Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Văn hoá chính trị trong hoạt động của hđnd cấp tỉnh ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.16 KB, 105 trang )

LUẬN VĂN:
Văn hoá chính trị trong hoạt động của
HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính trị và quyền lực chính trị là một lĩnh vực trọng yếu nhất của nhân loại. Nếu
chính trị có khoa học, có văn hoá thì mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội sẽ phát triển
theo chiều hướng tích cực, tiến bộ. Ngược lại, nếu chính trị không được giải quyết theo
hướng đó thì xã hội sẽ mất ổn định, rơi vào rối loạn. Mặt khác, chính trị còn là một lĩnh
vực hoạt động đặc thù của con người, rất phức tạp, đa dạng, phong phú, vô cùng nhạy
cảm và tinh tế. Nó đòi hỏi các chủ thể chính trị phải có văn hoá chính trị. Nói cách khác,
văn hoá chính trị là thuộc tính của hoạt động chính trị.
Quyền lực chính trị của một giai cấp được thực hiện thông qua nhà nước của giai
cấp đó. Mục tiêu chính trị đạt được ở mức độ nào tuỳ thuộc vào trình độ hoạch định
đường lối, chủ trương, chính sách của các nhà lãnh đạo chính trị. Phụ thuộc vào khoa
học và nghệ thuật lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện các nội dung kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội của các chủ thể chính trị. Phụ thuộc vào sự nhạy cảm và trình độ thích
ứng, điều chỉnh, xử lý các tình huống chính trị. Bảo đảm môi trường chính trị - xã hội
cho sự phát triển đất nước.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Là một
bộ phận cấu thành của hệ thống quyền lực nhà nước. Hoạt động của HĐND có vai trò
rất quan trọng trong việc hoạch định, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước, chống tha
hoá quyền lực, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí ở địa
phương.
Với vai trò là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng và quyền làm chủ của các
tầng lớp nhân dân ở địa phương. HĐND cấp tỉnh có quyền hạn và nhiệm vụ giám sát
việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ
trang nhân dân và công dân ở địa phương. Bằng thẩm quyền của mình, HĐND bảo đảm
cho mọi mặt của đời sống xã hội hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, hạn chế và đẩy


lùi tiêu cực trong xã hội mà trước hết là trong đội ngũ cán bộ các cơ quan nhà nước
trong hệ thống chính trị. Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.


Tuy vậy, hoạt động của HĐND cấp tỉnh vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém phản ánh
mặt hạn chế của văn hoá chính trị trong tổ chức và hoạt động của HĐND. Biểu hiện rõ
nhất là vẫn chưa thoát thoát khỏi tính hình thức; hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp;
quyền lực nhà nước ở địa phương bị lạm dụng và chưa được kiểm soát chặt chẽ; nhân
dân chưa yên tâm phấn khởi, tin tưởng ở vai trò vị trí và năng lực hoạt động của HĐND.
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân xuất phát từ thể chế, cơ chế vận hành, chính
sách pháp luật, năng lực, kỹ năng và điều kiện, phương tiện hoạt động của đại biểu...
Nguyên nhân sâu xa và cơ bản nhất là văn hoá chính trị trong hoạt động của HĐND
chưa được quan tâm đúng mức.
Việc nghiên cứu thực trạng văn hoá chính trị trong hoạt động của HĐND và tìm
vạch những nguyên nhân của nó, từ đó xác định phương hướng, giải pháp nhằm nâng
cao văn hoá chính trị trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay trở nên
cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề: "Văn hoá chính
trị trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn thạc


chuyên

ngành

Chính

trị

học


của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có nhiều công trình, bài viết của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo về văn hoá
chính trị với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở Việt Nam, từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX,
cùng với sự ra đời của chính trị học, văn hoá chính bắt đầu được nghiên cứu và ngày càng
thu hút sự chú ý của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận nói chung và giới nghiên
cứu chính trị học nói riêng như:
- Phạm Ngọc Quang (chủ biên), (1995), “Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ lãnh dạo ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, bàn về vai
trò của văn hoá chính trị trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở nước ta.
- Hoàng Chí Bảo, “Văn hoá chính trị, một bình diện hợp thành của đối tượng và
nội dung nghiên cứu của chính trị học, một số vấn đề khoa học chính trị”; “Văn hoá
chính trị với công tác vận động quần chúng nhân dân trong tình hình hiện nay”, Tạp chí
Dân vận số 1, 2005, nghiên cứu văn hoá chính trị trong mối quan hệ với chính trị học và


vai trò của văn hoá chính trị trong hoạt động vận động quần chúng ở nước ta theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Hồng Phong (1998), “Văn hoá chính trị Việt Nam truyền thống và hiện
đại”, tập trung nghiên cứu có tính chiến lược của nhân tố nội sinh trong việc khai thác
các nguồn lực ngoại sinh để phát triển đất nước.
- Bùi Đình Phong, “Đỉnh cao tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá”, Nxb Lao động,
2005, nghiên cứu những chuẩn mực tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
- Đặng Đình Tân, “Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở nước ta”
(2000), nghiên cứu văn hoá chính trị trong mối quan hệ quyền lực của nhân dân đối với
các cơ quan dân cử.
- Nguyễn Văn Vĩnh, "Vai trò của văn hoá chính trị trong việc hình thành phẩm
chất và năng lực người lãnh đạo chính trị”, Thông tin chính trị học, số 4- 2003, nghiên
cứu các tiêu chí văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta.
- Phùng Ngọc Diễn, "Giữ gìn, phát huy văn hoá Đảng ta", Tạp chí Văn hoá dân tộc

số 2, 2005, nghiên cứu văn hoá chính trị dưới gốc độ văn hoá đảng của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
- Lê Như Hoa, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá chính trị", Tạp chí Văn hoá
nghệ thuật số 9, 2005, nghiên cứu văn hoá chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Hoài Văn, "Mấy suy nghĩ về văn hoá chính trị Việt Nam trong lịch sử",
Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 3, 1998, đề cập đến những nội dung cơ bản của của văn
hoá chính trị trong lịch sử.
- Phạm Đình Đạt, “Bản chất văn hoá chính trị", Tạp chí Khoa học chính trị số 1,
1998 ”, bàn về các nhân tố bản chất của văn hoá chính trị.
- Trần Ngọc Hiên, “Phát huy ưu thế của nền văn hoá chính trị Việt Nam - Tạo
năng lực cho công cuộc đổi mới”, nghiên cứu vai trò động lực của văn hoá chính trị đối
với công cuộc đổi mới ở nước ta.
- Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), 2006, "Văn hoá mục tiêu và động lực của sự phát
triển xã hội", Nxb Chính trị quốc gia, nghiên vai trò của của văn hoá đối với sự phát
triển xã hội.


- Khăm Mặn Chăn Thạ Lăng Sỹ (2004), “Văn hoá chính trị ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ. Đây là luận án nghiên cứu nền
văn hoá chính trị ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay.
Lâm Quốc Tuấn (2000) “Nâng cao văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nước
ta hiện nay ”, Luận án tiến sĩ Chính trị học, nghiên cứu văn hoá chính trị của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo trong thống chính trị.
- Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2004), “Văn hoá chính trị của đội ngũ giảng viên đại
học ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, nghiên cứu các tiêu chí văn
hoá chính trị trong đội ngũ giảng viên các trường đại học ỏ nước ta.
- Nguyễn Minh Đức,“Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở
tỉnh Kon Tum hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Chính trị học. Nghiên cứu văn hoá chính trị
trong đội ngũ cán bộ ở địa bàn Kon Tum.
Các công trình nghiên cứu trên đi sâu nghiên cứu vai trò của văn hoá chính trị

trong việc thực hiện các chức năng của nhà nước, trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị và vai trò của nhân dân trong việc giám sát các cơ quan dân cử.
Đây là những tài liệu hết sức cần thiết để tác giả tham khảo và kế thừa trong quá trình
thực hiện luận văn của mình. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu
văn hoá chính trị trong hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương nói
chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng.
Do đó, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu “Văn hoá chính trị trong hoạt động của
HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay” vừa đáp ứng nhu cầu nghiên cứu khoa học chính
trị, vừa đáp ứng đòi hỏi của việc không ngừng nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
của HĐND cấp tỉnh trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ vai trò và thực trạng của văn hoá chính trị trong hoạt động của
HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra phương hướng và một số giải
pháp nhằm nâng cao văn hoá chính trị trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh ở nước ta
hiện nay.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày khái quát một số vấn đề lý luận văn hoá chính trị, làm cơ sở xác định
các tiêu chí văn hoá chính trị trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh.
- Phân tích thực trạng văn hoá chính trị trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hoá chính trị
trong tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung khảo sát văn hoá chính trị trong trong hoạt động của HĐND và
đại biểu HĐND cấp tỉnh ở nước ta.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động HĐND cấp tỉnh ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới (1986 đến nay).

5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của
CNXH khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hoá chính trị, về hệ thống chính trị, về Hội đồng nhân dân.
- Dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật Nhà nước về HĐND, các
văn kiện Đại hội Đảng và các nghị quyết của Đảng về Hội đồng nhân dân trong giai
đoạn cách mạng hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử kết hợp phương thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp
nghiên cứu của chính trị học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích và làm sâu sắc thêm nội hàm khái niệm văn hoá chính trị trong hoạt
động của HĐND cấp tỉnh.
- Góp phần đánh giá văn hoá chính trị trong tổ chức và hoạt động của HĐND cấp
tỉnh, bước đầu đưa ra các tiêu chí, chuẩn mực văn hoá chính trị của đại biểu HĐND cấp
tỉnh.


- Đề xuất phương hướng, một số giải pháp nhằm nâng cao văn hoá chính trị trong
hoạt động cuả HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn kết
cấu thành 3 chương, 6 tiết.


Chương 1
VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH


1.1. VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ - KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT
1.1.1. Khái niệm văn hoá chính trị
Chính trị là lĩnh vực hoạt động rộng lớn và quan trọng của con người. Lịch sử xã
hội loài người từ khi phân chia thành giai cấp đến nay là lịch sử của chính trị. Đó là quá
trình giành và kiểm soát quyền lực nhà nước, nói một cách quy giản thì chính trị là lý
luận và thực tiễn, khoa học và nghệ thuật giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, thực
hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia.
Vấn đề quan trọng quyết định tính chất, đặc điểm chính trị là quyền lực chính trị
nằm trong tay giai cấp nào và phục vụ lợi ích cho ai và phương thức giành quyền lực
chính trị được thực hiện bằng cách nào. Sau khi giành được quyền lực chính trị vấn đề
cốt lõi là việc thực thi quyền lực chính trị như thế nào trong việc sử dụng quyền lực,
phân bổ quyền lực, tổ chức hệ thống chính trị, thiết chế chính trị, cơ chế vận hành để
quyền lực chính trị được thực thi trong cuộc sống.
Nhìn từ góc độ triết học thì chính trị là sản phẩm của văn hoá. Văn hoá kết tinh
toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần của con người do vậy mục tiêu chính trị, cơ chế
chính trị, phương thức tổ chức quyền lực, hành vi chính trị của chủ thể chính trị có
hướng đích mục tiêu nhân văn, nhân bản, Chân - Thiện - Mỹ hay không, có vì sự tiến bộ
của con người và xã hội loài người hay không. Đó chính là hàm lượng văn hoá của nền
chính trị.
Khảo sát lịch sử tư tưởng chính trị thế giới từ Đông sang Tây cho thấy cùng với
lịch sử phát triển của xã hội loài người. Con người luôn luôn tìm cách lý giải bản chất,
nguồn gốc của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, cũng như tìm cách thiết kế mô
hình phân chia, vận hành quyền lực nhà nước hướng tới mục tiêu bảo đảm ổn định
chính trị - xã hội, giữ vững quyền lực của giai cấp cầm quyền, hướng tới quyền tự do,
dân chủ của nhân dân. Những giá trị tư tưởng tiến bộ hướng tới sự giải phóng xã hội và


con người đã đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của văn hoá chính trị với tư
cách là một hợp phần của khoa học chính trị học ngày nay.

Việc nghiên cứu văn hoá chính trị với tư cách là lĩnh vực tương đối độc lập bắt đầu
từ giữa thế kỷ XX. Thuật ngữ văn hoá chính trị được sử dụng lần đầu tiên vào năm
1956. Công lao của việc tách riêng lĩnh vực nghiên cứu này và nâng nó lên sự thừa nhận
khoa học thuộc về hai nhà chính trị học người Mỹ là G.Almond và S.Verba đã xuất bản
tác phẩm “Văn hoá công dân” trong đó nêu lên khái niệm văn hoá chính trị như sau:
“Văn hoá chính trị nói về một loại thái độ đối với hệ thống chính trị và thái độ đối với
vai trò của mình trong hệ thống chính trị đó” [51, tr.19].
Nhà chính trị học người Anh L.Pye đưa ra định nghĩa rõ hơn về văn hoá chính trị:
“Văn hoá chính trị là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý nghĩa và
trật tự cho quá trình chính trị; nó đưa ra tiền đề cơ bản và quy tắc chế ước hành vi của
hệ thống chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính
thể” [51, tr.19]
Cùng với quan điểm đó Antonôvich một học giả người Nga nhận định: Siêu nhiệm
vụ của chính trị học là đánh giá hành động của những người lãnh đạo chính trị và ảnh
hưởng của những lực lượng đứng sau họ xem có phù hợp với khả năng sâu xa của xã
hội, với lợi ích và nhu cầu của nhân dân, với tính quy luật lịch sử cơ bản hay không.
Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định văn minh chính trị (cùng với văn minh vật
chất và văn minh tinh thần) đó là một trong ba mục tiêu quan trọng của sự nghiệp hiện
đại hoá - hài hoà xã hội. Trong tác phẩm Trung Quốc đại bách khoa toàn thư - quyển
chính trị học nêu: Văn minh chính trị là sự tổng hoà các thành quả chính trị do con
người cải tạo xã hội mà có, thông thường nó được biểu hiện thành mức độ biểu hiện
dân chủ, tự do, bình đẳng, giải phóng của con người trong một hình thái xã hội nhất
định [43, tr.7].
Trong cuốn giáo trình chính trị học chương trình cao cấp năm 2004, do TS Nguyễn
Văn Vĩnh chủ biên, nêu khái niệm văn hoá chính trị:
Văn hoá chính trị là chất lượng tổng hợp của tri thức và kinh nghiệm
hoạt động chính trị, là tình cảm và niềm tin của mỗi cá nhân tạo thành ý thức
chính trị công dân thúc đẩy họ tới những hành động chính trị tích cực phù



hợp với lý tưởng chính trị của xã hội. Văn hoá chính trị còn là nhu cầu và thói
quen tham gia một cách tự giác, chủ động vào các hoạt động chính trị - xã
hội, trở thành giá trị xã hội của công dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc
dấu tranh vì lợi ích chung của xã hội, vì sự tiến bộ và phát triển [63, tr.16]
GS,TS Phạm Ngọc Quang, đưa ra quan niệm khá đầy đủ về văn hoá chính trị:
Văn hoá chính trị là một phương diện của văn hoá trong xã hội có giai cấp
nói lên tri thức năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức
sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế chính trị được lập
ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp
với sự phát triển lịch sử. Văn hoá chính trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt
động chính trị của con người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực
hiện những lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng [42, tr.19].
Các tác giả trên đã tiếp cận văn hoá chính trị với nghĩa hẹp của văn hoá (văn hoá
tinh thần) khi tiếp cận văn hoá chính trị.
Các tác giả đều nhất trí nhận định văn hoá chính trị như là một phương diện của
văn hoá trong lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội có giai cấp.
Mặc dù có những diễn đạt khác nhau nhưng các tác giả đều tiếp cận văn hoá chính
trị với tư cách giá trị văn hoá do con người sáng tạo ra trong đời sống chính trị. Văn hoá
chính trị tập trung ở phạm trù người, trong mối quan hệ của quá trình phát triển xã hội
có giai cấp.
Văn hoá chính trị là một phương diện của văn hoá, ở đó kết tinh toàn bộ các giá
trị, phẩm chất, trình độ, năng lực chính trị. Văn hoá chính trị được hình thành trên một
nền chính trị nhất định nhằm thực hiện lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và cộng đồng,
phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ của xã hội loài người.
Văn hoá chính trị là sự kết tinh văn hoá trong đời sống chính trị, trong nhận thức
hành vi, phẩm chất năng lực của chủ thể chính trị và trong hoạt động của hệ thống chính trị.
Văn hoá chính trị là sức sống, nguồn sức mạnh bên trong của chủ thể chính trị. Nó quy định
năng lực nội sinh và sức cuốn hút cho sự vận động xã hội hướng tới những giá trị cao đẹp,
văn minh và nhân đạo.



Văn hoá chính trị biểu hiện ra trong đời sống chính trị, cương lĩnh chính trị, trong
chính sách pháp luật của Đảng cầm quyền, của Nhà nước, là ý thức và hành vi của đội
ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, là khả năng thẩm thấu, hiện thực hoá văn hoá trong
chính trị. Biểu hiện tập trung nhất là trong con người chính trị - nhân tố quyết định toàn
bộ thể chế chính trị.
Văn hoá chính trị phản ánh trình độ phát triển văn hoá trong mối quan hệ tất yếu
giữa văn hoá với chính trị, chính trị với văn hoá. Nó nói lên trình độ nhận thức, năng lực
sáng tạo những giá trị văn hoá Chân - thiện - mỹ của chủ thể chính trị, trực tiếp định
hướng hoạt động lý luận và thực tiễn nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và
con người.
Văn hoá chính trị vừa là mục tiêu vừa là động lực, phương thức hoàn thiện và phát
triển của bất cứ nền chính trị dân chủ nào.
Muốn hướng tới một nền chính trị dân chủ đích thực, thì phải coi văn hoá là mục
tiêu, là động lực của chính trị. Văn hoá xét đến cùng chính là con người, là quyền tự do
dân chủ và quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao động. Nhân dân lao động là người
làm chủ xã hội.
Văn hoá chính trị vận động và phát triển trong mối quan hệ với sự vận động và
phát triển của kinh tế, sự tác động của dân trí, truyền thống văn hoá, phương thức tổ
chức hệ thống chính trị; quan hệ giao lưu và tiếp biến văn hoá đối với văn hoá và chính
trị thế giới và sự chi phối của trình độ, nhân cách người cầm quyền.
Văn hoá chính trị luôn gắn liền với chủ thể chính trị. Nói đến văn hoá là nói đến
con người; nói đến văn hoá chính trị là nói đến con người chính trị - chủ thể chính trị.
Văn hoá chính trị là thước đo khả năng sáng tạo của chủ thể chính trị trong nhận
thức các quy luật vận động khách quan của xã hội và sự tác động qua lại với đời sống
chính trị, các quy luật chính trị và cầm quyền. Chính thể chính trị là nhân tố quyết định
hàm lượng văn hoá chính trị trong đời sống chính trị qua nhận thức và hành vi của họ.
Đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kế
thừa các giá trị trong quan niệm về văn hoá chính trị ở các nước và nước ta trong thời
gian gần đây. Xét về bản chất văn hoá chính trị là tổng hoà các giá trị chính trị (bao hàm

cả vật chất và tinh thần) do con người sáng tạo ra trong xã hội có giai cấp, có thể hiểu


văn hoá chính trị là một bộ phận, một phương diện của văn hoá trong xã hội có giai cấp
nói lên chất lượng tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần với hạt nhân là các giá
trị chính trị nhân văn được con người sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính trị, để
thực thi trong quan hệ về quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nhằm thực hiện lợi
ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch sử.
Văn hoá chính trị là cái phản ánh trình độ trưởng thành nhân cách chính trị của các
chủ thể chính trị trong đời sống xã hội. Văn hoá chính trị là thuộc tính, bản chất của thể
chế chính trị hiện thực.
Từ quan niêm về văn hoá và vai trò của văn hoá đối với tiến trình phát triển xã hội.
Đến lúc văn hoá chính trị trở thành tâm điểm chủ yếu của các nhà nghiên cứu chính trị
bởi vì chính trị, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là trung tâm, là cốt lõi của mọi
cuộc cách mạng. Văn hoá chính trị trở thành nhân tố bảo đảo cho quá trình vận hành và
phát triển của đời sống chính trị - xã hội đương đại.
1.1.2. Cấu trúc văn hoá chính trị
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc của văn hoá chính trị.
Xét văn hoá chính trị với tư cách là hệ giá trị do chủ thể chính trị sáng tạo ra thì
văn hoá chính trị được cấu thành trong sự thống nhất, tác động qua lại của những nhân
tố cơ bản:
Tri thức chính trị: Là sự nhận thức các quy luật chung nhất của các quá trình vận
động, phát triển, của các quá trình cũng như các tri thức được khái quát từ các hiện
tượng chính trị, chế độ chính trị và nền chính trị.
Những tri thức về quá trình phát triển của chính trị nhân loại luôn chứa đựng hàm
lượng văn hoá chính trị cao. Như các học thuyết, các quy luật về phát triển tự nhiên và
xã hội của chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, hay những bài học
của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thể hiện
tầm văn hoá chính trị cao.
Kinh nghiệm chính trị là tri thức được rút ra từ hoạt động thực tiễn, nó có vị trí rất

quan trọng trong hoạt động của thể chế chính trị.
Lý tưởng chính trị: Là mục tiêu chính trị cao nhất của mỗi chủ thể chính trị. Lý
tưởng chính trị quy định hành động chính trị. Mỗi chủ thể chính trị và con người chính


trị luôn luôn hành động tự giác thậm chí hy sinh xả thân cho mục tiêu lý tưởng chính trị,
mỗi khi lý tưởng trở thành lẽ sống thì nó có sức lay động, lôi cuốn tập hợp hàng triệu,
hàng triệu người tham gia vào quá trình chính trị, góp phần giành thắng lợi quyết định
của cách mạng. Lý tưởng chính trị do tri thức chính trị quy định.
Tri thức chính trị đúng, nhận thức được bản chất quy luật, vận động của tự nhiên
và xã hội là cơ sở khoa học, khách quan hình thành lý tưởng chính trị. Lý tưởng chính
trị chi phối hành động chính trị nhằm thực hiện mục tiêu lý tưởng chính trị. Trong hoạt
động chính trị, sự phai nhạt lý tưởng chính trị sẽ dẫn đến mất phương hướng, nhận thức
và hành động thiếu nhất quán, dẫn đến những sai lầm, thất bại.
Niềm tin chính trị là trạng thái thừa nhận sự đúng đắn đối với lý tưởng chính trị,
niềm tin chính trị vừa có tính cảm tính, vừa có tính lý tính, nó là thái độ chủ quan của
con người, do đó cũng có thể dẫn tới sai lầm.
Thực tế đã chứng minh, một số đồng bào dân tộc Tây Nguyên đặt niềm tin chính
trị mù quáng vào một “nhà nước Đề Ga độc lập” và đã tham gia bạo loạn chính trị ở Tây
Nguyên đó là sự sai lầm của niềm tin chính trị.
Mặc dù con đường đi tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới
còn lắm chông gai, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam có niềm tin chính trị vào mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì dựa trên tri thức chính trị đúng đắn của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - học thuyết khoa học và cách mạng không
ngừng được bổ sung và hoàn thiện bằng kinh nghiệm lịch sử đấu tranh cách mạng của
Đảng và nhân dân ta.
Ý thức chính trị: Ý thức chính trị chính là mặt tinh thần của chủ thể chính trị. Lý
tưởng, niềm tin, mục đích chính trị được biểu hiện một cách tự giác, có hướng đích
trong thực tiễn hoạt động chính trị.
Ý thức chính trị có được thông qua một quá trình rèn luyện gian khổ trong thực

tiễn, phải trải qua quá trình nhận thức từ tình cảm đến lý tính, từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở thành hành động tự giác của con
người. Phấn đấu, hy sinh quyết tâm thực hiện mục tiêu lý tưởng chính trị đã được nhận
thức.


Tình cảm chính trị là trạng thái ban đầu của ý thức chính trị, là hoạt động mang
tính tâm lý, là thái độ bảo vệ, ủng hộ, phấn đấu cho mục đích chính trị, lý tưởng chính
trị. Trải qua thời gian, tình cảm chính trị dần dần được giác ngộ bằng tri thức khoa học.
Làm cho tình cảm chính trị trở thành lý trí, chuyển hoá hành động của chủ thể chính trị
từ tự phát sang hành động chính trị tự giác.
Trong quá trình tập hợp lực lượng cách mạng, các đảng chính trị bao giờ cũng
thông qua xây dựng ngọn cờ, nhân tố chính trị và thông qua ảnh hưởng của ngọn cờ kết
hợp năng lực tuyên truyền, vận động để lôi kéo quần chúng nhất là tầng lớp trẻ tuổi,
chiếm lấy tình cảm, niềm tin chính trị của họ để phát triển ảnh hưởng. Từ đó giác ngộ
họ trở thành lực lượng chính trị tự giác nhằm mục đích đấu tranh cho việc giành quyền
lực chính trị.
Do đặc điểm tâm lý chính trị như vậy cho nên trong quá trình lãnh đạo cách mạng
các đảng chính trị phải luôn luôn chú ý giáo dục ý thức chính trị, xây dựng niềm tin và
lý tưởng chính trị đối với quần chúng nói chung nhất là tầng lớp trẻ tuổi nhằm tránh sự
lôi kéo của các thế lực thù địch.
Lý trí chính trị là trạng thái nhận thức được dẫn dắt bởi cơ sở khoa học. Lý trí
chính trị trực tiếp dẫn dắt hành động chính trị. Trong một nền chính trị mà lý trí chính
trị được củng cố, thống nhất thành một khối nghĩa là tri thức chính trị, lý tưởng và niềm
tin chính trị trở thành nhân tố chủ đạo, tiệm cận với ý chí, nguyện vọng của đại đa số
nhân dân thì nền chính trị đó sẽ tồn tại và phát triển bền vững. Trái lại một nền chính trị
mà lý trí chính trị bị suy giảm, đánh mất niềm tin chính trị, xét lại tri thức chính trị. Chủ
thể chính trị không thường xuyên bồi dưỡng, rèn dũa, mài sắc lý trí chính trị cho mình
và cho quần chúng thì dễ dẫn đến mất phương hướng và đe doạ vai trò chính trị của
Đảng cầm quyền.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ đã chứng minh lý trí chính trị của
tổ chức đảng và đảng viên đã dẫn dắt tình cảm chính trị của mọi tầng lớp nhân dân dưới
ngọn cờ của Đảng, đạp bằng mọi gian khổ, hy sinh, làm nên những chiến công hiển
hách của dân tộc và thông qua thực tiễn cách mạng để xây dựng một Đảng Mác xít
Lêninnít vững mạnh, có tri thức, niềm tin lý tưởng cách mạng để dẫn dắt cách mạng
nước ta tiếp tục đi tới. Mặt khác, trong thời đại ngày nay, trong xu thế hoà nhập sâu vào


nền kinh tế, chính trị thế giới, đứng trước những mâu thuẫn của thời đại và nhu cầu phát
triển của đất nước. Đảng phải bồi dưỡng tri thức chính trị, niềm tin và lý tưởng chính trị
cho toàn Đảng, toàn dân, làm cho mục tiêu lý tưởng cách mạng trở thành lẽ sống không
gì lay chuyển nổi, đồng thời kiên quyết khắc phục những hạn chế khuyết điểm về lý
luận, thực tiễn, đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân làm
cho đảng tiếp tục giữ vững ngọn cờ tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc để làm tròn sứ mệnh
lãnh đạo cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng.
Năng lực chính trị: là khả năng hoạt động chính trị của chủ thể chính trị, được biểu
hiện trên hai lĩnh vực: hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn.
Năng lực chính trị quyết định hiệu quả (hàm lượng, mức độ, giá trị) của văn hoá
chính trị trong hoạt động chính trị.
Năng lực lý luận của chủ thể chính trị, chính là quá trình nhận thức quy luật vận
động của hiện thực khách quan và năng lực phản ánh hiện thực khách quan vào nhận
thức lý tính của chủ thể chính trị.
Để đạt tới năng lực lý luận đòi hỏi chủ thể chính trị phải nắm vững các quy luật
vận động của tự nhiên, xã hội, tư duy; các quá trình phát triển, các mối quan hệ giữa
chính trị với phát triển, chính trị với kinh tế, chính trị với văn hoá, chính trị với khoa
học kỹ thuật, chính trị với tự do dân chủ, chính trị với tôn giáo, dân tộc… Tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại, kế thừa và phát triển các thành tựu tri thức mới của nhân loại,
nhận thức và dự báo xu hướng phát triển của nền kinh tế, chính trị thế giới. Nhất là đặc
điểm, điều kiện, khả năng hiện thực, vị thế chính trị của mỗi quốc gia dân tộc trong mối

quan hệ dân tộc với thế giới.
Năng lực lý luận của chủ thể chính trị là cung cấp cơ sở khoa học của tri thức
chính trị, là xuất phát điểm của niềm tin, lý tưởng chính trị, tình cảm và lý trí chính trị.
V.I.Lênin nói: Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng; Hồ Chí
Minh nói: Cách mệnh mà không có chủ nghĩa cũng như con tàu đi giữa biển mà không
có bàn chỉ nam, là nói lên vai trò quyết định của lý luận trong thể chế chính trị. Lý luận
đạt tầm văn hoá không chỉ có khả năng làm ngọn cờ dẫn dắt giai cấp, dân tộc mình mà
còn có khả năng lan toả, làm ngọn cờ cách mạng cho các quốc gia, dân tộc khác noi


theo. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917; cách mạng tháng tám, thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, có tầm vóc văn hoá,
tạo bước nhảy vọt về chất của phong trào cách mạng thế giới cũng như ở nước ta.
Năng lực lý luận có ý nghĩa quan trọng quyết định đối với thể chế chính trị, nhưng
chỉ dừng lại ở năng lực lý luận thì toàn bộ đời sống chính trị vẫn đứng yên mà không có
bước tiến bộ nào. Lênin nói: Lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bởi lực lượng vật
chất. Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất khi nó xâm nhập vào quần chúng. Hồ Chí
Minh nói: “Lý luận mà không đi đôi với việc làm là lý luận suông…”. Thế mới thấy rõ
vai trò của năng lực thực tiễn, hoạt động thực tiễn.
Hoạt động chính trị đòi hỏi Đảng cầm quyền phải biết tổ chức ra lực lượng chính
trị quần chúng, giác ngộ quần chúng. Phải rèn luyện đội ngũ của Đảng trong lò lửa của
cuộc đấu tranh như lửa thử vàng, gian nan thử sức. Phải xây dựng được đội ngũ cán bộ,
hình thành nên tổ chức cơ sở có tri thức chính trị, có lý tưởng và niềm tin sắt đá vào lý
tưởng chính trị, mục tiêu và quyết sách chính trị. Có bản lĩnh và quyết tâm hành động
thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, năng lực hành động chính trị còn biểu hiện ở
hành vi cá nhân của chủ thể chính trị trong rèn luyện đạo đức cách mạng. Học tập, noi
gương đạo đức, tác phong: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư và trong hoạt động
chính trị - thân dân thì đội ngũ cán bộ, đảng viên mới hoàn thành được trọng trách của
mình trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hệ tư tưởng và đường lối chính sách của Đảng cầm quyền: là bộ phận hạt nhân của
văn hoá chính trị. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh đúng quy luật khách quan, phù hợp
xu thế thời đại, vì sự tiến bộ xã hội và giải phóng con người đó là hệ tư tưởng mang nội
dung văn hoá chính trị cao.
Hệ tư tưởng là một hệ thống phạm trù, quy luật, mục tiêu, quan điểm, phương
pháp, hình thức, nội dung chính trị của một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng chỉ ra con
đường và phương thức để đạt tới các mục tiêu chính trị mang tính phổ quát, làm cơ sở
nhận thức luận cho các Đảng chính trị trong quá trình đề ra đường lối chính sách và
phương thức hoạt động của mình phù hợp với thực tiễn chính trị hiện thực. Hệ tư tưởng
là một hệ thống mở, luôn luôn được sáng tạo bổ sung để không bị lạc hậu bởi lịch sử.


Đường lối chính trị là con đường đi tới tương lai, là mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ
chiến lược, phương hướng và biện pháp chính trị do Đảng chính trị vạch ra cho một giai
đoạn lịch sử nhất định, nhằm giải quyết các mâu thuẫn nội tại trong quá trình phát triển
của một quốc gia, dân tộc.
Chính sách chính trị là sự cụ thể hoá các mục tiêu chính trị của chính Đảng, thành
ý chí của Nhà nước với tư cách là trung tâm của quyền lực chính trị trong điều kiện
Đảng cầm quyền. Hay được biểu hiện ở các quy tắc, quy ước chỉ đạo hoạt động của các
lực lượng chính trị của một chính Đảng không tham chính, nhằm lôi kéo các tầng lớp
trong xã hội tham gia vào hoạt động chính trị của các Đảng.
Đường lối chính sách đúng là nhân tố quyết định thắng lợi của Đảng chính trị.
Quyết định vai trò chính trị của Đảng trong xã hội. Bởi vì mỗi khi đường lối chính sách
không ăn sâu, bám rễ vào cuộc sống kìm hãm hoặc đi ngược lại lợi ích của giai cấp và
dân tộc thì Đảng tự đặt mình ra khỏi vị trí là đội tiên phong của giai cấp.
Cơ sở bảo đảm cho đường lối chính sách của Đảng luôn luôn đúng, ngoài việc giữ
vững bản chất mục tiêu, lý tưởng chính trị thì các Đảng còn phải phát huy dân chủ trong
Đảng và ngoài xã hội. Mọi đường lối chính sách đều phải xuất phát từ quy luật khách quan,
xuất phát từ nhu cầu và hơi thở của cuộc sống.
Các truyền thống chính trị mang giá trị văn hoá tiêu biểu của dân tộc và nhân

loại: Văn hoá của một dân tộc là linh hồn, là “căn cước” để phân biệt sự khác nhau giữa
dân tộc này với dân tộc khác. Vì vậy, văn hoá chính trị với tư cách là nhân lõi của văn
hoá tự nó phải hàm chứa các giá trị văn hoá tiêu biểu của dân tộc.
Giá trị văn hoá tiêu biểu của dân tộc là sự kết tinh, “cố kết”, “cô đặc” phong cách,
tâm hồn, khí phách, tâm lý của dân tộc qua hàng ngàn năm lịch sử mà có. Những giá trị
văn hoá ấy như nguyên khí của đất trời được hoá thân vào con người và di truyền từ đời
này qua đời khác. Nó quy định tình cảm, tâm lý, lẽ sống của con người trong dân tộc,
trong đó có con người chính trị, chủ thể chính trị.
Dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên những giá trị văn hoá, chính trị mang đậm
truyền thống dân tộc. Đó là ý thức về quốc gia, dân tộc độc lập, tinh thần đoàn kết; tính
cộng đồng; tính sáng tạo, năng lực tiếp biến văn hoá trước hoàn cảnh; lòng nhân ái
khoan dung; tinh thần bang giao và đoàn kết Quốc tế. Những giá trị truyền thống đó


được nâng lên thành văn hoá chính trị Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tinh thần yêu nước được nâng lên thành chủ nghĩa yêu
nước; chủ nghĩa yêu nước được nâng lên thành giá trị chuẩn mực quan hệ giữa dân tộc
với giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa yêu nước gắn với
tinh thần Quốc tế trong sáng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát
triển các quan hệ cộng đồng thành khối đại đoàn kết toàn dân tất cả vì độc lập, tự do,
hạnh phúc của nhân dân.
Những giá trị văn hoá chính trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc góp phần hình
thành văn hoá chính trị cao của cách mạng nước ta luôn ngang tầm các giá trị chung của
văn hoá nhân loại, nó vừa là của báu của dân tộc nhưng đồng thời do tác động của trình
độ phát triển kinh tế xã hội còn lạc hậu, chưa thoát ra khỏi tâm lý tiểu nông là những lực
cản làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả văn hoá chính trị.
“Văn hoá chính trị Việt Nam phát triển vượt trội hơn những điều kiện kinh tế xã
hội cần có. Điều đó một mặt nói lên tầm vóc, vị thế chính trị của dân tộc trước hoàn
cảnh, nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần khắc phục trong tâm lý đạo đức
của hoạt động chính trị do sự tác động của điều kiện kinh tế xã hội còn lạc hậu có thể

dẫn tới hạ thấp chất lượng văn hoá chính trị” [25, tr.45].
1.1.3. Tính chất của văn hoá chính trị
- Tính xã hội và tính giai cấp: Văn hoá hay văn hoá chính trị đều là những phạm
trù thuộc về bản chất con người. Sự tồn tại và phát triển của văn hoá chính trị gắn liền
với sự hình thành và phát triển xã hội có giai cấp. Năng lực sáng tạo của con người
trong xã hội có giai cấp, vừa phản ánh những quan hệ, lợi ích giai cấp, vừa phản ánh
những đặc điểm tồn tại xã hội.
Văn hoá chính trị phản ánh tập trung ở quá trình thể chế hoá đường lối, mục tiêu
chính trị của Đảng chính trị, thông qua hệ thống văn bản QPPL chứa đựng những chính
sách đối nội, đối ngoại, về mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội…Thông qua lăng kính pháp luật phản ánh hệ giá trị văn hoá chính trị của một nền
chính trị, của một thể chế nhà nước. Trình độ văn hoá chính trị càng cao thì chủ thể
chính trị càng nhận thức sâu sắc hơn lợi ích giai cấp trong mối quan hệ với lợi ích dân
tộc và lợi ích xã hội, bổ sung chức năng tổ chức và lãnh đạo quá trình vận động của xã


hội, chức năng đại biểu cho lợi ích dân tộc của Đảng cầm quyền. Văn hoá chính trị đến
lượt nó giữ vai trò định hướng của văn hoá dân tộc.
Dưới chế độ XHCN, văn hoá chính trị của Đảng cầm quyền thống nhất với lợi ích
chính trị của đông đảo quần chúng lao động mà nồng cốt là liên minh giai cấp giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Xét cho cùng chỉ có văn hoá
chính trị XHCN mới giải quyết triệt để mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người và vì vậy nó vừa là mục tiêu cao cả, vừa là động lực mạnh mẽ của
công cuộc đấu tranh vì sự thắng lợi của CNXH ở mỗi quốc gia và trên phạm vi thế giới.
Phép biện chứng duy vật đã chỉ ra quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư
duy. Chủ nghĩa tư bản, văn hoá chính trị tư sản đang trong quá trình vận động và phát
triển theo đúng logic của nó, đang là một hiện thực lịch sử ẩn chứa bên trong nó nhiều
giá trị kết tinh từ lịch sử phát triển văn minh nhân loại. Nó đã tạo ra cho chủ nghĩa tư
bản khả năng thích ứng tích cực trước các nhu cầu của thời đại, làm thay đổi nhiều giá
trị trong các quan hệ kinh tế, văn hoá, xã hội, tạo tiền đề kinh tế - xã hội cho việc trau

dồi văn hoá chính trị. Đó là kết quả đấu tranh lâu dài của giai cấp công nhân và các lực
lượng tiến bộ vì dân sinh, dân chủ, công bằng xã hội; của các lực lượng yêu chuộng hoà
bình và công lý trên thế giới. Những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản cũng không vượt
qua giới hạn của chủ nghĩa duy vật lịch sử về sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội,
theo quy luật quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, xã hội hoá ngày càng cao thì tất yếu các yếu
quan hệ sản xuất TBCN phải thay đổi, tuy chưa đến bước nhảy vọt để hình thành quan
hệ sản xuất mới, nhưng xu thế toàn cầu hoá về lực lượng sản xuất khiến cho các nhà tư
bản không thể giữ khư khư khối lượng giá trị thặng dư tăng thêm mà phải điều chỉnh
nhằm “chia sẻ” quyền lợi cho người khác (cả quyền sở hữu, quản lý và phân phối) trong
vòng kiểm soát không để cho trật tự tư bản chủ nghĩa bị phá vỡ.
Đặc điểm đấu tranh chính trị, xã hội đương đại nói lên mối quan hệ tương tác của
văn hoá chính trị trong nền chính trị thế giới. Tính chất giai cấp của văn hoá chính trị
biểu hiện đan xen trong quá trình hội nhập, hợp tác, đấu tranh trên mọi bình diện của
cuộc sống. Nó tuỳ thuộc vào tư duy chính trị của mỗi chủ thể chính trị trong mỗi quốc
gia dân tộc mà biểu hiện ra là quan hệ của các nước trong tiến trình hội nhập sâu rộng


vào các cơ cấu kinh tế thế giới cũng như quá trình hợp tác, phát triển về văn hoá, giáo
dục, khoa học - công nghệ, môi trường, đấu tranh chống khủng bố và bảo vệ hoà bình.
Đó là quá trình phức tạp, đòi hỏi năng lực, bản lĩnh chính trị vững vàng, biết tận dụng
thời cơ và hạn chế những thách thức. Biến đối tượng thành đối tác, thêm bạn bớt thù, dĩ
bất biến ứng vạn biến với tầm văn hoá chính trị cao thì mục tiêu chính trị sẽ đạt được.
Nếu đi ngược lại các quá trình đó thì thất bại.
- Tính dân tộc và nhân loại: Văn hoá chính trị luôn gắn liền với văn hoá dân tộc,
vì văn hoá chính trị là một phương diện của văn hoá. Văn hoá dân tộc là hệ giá trị
chung, tiêu biểu của dân tộc. Còn văn hoá chính trị là nhân lõi, là cơ chế vận hành đời
sống văn hoá, phát huy văn hoá dân tộc trong hoạt động chính trị.
Tính nhân loại của văn hoá chính trị là biểu hiện tri thức chính trị của chủ thể
chính trị. Đó là năng lực nhận thức, phản ánh đời sống chính trị thế giới, các quy luật

vận động khách quan của lịch sử xã hội loài người cũng như các quá trình chính trị, mục
tiêu, quyết sách chính trị nhằm hướng tới các giá trị văn hoá nhân loại, phục vụ lợi ích
của con người và sự tiến bộ của xã hội loài người. Đó là những giá trị phổ quát, là mục
tiêu chung của chính trị cần đạt tới. Tính nhân loại của văn hoá chính trị phản ánh sự tác
động của văn hoá chính trị trong quá trình giao lưu, đấu tranh, tiếp biến để làm giàu tri
thức chính trị của các Đảng cầm quyền và các nhà nước trong cộng đồng thế giới.
Tính lịch sử của văn hoá chính trị: Chính trị mang tính lịch sử vì vậy văn hoá
chính trị mang tính lịch sử. Văn hoá chính trị là một hình thái tinh thần của con người
chính trị được biểu hiện qua các nhân tố cấu trúc nội dung chính trị. Những tri thức,
mục tiêu, đường lối, chính sách thậm chí cả những vấn đề về ý thức hệ nếu không được
bổ sung, hoàn thiện thì đều trở nên hạn chế trước lịch sử.
Thực tại khách quan và đời sống chính trị luôn luôn vận động trong không gian,
thời gian, do đó nhận thức chính trị, quyết sách chính trị trong mỗi giai đoạn lịch sử có
vai trò và vị trí khác nhau. Khi hoàn cảnh thay đổi thì nhận thức, quyết sách chính trị
phải thay đổi, làm cho văn hoá chính trị luôn luôn là người dẫn đường sáng suốt của
thực tiễn. Ph.Ăngghen đã từng chỉ giáo chủ nghĩa của chúng tôi (chủ nghĩa Mác) không
phải là nhất thành bất biến mà chỉ là kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng rập khuôn,
máy móc, chủ nghĩa giáo điều, không biết sáng tạo nâng tầm văn hoá chính trị của các


Đảng Cộng sản và công nhân sớm muộn cũng dẫn tới xa rời Học thuyết khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Sự sụp đổ của các nước XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu đã chứng minh nguồn gốc sâu xa về sự xa rời tính lịch sử của văn hoá chính
trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì đường lối kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp
kéo dài sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước đã
đưa đất nước bước vào thời kỳ khó khăn, suy thoái cũng là một minh chứng về tính lịch
sử của văn hoá chính trị.
Tính lịch sử của văn hoá chính trị đòi hỏi chủ thể chính trị phải luôn luôn đổi mới
và sáng tạo, không thoả mãn với những thành tựu văn hoá chính trị đã có, dẫn tới sự

“kiêu ngạo cộng sản” mà phải luôn nhạy bén nắm bắt thực tiễn để đưa ra đường lối,
quyết sách chính trị đúng đắn sáng tạo đáp ứng nhu cầu vận động của thực tiễn.
Hồ Chí Minh đã nhắc nhở Đảng ta: “Mỗi dân tộc, mỗi Đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ họ không trong sáng nữa” [36, tr.557558].
Tính đa dạng phong phú của văn hoá chính trị: Hoạt động chính trị là hoạt động
xã hội đặc biệt phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, giai tầng xã hội có lợi ích đối
lập nhau hoặc khác nhau nhằm giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị mà thực chất là
hướng tới quyền lực nhà nước. Do đó, hoạt động chính trị rất đa dạng phong phú, mỗi
giai cấp có sự khác nhau về tư tưởng, mục tiêu, quyết sách chính trị, phương pháp tổ
chức thực hiện, vì vậy văn hoá chính trị cũng mang tính đa dạng phong phú. Ngay trong
hệ thống thiết chế chính trị cùng một hệ tư tưởng thì văn hoá chính trị cũng biểu hiện sự
đa dạng phong phú, có sự khác biệt lẫn nhau do sự tác động của bản sắc văn hoá các dân
tộc, bởi tâm lý, tình cảm, nhận thức, thái độ, tính cách khác nhau của các chủ thể chính
trị. Tính đa dạng phong phú của văn hoá chính trị là nhân tố ngoại sinh trong quá trình
vận động của văn hoá chính trị, thúc đẩy văn hoá chính trị phát triển cùng với sự phát
triển của văn hoá.
1.2. VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH
TRỊ


1.2.1. Vai trò của văn hoá chính trị đối với quá trình phát triển xã hội
Chính trị và phát triển xã hội là những khái niệm bộ phận cấu thành của chính trị
học và khoa học chính trị. Trong quá trình phát triển của xã hội có giai cấp, chính trị nói
chung mà bản chất là văn hoá chính trị trực tiếp tác động đến quá trình phát triển xã hội.
Lịch sử còn ghi dấu ấn về các thể chế chính trị được tổ chức từ một trình độ văn
hoá chính trị cao, dựa trên các tri thức khoa học, nắm vững và vận dụng các quy luật
vận động của tự nhiên và xã hội trong quá trình phát triển. Đồng thời lịch sử cũng
chứng kiến sự xuất hiện của các thể chế phản văn hoá chính trị đã kìm hãm sự phát triển
của nhân loại như trong đêm trường Trung cổ, chủ nghĩa Phát xít và chế độ Khơme

đỏ…
Các nhà chính trị học Mác xít quan niệm rằng con người chính là sản phẩm của
giới tự nhiên. Con người xuất hiện là nấc thang cao nhất của sự tiến hoá của tự nhiên.
Con người trở thành nhân tố quyết định sự phát triển xã hội - mặc dù quá trình phát
triển của xã hội cũng là quá trình lịch sử tự nhiên nằm ngoài ý muốn của con người.
Nhưng đó là quá trình phát triển thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và nhà nước, con người tồn tại với tư cách là con
người chính trị - một thực thể chính trị, một chủ thể của văn hoá chính trị, của quyền lực
nhà nước, con người luôn luôn có khát vọng vươn tới tự do, một bước tiến trên con
đường văn minh là một bước tiến tới tự do. Phát triển là một quá trình làm cho con
người hoàn thiện nhân cách của mình, tự tin ở chính mình, là quá trình giải phóng con
người khỏi, đẩy lùi sự áp bức về chính trị, kinh tế, xã hội.
Văn hoá chính trị có vai trò thúc đẩy quá trình phát triển xã hội dựa trên quan điểm
lấy con người làm trung tâm. Phát triển xã hội chính là quá trình tạo lập các điều kiện
phát triển của con người về kinh tế, văn hoá, xã hội…vươn tới sự thoả mãn ngày càng
cao nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
B.Gali - nguyên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc nhận định: “Phát triển là một quá
trình hướng tới việc thiết lập một nền dân chủ ổn định cho phép không ngừng nâng cao
mức sống cho quần chúng nhân dân theo một cách thức mang tính nhân văn và công
bằng. Nói cách khác phát triển là quá trình tiến hoá đồng bộ của năm thành tố cơ bản:
Tăng trưởng kinh tế, ổn định, công bằng, dân chủ, quyền con người”. Trong các thành


tố của khái niệm phát triển này có tới bốn thành tố thuộc về văn hoá chính trị (ổn định,
công bằng, dân chủ, quyền con người), đồng thời thành tố tăng trưởng kinh tế cũng do
văn hoá chính trị (chiến lược, đường lối, chính sách phát triển) quyết định.
Để đi tới một xã hội phát triển theo quan điểm chính trị lấy con người làm trung
tâm. Văn hoá chính trị phải hiện thực hoá các tiêu chí của sự phát triển xã hội:
- Tiêu chí tham gia
Chính là mức độ tham gia của nhân dân vào các công việc nhà nước và xã hội với

tư cách là chủ thể của công việc đó, nhất là vai trò chủ thể chính trị - công dân trong
việc quyết định các vấn đề của đất nước hay địa phương. Tiêu chí này được thực hiện,
chỉ có thể thông qua chế độ dân chủ được thiết lập và ngày càng mở rộng trở thành hiện
thực cuộc sống.
J.Patrick Gunning trong tác phẩm “lựa chọn công cộng” đã trình bày quan niệm
dân chủ như một loại hình Chính phủ với hai đặc tính cơ bản: (1) tính đại diện và (2)
tính pháp trị. Theo quan niệm, tính đại diện có nghĩa là sở thích của mỗi công dân đều
được thể hiện trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật. Trong một nền dân chủ
lớn điều này nhất thiết phải được thực hiện thông qua bầu cử; tính pháp trị có nghĩa là
các quyết định đưa ra về việc các cá nhân có vi phạm pháp luật hay không và hình phạt
nào đối với họ phải dựa theo nguyên tắc chung [58, tr.32].
Có thể nhận thấy bản chất, thuộc tính của dân chủ theo quan niệm này đã cơ bản
thống nhất với văn hoá chính trị. Ở chỗ, sự tham gia của công dân đã đòi hỏi: Thứ nhất
công dân phải có năng lực tham gia vào đời sống chính trị như vậy người công dân phải
có tri thức và hành vi phù hợp nhất định. Thứ hai, hệ thống chính trị phải là một hệ
thống “mở” đối với sự tham gia của người dân. Để có hệ thống mở đó toàn bộ tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị mà trọng tâm là nhà nước phải tuân thủ những
chuẩn mực của văn hoá chính trị hiện đại đó là dân chủ, pháp quyền.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa trong bản chất là dân chủ cho số đông (xét về mặt lợi
ích) và vì vậy dân chủ là hình thái của văn hoá chính trị.
- Tiêu chí đồng thuận xã hội
Là hệ quả của quá trình dân chủ hoá xã hội, làm cho mọi thành viên được tham gia
vào hầu hết các công việc của nhà nước và xã hội, hình thành ý thức tự giác trong việc


chấp hành pháp luật do sự tương đồng về lợi ích của các công dân quy định. Đồng thuận
xã hội được coi là chìa khoá cho sự phát triển xã hội. Văn hoá chính trị thúc đẩy đồng
thuận xã hội vì sự phát triển của xã hội.
Văn hoá chính trị có vai trò hình thành chủ thể kinh tế và tác động phát huy tác
dụng của các quy luật kinh tế, quy luật thị trường. Trong thời đại ngày nay, các nhà

nghiên cứu Mác xít đã cơ bản nhất trí kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của
quan hệ sản xuất xã hội, nó chính là thành tựu của sự phát triển của nhân loại chứ không
phải là chế độ kinh tế đặc thù của chủ nghĩa tư bản. Nhận thức đúng về kinh tế thị
trường góp phần làm cho chủ thể chính trị nhận thức đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội.
Văn hoá chính trị trở thành nhân tố tác động thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã
hội phát triển. Con người nhờ đó nối dài và mở rộng các giác quan trong thế giới tự
nhiên. Với tư cách là một cá nhân, con người có điều kiện để nhận được nhiều nhất
phúc lợi tương xứng với khả năng của họ.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình đổi mới nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và là biểu hiện của văn hoá chính trị tích cực nhằm nhận thức
và vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường vào mục tiêu, định hướng phát triển của
đất nước. Vì kinh tế thị trường với tư cách là thành tựu của quá trình phát triển cũng
không phải là chìa khoá vĩnh cửu, vạn năng mà là điều kiện cần cho sự phát triển.
Văn hoá chính trị có vai trò xác lập thể chế chính trị, hình thành hệ thống chính trị
và xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là nhân tố quan trọng nhất của quyền lực chính
trị. Văn hoá chính trị hình thành những chuẩn mực và chức năng, vị trí, vai trò, cơ chế
hoạt động của hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội). Cụ
thể hoá các mục tiêu chính trị của Đảng thành pháp luật để dùng làm phương tiện thực
hiện quyền lực chính trị. Văn hoá chính trị phản ánh bản chất nhà nước và quyết định
chiều hướng phát triển tiến bộ của một nền chính trị. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ngày nay được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản là: Quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân; hoạt động của các thể chế nhà nước tuân thủ nguyên tắc công minh,
công khai, minh bạch; pháp luật đóng vai trò tối thượng, ngự trị trong đời sống xã hội, phản
ánh ý chí của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ các quyền thiêng liêng của cá nhân như quyền


con người, quyền công dân, quyền cộng đồng, quyền dân tộc, quyền sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là những giá trị chung mà nhân loại cần phấn đấu để đạt tới.
Trong nhà nước pháp quyền, nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung, phân quyền giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Nước ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng và nội dung cơ bản của nhà nước
pháp quyền với tư cách là thành tựu chung của khoa học tổ chức nhà nước, trên cơ sở
điều kiện kinh tế xã hội, văn hoá truyền thống, dân trí và trình độ pháp luật của nhân
dân để xây dựng nhà nước ta có các đặc trưng cơ bản là: Quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, song có sự phân công, phối hợp thực hiện
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; trong nhà nước pháp quyền,
pháp luật đóng vai trò tối thượng.
Văn hoá chính trị góp phần hình thành và phát triển xã hội, xã hội công dân.
Theo quan điểm của Mác, xã hội công dân là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của
mọi cuộc cách mạng. Bởi vì xét theo logic phát triển thì loài người đi từ con người công
dân (cá thể) tới con người xã hội và cuối cùng đi tới phương thức xã hội tự quản, là cơ
sở đảm bảo cho sự tiêu vong của nhà nước. Mọi cuộc cách mạng cuối cùng phải đi tới
xã hội công dân.
Xã hội công dân được hiểu là hệ thống các tổ chức, các cộng đồng công dân và
quan hệ giữa chúng nhằm hiện thực hoá các cá nhân và nhân cách, nối các cá nhân với
hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích của cộng đồng. Đồng thời nó phối hợp với
nhà nước trong quá trình tìm kiếm các phương thức tổ chức cho sự phát triển xã hội [48,
tr.32].
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội công dân có vai trò tích cực là nơi lưu giữ các
kỹ năng sản xuất và tổ chức sản xuất, lưu giữ và truyền bá kinh nghiệm sản xuất từ đời
này sang đời khác mà nhà nước không thể làm được. xã hội công dân góp phần định
hướng, kiểm soát quá trình phát triển của thị trường, đảm bảo cho kinh tế thị trường
phát triển bền vững. Xã hội công dân phát huy sự sáng tạo, phát triển và gìn giữ các giá
trị văn hoá truyền thống của cộng đồng dân cư.


×