vi tôn
trọng pháp luật và răn đe các tư tưởng coi thường pháp luật. Nếu Tòa án xét xử nghiêm
minh, khách quan đúng người đúng tội, đúng pháp luật sẽ góp phần to lớn vào đấu tranh
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Ngược lại, nếu xét xử không nghiêm
minh, thiếu khách quan thì dẫn đến tư tưởng xem thường pháp luật. Mặt khác, vai trò
tuyên truyền giáo dục pháp luật của Tòa án còn được thể hiện ngay trong mục đích
những hình phạt mà Tòa áp dụng. Ví dụ: Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta
quy định: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội, mà còn giáo dục họ trở


thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống XHCN, ngăn chặn họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa chống tội phạm. Luật tổ chức TAND cũng khẳng
định: "Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với
Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của cuộc sống

xã hội, có ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vi pham pháp luật khác".
Ngoài ra, thông qua hoạt động xét xử, Tòa án phát hiện ra những sơ hở yếu kém trong
quản lý nhà nước, những vi phạm trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội và điều kiện dẫn đến tội phạm. Tòa án cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền
xem xét khắc phục những yếu kém đó góp phần ngăn ngừa tội phạm.
Ba là, hoạt động xét xử của Tòa án đóng vai trò quan trọng đảm bảo công bằng
trước pháp luật và duy trì công lý.
Theo quy định của pháp luật, những người vi pham pháp luật đều được xem xét,
xử lý tùy theo tính chất mức độ vi phạm. Cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công
dân đều có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền hợp pháp của mình. Khi xét xử các vụ án
về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động mọi người đều có quyền bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt người đó là ai, giữ chức vụ gì trong xã hội. Mặt khác, các công dân tổ
chức và các cơ quan nhà nước đặt niềm tin vào Tòa án người thay mặt nhà nước bảo vệ
pháp luật, bảo vệ công lý. Bởi lẽ, Tòa án bao giờ cũng là nơi biểu hiện rõ nhất bản chất
của pháp luật ở đó con người luôn hi vọng và tìm thấy được lẽ công bằng xã hội. Vì
vậy, từ xa xưa đã mô hình hóa biểu tượng của Tòa án là "Nữ thần bịt mắt bằng vải đen,
một tay cầm kiếm, một tay cầm cân công lý", đã thể hiện giữa sức mạnh và quyền lực
của pháp luật. Thể hiện tính nghiêm minh của nhà nước và sự công bằng trước pháp
luật. Vì lẽ đó Tòa án xét xử không đúng, không công bằng, bóp méo pháp luật, bẻ cong
công lý thì lòng tin của nhân dân đối với nhà nước và chế độ sẽ bị mất đi.
Bốn là, hoạt động xét xử của Tòa án góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động áp dụng pháp luật vào các sự kiện
pháp lý cụ thể. Thông qua hoạt động này, Tòa án phát hiện những yếu kém của pháp
luật và sự mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật của người xét xử với tính "lạc hậu" của các


"khuôn mẫu" của pháp luật hiện hành. Để từ đó đề xuất với các cơ qua có thẩm quyền
xây dựng pháp luật tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh có
hiệu quả các quan hệ kinh tế, xã hội mói phát sinh. Đồng thời, xóa bỏ những quy phạm
pháp luật lỗi thời. Thực tế trong nhiều năm qua Tòa án đã đóng vai trò to lớn trong việc

góp phần sửa đổi, bổ sung, nhiều quy phạm pháp luật, đặc biệt các quy phạm có liên
quan đến lĩnh vực luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật dân sự…
Tóm lại, hoạt động xét xử của TAND là hoạt động pháp lý nhân danh nhà
nước nhằm bảo vệ nền pháp chế XHCN, có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị,
là công cụ chuyên chính đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện nghiêm minh và thống nhất.
1.2. Khái niệm, Mục Đích, nội dung, hình thức giám sát của Quốc hội đối
với hoạt động xét xử của tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm và mục đích giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét
xử của Tòa án nhân dân
Để hiểu rõ khái niệm giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa
án trước hết cần làm rõ khái niệm giám sát của Quốc hội. Quan niệm giám sát của Quốc
hội đến nay vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Quyền giám sát của Quốc hội đối với TAND,
Viện kiểm sát nhân dân là quyền của Quốc hội tiến hành các biện pháp giám sát tối cao do
Hiến pháp, luật quy định đối với đối tượng này nhằm đảm bảo cho quyền lực của Quốc
hội được thi hành có hiệu lực, hiệu quả [13, tr. 80].
Theo giải thích của Từ điển tiếng Việt thì: "Giám sát là theo dõi và kiểm tra
xem có thực hiện đúng những điều đã quy định không" [43].
Quan điểm thứ hai cho rằng: Giám sát phải là hoạt động của chủ thể ngoài hệ
thống độc lập với hệ thống bị giám sát, nghĩa là chủ thể giám sát và chủ thể bị giám sát
không nằm trong cùng hệ thống, không phụ thuộc lẫn nhau [11]. ý kiến khác lại cho
rằng: "Ngoài việc giám sát của chủ thể khác ngoài hệ thống thì việc kiểm tra và tự kiểm
tra trong hệ thống cũng là một hình thức giám sát" [11].


Quan điểm thứ ba cho rằng: Giám sát của Quốc hội là việc Quốc hội, ủy ban
Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và đại
biểu Quốc hội xem xét các cơ quan, tổ chức cá nhân chịu sự giám sát của Quốc hội
trong việc tuân theo Hiến pháp, luật nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của

UBTVQH [15].
Quan điểm thứ tư cho rằng: Giám sát tối cao là việc Quốc hội xem xét tại kỳ
họp các hoạt động của Chủ tịch nước, TANDTC… trong việc tuân theo Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội [24, tr. 181].
Các quan điểm giám sát của Quốc hội nêu trên ở chừng mực nhất định có
những nhân tố hợp lý của nó, nhưng chưa có quan điểm nào đưa ra được khái niệm đầy
đủ và khoa học. Từ các quan điểm nêu trên có thể hiểu: Giám sát tối cao của Quốc hội
là quyền của Quốc hội thực hiện việc theo dõi, kiểm tra tính hợp hiến tính hợp pháp đối
với các văn bản, hoạt động của các chủ thể do Quốc hội bầu và phê chuẩn. Đồng thời xử
lý những vi phạm Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội do những chủ thể đó gây ra
nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội được thực hiện nghiêm
chỉnh. Với quan niệm giám sát như vậy, có thể hiểu:
Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
là quyền của Quốc hội tiến hành các hoạt động giám sát tối cao tại kỳ họp
Quốc hội đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân
thông qua hoạt động giám sát của ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ
quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội [13, tr. 59].
Để góp phần hiểu rõ về giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của
TAND, cần phân biệt giữa giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND
với những hoạt động khác.
Giám sát khác với kiểm tra: Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học
xuất bản năm 1998, kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét". Do
đó, so với giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND thì kiểm tra là
khái niệm có tính bao hàm những thao tác có tính xác định và tính cụ thể rõ hơn kiểm
tra thường được dùng xem lại sự việc, những sai phạm đã xảy ra. Kiểm tra có thể là tự


bản thân tự kiểm tra, cũng có thể là cấp trên cùng hệ thống kiểm tra, cũng có thể là cơ
quan tổ chức có thẩm quyền đến kiểm tra.
Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND khác với thanh tra

Thanh tra, theo Từ điển tiếng Việt là "kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương,
cơ quan xí nghiệp". Trong khoa học pháp lý, thanh tra là khái niệm chủ yếu được dùng để
chỉ hoạt động của các cơ quan, tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền được xác định theo Luật
thanh tra năm 2004. Điều 4 Luật thanh tra quy định: "Thanh tra nhà nước là việc xem xét,
đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự,
thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác của pháp luật..." [27].
Như vậy, về mặt khách quan của hành vi có thể thấy thanh tra và giám sát
giống nhau ở chỗ cùng có hoạt động xem xét, đánh giá, nhưng khác nhau ở chỗ giám
sát là chủ động theo dõi còn thanh tra là chỉ xem xét khi có dấu hiệu vi phạm xảy ra,
còn thanh tra là hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước đặc trưng trong hệ thống
hành pháp với vai trò của các cơ quan thanh tra chính phủ và thanh tra chuyên ngành,
có đối tượng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý, là một chức năng trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND khác với kiểm sát,
bởi vì kiểm sát là khái niệm dùng để chỉ hoạt động mang tính đặc thù của Viện kiểm sát
nhân dân các cấp đối với việc đảm bảo tính pháp chế, tính hợp pháp trong các hành vi,
văn bản pháp quy của cơ quan nhà nước, sự tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh của các
cán bộ công chức và các công dân. Theo pháp luật hiện hành, hoạt động kiểm sát chung
của Viện kiểm sát nhân dân đã được bỏ, vì vậy, kiểm sát chỉ có ý nghĩa là kiểm sát đối
với quyền lực nhà nước khi Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp.
Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của TAND khác với giám sát,
kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên Mặt trận. Về tính chất của
hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được quy định tại Điều 12 Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhưng quy định trong luật cho thấy những sự khác nhau


cơ bản giữa hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và giám sát của Quốc
hội đối với hoạt động xét xử của TAND đó là sự khác nhau về hình thức kiểm tra giám

sát và phương thức thực hiện kiểm tra giám sát.
Tóm lại, giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát là những khái niệm gần nghĩa,
dùng để chỉ những hoạt động có phạm vi gần nhau, thậm chí có những biểu hiện khách
quan khá giống nhau như xem xét, đánh giá, tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau và
phân biệt với nhau bởi đặc thù trong quan hệ pháp lý, đối tượng chủ thể, phạm vi
phương pháp thực hiện và biện pháp xử lý.
Giám sát mang tính quyền lực nhà nước là hình thức giám sát do cơ quan quyền
lực nhà nước có thẩm quyền tiến hành đối với hoạt động xét xử của tòa án theo những
nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước do Hiến pháp và pháp luật quy định. Chủ thể
tiến hành hoạt động giám sát theo hình thức này là Quốc hội. Để có thể xem xét giám
sát của Quốc hội đối hoạt động xét xử của TAND có đạt được hiệu quả không đòi hỏi ta
phải xem xét mục đích của giám sát.
Mục đích của giám sát là phạm vi cho việc đánh giá các kết quả đã đạt được,
còn mức độ gần với mục đích là mức độ của hiệu quả. Bởi vì, về mặt thực hiện mục
đích của giám sát là tiêu chuẩn, thước đo trong việc đánh giá hiệu quả của nó, vì rằng
mục đích bao giờ cũng xem xét việc đạt được kết quả thực tế nhất định; việc thu nhận
thông tin cần thiết về chất lượng hoạt động của TAND, về chất lượng của quyết định
của tòa án, về việc thi hành, chấp hành các quyết định đó. Việc tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật v.v...
ở đây, mục đích chung của việc giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử
của TAND là việc đảm bảo cho sự hoạt động đứng đắn, minh bạch, liên tục của từng cơ
quan nhà nước, của từng người có chức vụ quyền hạn nói chung trên cơ sở tuân thủ
thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật quy định nhiệm vụ chức năng thẩm quyền của
họ.
Kết quả cuối cùng, tức là tổng thể các hậu quả khách quan của giám sát; là tiêu
chuẩn chính của việc xác định hiệu quả của giám sát. giám sát của Quốc hội đối với
hoạt động xét xử của TAND bao giờ cũng nhằm củng cố kỷ luật trong hoạt động xét xử,


kỷ luật công tác, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ thẩm phán cũng như đội ngũ cán bộ

lãnh đạo. Hiệu quả của giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử, trước hết cần
phải được đánh giá theo các kết quả cuối cùng của nó.
Để đạt được kết quả như vậy, đòi hỏi Quốc hội phải có sự hiểu biết về nội dung
cụ thể trong hoạt động của TAND. Chúng ta không thể suy xét được về các kết quả của
giám sát, nếu thiếu việc làm sáng tỏ các hậu quả thực tế do sự giám sát đưa đến đối với
nội dung hoạt động của khách thể hoặc của vụ việc bị giám sát. Việc cân nhắc hậu quả
thực tế là rất cần thiết đối với hoạt động giám sát của Quốc hội, bởi vì hiệu quả của
giám sát được hiểu là việc đạt được kết quả tích cực của giám sát, chứ không phải là
việc đạt được mọi kết quả tích cực. Nếu như giám sát của Quốc hội đối với hoạt động
xét xử của TAND phát hiện được thiếu sót hoặc vi phạm, làm rõ ai có lỗi trong các thiếu
sót, vi phạm đó, thì cơ quan giám sát không chỉ có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp do pháp
luật quy định, mà còn phải chỉ ra phương thức và biện pháp cải tiến công việc cũng như ra
nghị quyết hủy bỏ những văn bản sai, và sau đó kiểm tra điều đó đã được thực hiện trên
thực tiễn hay chưa. Mục đích của giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử không
phải là phát hiện và ghi nhận các thiếu sót, không phải thu thập các thông tin khác nhau để
xử lý từng vụ việc, mà thông qua đó để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và sự đúng đắn
cho hoạt động thi hành pháp luật. Các kết quả giám sát sẽ không chính xác, nếu như khi
đánh giá chúng không cân nhắc các chi phí đi kèm theo việc thực hiện giám sát; độ dài
về mặt thời gian giám sát, số lượng người tham gia giám sát, các loại chi phí khác... Các
chi phí cho việc tiến hành sự giám sát có thể lớn hoặc nhỏ và chúng cần phải được đo
lường với các kết quả của giám sát. Mức độ hiệu quả của giám sát càng cao nếu việc đạt
được kết quả tốt đòi hỏi sự chi phí thấp.
1.2.2. Nội dung quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân
Với tư cách là một cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội có quyền
quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan; Chủ tịch nước. UBTVQH, Chính phủ,
TAND. Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan chính quyền địa phương và giám sát hoạt
động của cơ quan đó, Chủ tịch nước, phó Chủ tịch nước. Chủ tịch Quốc hội, UBTVQH,



Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
do Quốc hội bầu ra và phải chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Chế độ
chịu trách nhiệm của cơ quan nhà nước nói chung và của TAND nói riêng trước Quốc
hội là thể hiện tập trung nhất nguyên tắc kiểm soát quyền lực trong việc tổ chức, thực
hiện quyền lực nhà nước. Theo tinh thần đó, một mặt, quyền lực nhà nước cần phải
được phân công một cách rõ ràng, bảo đảm cho mỗi chủ thể thực hiện quyền lực nhà
nước đều được phân công, được thực hiện đầy đủ, tập trung quyền lực của mình. Mặt
khác, cần phải có những biện pháp, cơ chế kiểm tra giám sát việc thực hiện quyền lực
đó nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền lực nhà nước được đứng đắn và đầy đủ; đồng
thời hạn chế những vi phạm lạm quyền trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
từ phía chủ thể đó.
Là một bộ phận của quyền lực nhà nước hoạt động xét xử của TAND là nơi
biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, nơi mà kết quả của các hoạt động điều tra, công
tố, bào chữa, giám định tư pháp được kiểm tra xem xét, đánh giá công khai thông qua
các thủ tục tố tụng để đưa ra những phán xét cuối cùng mang tính quyền lực nhà nước,
nơi thể hiện quyền công lý, sự công bằng và bình đẳng, tính công minh của pháp luật,
đồng thời cũng là nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống cơ quan tư
pháp trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Các cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động xét xử của TAND nói riêng có nhiệm
vụ bảo vệ và giữ gìn sự tôn nghiêm của pháp luật bằng cách áp dụng các biện pháp do
pháp luật quy định, nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xét xử công minh kịp
thời mọi hành vi vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần
giải quyết các tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, giữ gìn trật tự kỷ
cương, bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ chế độ XHCN.
Quyền giám sát của Quốc hội, chế độ tự chịu trách nhiệm của cơ quan tư pháp
trước quốc hội, các cơ quan của Quốc hội được thực hiện thông qua cơ chế giám sát
được quy định trong Hiến pháp và luật giám sát hoạt động của Quốc hội theo đó:



Chánh án TANDTC chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội;
trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước UBTVQH.
Chánh án TANDTC có thể bị Quốc hội bãi miễn hoặc cũng có thể bỏ phiếu tín
nhiệm. Đối với văn bản của TANDTC mà trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH thì bị Quốc hội, UBTVQH hủy bỏ.
Thực hiện thẩm quyền này, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội tiến hành
các hoạt động sau đây;
Thứ nhất, xem xét báo cáo công tác của Tòa án nhân dân.
Tại các kỳ họp cuối năm của Quốc hội, Quốc hội nghe và thảo luận báo cáo của
Chánh án TANDTC về công tác xét xử. Sau khi nghe báo cáo thẩm tra của ủy ban pháp
luật về những nội dung này, các đại biểu có thể chất vấn, yêu cầu Chánh án TANDTC
trả lời, làm rõ. Tại các kỳ họp đầu năm, TANDTC gửi báo cáo công tác tới các đại biểu
Quốc hội;
Thứ hai, giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của TANDTC.
Đây là nội dung cơ bản hàng đầu của quyền giám sát của Quốc hội đối với
hoạt động xét xử của TAND. Bởi vì, tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, trước hết là thể hiện ở quyền lập quy của cơ quan và cá nhân này. Hoạt
động lập quy không đúng, không phù hợp, không kịp thời với hoạt động lập pháp thì
tạo ra hệ thống pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo kém hiệu quả mà còn là biểu hiện
của sự lạm quyền, thiếu thống nhất. Vì thế giám sát giám sát của Quốc hội đối với
hoạt động xét xử của TAND có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và là một trong những hoạt
động hàng đầu của Quốc hội.
Thứ ba, giám sát các hoạt động của TAND.
Đây là giám sát việc tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, là việc xem xét quá trình áp dụng pháp luật trong việc tổ chức và thực hiện trong
hoạt động thực tiễn. Bởi vì, Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, có đi vào cuộc
sống, trở thành hiện thực hay không, không chỉ thông qua hoạt động lập quy đứng đắn,
phù hợp, kịp thời với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, mà còn tổ chức thực



tiễn các hoạt động cụ thể thể hiện ở các quyết định cụ thể có hợp hiến, hợp pháp, hợp lý
hay không, có hiệu lực hiệu quả hay không, vì thế hoạt động giám sát không thể thiếu
các giám sát hoạt động thực tiễn.
Thứ tư, Quốc hội tiến hành xem xét, đánh giá trình độ, năng lực, trách nhiệm cá
nhân, tổ chức do Quốc hội bầu, hoặc phê chuẩn.
Đây là nội dung giám sát được thể hiện được quy định trong Hiến pháp về bỏ
phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Mà
còn là cơ sở thực hiện một quyền hạn và nhiệm vụ cũng được quy định trong Hiến pháp
đó là bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê
chuẩn.
Từ những vấn đề trên đây có thể thấy rằng, vấn đề cơ bản xét trên phương diện
những quy định của pháp luật, thì những quy định về quyền giám sát của Quốc hội, về
chế độ trách nhiệm của các cơ quan tư pháp đối với Quốc hội, UBTVQH, các cơ quan
khác của Quốc hội khá rõ ràng. Đó là vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
trong việc giám sát hoạt động của cơ quan này hoạt động ban hành văn bản hướng dẫn
áp dụng pháp luật, cũng như về chế độ báo cáo công tác trước Quốc hội, UBTVQH;
thẩm quyền của Quốc hội, UBTVQH đối với văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH đối với chức danh do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn việc bổ nhiệm.
Xác định nội dung giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan tư pháp phải căn
cứ vào Hiến pháp, luật tổ chức Quốc hội, luật tổ chức TAND, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân và văn bản luật, pháp lệnh khác, nhất là các văn bản về tố tụng. ở mỗi thời
kỳ, pháp luật có những điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tư pháp
nên việc xác định nội dung giám sát của Quốc hội cũng phải căn cứ vào văn bản pháp
luật tương ứng của thời kỳ đó. Ví dụ, trong lĩnh vực xét xử, trước đây TAND chỉ được
pháp luật trao thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, nên nội
dung giám sát của Quốc hội đối với TAND việc thực hiện pháp luật về xét xử các vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình. Từ năm 1994, để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế
thị trường, Quốc hội đã quyết định giao cho TAND giải quyết các vụ án kinh tế, tiếp



đến năm 1996, Quốc hội quyết định giao cho TAND giải quyết các vụ án lao động,
hành chính và tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Vì vậy, nội dung giám sát của Quốc hội
đối với TAND cũng được mở rộng thêm giám sát việc thực hiện pháp luật về xét xử các
vụ án lao động, hành chính và tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Căn cứ vào Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị
quyết số 51/ 2001 ngày 25/12/2001 của Quốc hội), Luật tổ chức TAND số 33/2002/QH10,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân số 34/2002/QH10 và các luật hiện hành có thể xác
định nội dung giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan tư pháp theo một nhóm vấn đề
như sau:
Giám sát việc thực hiện pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân gia đình, lao động, hành chính và tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
Giám sát việc thực hiện pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
các cơ quan tư pháp;
Giám sát việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan tư pháp;
Giám sát việc thực hiện pháp luật về nhiệm vụ của những người chịu trách
nhiệm cao nhất trước Quốc hội về hoạt động tư pháp;
Giám sát việc thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp
bị oan sai do người có thẩm quyền của cơ quan tư pháp gây ra;
Giám sát việc thực hiện pháp luật về tổ chức quản lý của cơ quan tư pháp;
Giám sát việc thực hiện pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước cấp cho các
cơ quan tư pháp;
Giám sát việc thực hiện pháp luật về các vấn đề quan trọng khác khi xét thấy
cần thiết (như giám sát vấn đề thực hiện pháp luật về giải quyết các vụ phá sản doanh
nghiệp, đình công, việc thực hiện pháp luật về công nhận và thi hành tại Việt Nam bản
án quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, việc thực hiện pháp luật về ký kết và thực
hiện điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của TANDTC...



Sự phân định các nhóm vấn đề giám sát đối với mỗi cơ quan tư pháp trên đây
chỉ có ý nghĩa tương đối theo pháp luật thực định. Thông qua nội dung giám sát cũng có
thể rút ra kết luận về việc thực hiện pháp luật của cơ quan khác nhau do các cơ quan tư
pháp có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau theo thủ tục tố tụng. Trên thực tế, khi thực hiện
nhiệm vụ của mình Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội cần giám sát
nội dung cụ thể gì còn phụ thuộc yêu cầu, mục đích của cuộc giám sát việc xác định nội
dung giám sát mới chỉ là bước đi ban đầu.
1.2.3. Hình thức giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân
Quốc hội là cơ quan làm việc theo chế độ tập thể, phần lớn các chức năng,
quyền hạn của Quốc hội được hoạt động thông qua hoạt động của UBTVQH, Hội đồng
Dân tộc và các ủy ban khác: thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội: thông
qua các đoàn đại biểu Quốc hội. Trong hoạt động giám sát, Quốc hội có thể sử dụng các
hình thức giám sát như: xem xét báo cáo, xem xét chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ
họp, tổ chức đoàn giám sát … Các hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối
với hoạt động xét xử của TAND được thể hiện sau đây.
1.2.3.1. Hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với Tòa án
nhân dân tại kỳ họp
- Quốc hội xem xét báo cáo công tác của TAND:
Đây là một hình thức thể hiện nội dung giám sát việc tổ chức thực hiện Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, trong các hoạt động thực tiễn trong một thời gian
nhất định (sáu tháng, một năm) và cũng là một hình thức giám sát quan trọng nhất mà
Chánh án TANDTC là người phải chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Nguồn
thông tin để Quốc hội xem xét báo cáo này gồm có: thông tin tổng hợp được đề cập
trong các báo cáo, thông tin do đại biểu tiếp nhận được qua tiếp xúc với cử tri, thông tin
từ dư luận xã hội, thông tin được đề cập trong báo cáo thẩm tra.
- Xem xét chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp:



×