Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

SO SÁNH các NGUYÊN tắc của LUẬT THI HÀNH án dân sự với các NGUYÊN tắc của LUẬT tố TỤNG dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.93 KB, 35 trang )

ĐỀ TÀI
SO SÁNH CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ VỚI CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Hà Nội, 2016
1


Mục lục
A.

MỞ ĐẦU .............................................................................................................................................. 4
I. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................................. 4
II. Tình hình nghiên cứu: ...................................................................................................................... 5

B.

NỘI DUNG .......................................................................................................................................... 7
Chương I. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự và Luật tố tụng
dân sự ................................................................................................................................................... 7
1.1.Khái niệm nguyên tắc. .................................................................................................................... 7
1.2.Phân loại nguyên tắc. ...................................................................................................................... 7
1.3.So sánh các nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự với các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự
............................................................................................................................................................ 10
1.3.1.Sự giống nhau: ........................................................................................................................... 10
1.3.1.1.Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án quyết định.............................................................. 11
1.3.1.2. Nguyên tắc tiếng nói chữ viết dùng trong tố tụng dân sự, thi hành án dân sự ....................... 12
1.3.1.3. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và trong thi hành án dân
sự......................................................................................................................................................... 12
1.3.2.Sự khác nhau:............................................................................................................................. 13
1.3.2.1.Pháp luật thi hành án dân sự ................................................................................................... 13


1.3.2.2. Pháp luật tố tụng dân sự ......................................................................................................... 19
Chương 2: Thực trạng áp dụng các nguyên tắc thi hành án dân sự ............................................ 23
2.1. Thuận lợi ...................................................................................................................................... 23
2.2 Khó khăn ....................................................................................................................................... 25
Chương 3: Định hướng và kiến nghị ............................................................................................... 30
3.1. Một số mô hình tổ chức thi hành án một số nước trên thế giới ................................................... 30
3.1.1. Tại Cộng hoà Pháp.................................................................................................................... 30
3.1.2. Tại Trung Quốc......................................................................................................................... 30
3.1.3. Tại Indonesia ............................................................................................................................ 30
3.2 Kiến nghị ...................................................................................................................................... 31
2


C.

KẾT LUẬN ........................................................................................................................................ 33

Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................................................................... 35

3


A. MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Linh hồn của hoạt động thi hành án chính là các bản án, quyết định của Tòa án.
Chính các bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì
vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững
kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Tại điều 106, Hiến pháp 2013

đã khẳng định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.”
Quy định này đã trở thành nguyên tắc cơ bản được ghi nhận xuyên suốt trong các
Hiến pháp của Việt Nam (Điều 136 Hiến pháp năm 1992 và Điều 137 Hiến pháp
năm 1980). Đây cũng chính là nguyên tắc cho mọi hoạt động của các cơ quan nhà
nước, bảo đảm tính thượng tôn của pháp luật, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, theo nghị quyết 48- Bộ Chính
trị, Đảng và Nhà nước đã đề ra mục tiêu trong giai đoạn 2010-2020: “Xây dựng Bộ
luật thi hành án điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thi hành án; Xác định Bộ Tư pháp là
cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước thống nhất công tác thi hành án; từng
bước xã hội hóa hoạt động thi hành án”. Bên cạnh đó, nhấn mạnh việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân trong hệ thống pháp luật nói chung và luật thi hành án dân sự nói riêng.
Như vậy, trước định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật và đòi hỏi xây dựng các
quy phạm pháp luật thi hành án dân sự đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai,
minh bạch, cần thiết phải nghiên cứu và làm rõ về các nguyên tắc thi hành án dân
sự.
Thi hành án dân sự là một bước cuối cùng trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, để hiểu
sâu hơn về thi hành án dân sự thì trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã có riêng
hẳn luật thi hành án dân sự. Vậy, giữa thi hành án dân sự và tố tụng dân sự có điểm
gì giống và khác nhau? Đây thực là một vấn đề rất rộng, cần nhiều thời gian nghiên
cứu, tìm hiểu và đặc biệt là cần cả một quá trình lâu dài. Liên quan đến việc so
sánh giữa luật thi hành án dân sự và luật tố tụng dân sự thì bài tiểu luận này, nhóm
chúng em đã cùng nghiên cứu, tìm hiểu chỉ ra những điểm giống nhau và khác
nhau của các nguyên tắc trong luật thi hành án dân sự và luật tố tụng dân sự. Việc
4



tìm hiểu này, giúp chúng ta chỉ ra và phân biệt được các nguyên tắc giữa tố tụng
dân sự và thi hành án dân sự là không hề tương đồng, từ đó giúp chúng ta rút ra
được ý nghĩa lí luận khi quy định các nguyên tắc trong mỗi ngành luật. Hơn nữa,
qua thực tiễn thì nhiều người đã nghĩ một cách đơn giản rằng khó khăn chủ yếu tập
trung ở giai đoạn điều tra, xét xử còn thi hành án thì cứ theo bản án mà làm. Thực
tế có những cách nghĩ này là do chưa hiểu hay chưa phân biệt được các nguyên tắc
trong luật tố tụng dân sự và luật thi hành án dân sự, từ đó dẫn đến việc hoạt động
thi hành án dân sự còn nhiều khó khăn và sai phạm.
Chính vì vậy mà nhóm chúng em chọn đề tài “So sánh các nguyên tắc thi hành án
dân sự với tố tụng dân sự”. Nhằm làm rõ điểm giống và khác nhau về nguyên tắc
giữa luật thi hành án dân sự và tố tụng dân sự, cũng qua bài tiểu luận này nhóm hi
vọng sẽ giúp mọi người hiểu sâu hơn về các nguyên tắc được điều chỉnh trong luật
thi hành án dân sự và luật tố tụng dân sự.
II. Tình hình nghiên cứu:
Trong những năm gần đây, trước đòi hỏi khách quan của thi hành án dân sự, đã có
một số những công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể
là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những cơ sở lí luận và thực tiễn về chế
định thừa phát lại” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp và Sở Tư
pháp TP.HCM chủ trì thực hiện, đề tài nghiên cứu cấp bộ “Mô hình quản lý thống
nhất công tác thi hành án” do cục thi hành án dân sự- Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện.
Ngoài ra, còn một số luận văn và công trình nghiên cứu khác như luận văn thạc sĩ
luật học “hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự” của tác giả Nguyễn Thanh
Thủy, Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về “ Xã hội hóa thi
hành án dân sự ở Việt Nam”, bài viết những nội dung cơ bản của luật thi hành án
dấn sự của Tiến sĩ luật học Nguyễn Thanh Thủy…
Với riêng nhóm, để tìm hiểu, nghiên cứu làm cho bài tiểu luận này có đầy đủ cơ sở
pháp lý thì các thành viên trong nhóm đã dựa trên những tài liệu đó là: Hiến pháp
2013, giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam- ĐHQGHN (Ths. Bùi Thị Thanh
Hằng chủ biên), Luật thi hành án dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành năm

2015, giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam- Trường Đại học luật Hà Nội
(TS. Nguyễn Công Bình chủ biên),…Đây là hệ thống các tài liệu tham khảo mà
nhóm dùng làm cơ sở lí luận vững chắc để nghiên cứu, giúp bài tiểu luận chính
xác, khoa học và đạt độ tin cậy cao hơn.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của bài tiểu luận đó là ngoài chỉ ra điểm giống và
khác nhau về các nguyên tắc trong tố tụng dân sự và thi hành án dân sự; mà còn
giúp chúng ta mở rộng kiến thức và vốn hiểu biết khi so sánh các nguyên tắc này.
5


Để làm được điều này ngoài sự kết hợp tìm hiểu các tài liệu tham khảo có liên
quan, các thành viên trong nhóm đã thống nhất và xây dựng nội dung tìm hiểu qua
5 tiêu chí sau:
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)

Khái niệm về nguyên tắc
Phân loại các nguyên tắc
So sánh các nguyên tắc giữa tố tụng dân sự và thi hành án dân sự
Thực trạng
Đề ra những định hướng, kiến nghị để phát triển, khắc phục khó khăn.

Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài tiểu luận “So sánh các nguyên tắc
thi hành án dân sự với tố tụng dân sự”, bài làm không thể không tránh khỏi những
thiếu sót, khuyết điểm. Vì vậy mà nhóm rất mong thầy giáo bộ môn và các bạn
sinh viên giúp đỡ, đóng góp ý kiến để bài tiểu luận này thành công hơn.
Nhóm xin chân thành cảm ơn!


6


A.

NỘI DUNG

Chương I. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự và
Luật tố tụng dân sự.
1.1.

Khái niệm nguyên tắc.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời
mở ra trang sử mới về sự phát triển của dân tộc. Từ những ngày đầu giành được
chính quyền, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong đó chứa các
quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự như Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về
tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán; Sắc lệnh số 130 ngày 19/7/1946 về thể
thức thi hành án dân sự; Thông tư của Bộ tư pháp số 24/BK ngày 26/4/1949 về
việc thi hành án hình và hộ; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy
tư pháp và luật tố tụng;… Theo quy định tại các văn bản pháp luật này, ban tư
pháp xã có nhiệm vụ, quyền hạn thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc án của các
tòa án; ở những nơi nào đã có thừa phát lại thì đương sự có quyền nhờ thừa phát lại
thi hành; thẩm phán tòa án cấp huyện dưới sự kiểm soát của biện lí có nhiệm vụ
đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn, các án hộ mà chính
các tòa án cấp huyện hay tòa án cấp trên đã tuyên… Đây là những quy định mang
tính nguyên tắc, đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật
về thi hành án dân sự Việt Nam sau này1.
“Nguyên tắc” theo Từ điển tiếng Việt là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải
tuân theo trong một loạt việc làm.”2 Như vậy, nguyên tắc được hiểu là tư tưởng chỉ

đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động nào đó.
Nguyên tắc của một ngành luật hiểu chung nhất là những nguyên lý, tư
tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện các quy
định của ngành luật đó, là sự chuyển hóa các chính sách pháp luật của Đảng và
Nhà nước thành các điều luật cụ thể.

1

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thi hành án dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2010, tr.27-28.
2
Nguyễn Ngọc Chí, Các nguyên tắc cơ bản trong LTTHS - những đề xuất sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24, 2008, tr.242.

7


Luật thi hành án dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, vì vậy việc xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự
phải dựa trên các nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự.
Nguyên tắc của luật thi hành án dân sự là những tư tưởng pháp lý cơ bản,
phản ánh quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về thi hành án dân sự, xuyên suốt
các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự, quyết định toàn bộ kết cấu của quy
trình thi hành án dân sự và thể hiện những đặc trưng của hoạt động thi hành án
dân sự3.
Nguyên tắc là phạm trù vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan.
Nó mang tính khách quan bởi phản ánh các quy luật vận động khách quan của hoạt
động thi hành án dân sự. Qua các nguyên tắc có thể thấy được đặc trưng của hoạt
động THADS. Nguyên tắc của LTHADS cũng mang tính chủ quan vì nó thể hiện
quan điểm, tư tưởng cơ bản của Nhà nước về công tác thi hành án trong khi thực

hiện chức năng quản lý xã hội của mình thông qua việc xây dựng và ban hành các
văn bản pháp luật. Do đó, các nguyên tắc của LTHADS xuyên suốt các quy phạm
pháp luật THADS, quyết định kết cấu của quy trình thi hành án và phản ánh quan
điểm, tư tưởng cơ bản của Nhà nước về công tác thi hành án.
Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của LTHADS hiện tại được quy định trong
Hiến pháp năm 2013, BLTTDS năm 2005 (và BLTTDS năm 2015 sẽ có hiệu lực
vào ngày 01/07/2016), LTCTAND năm 2014, LTCVKSND năm 2014 và
LTHADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014. Việc thực hiện đúng các nguyên
tắc thi hành án dân sự giúp cho công tác thi hành án nhanh chóng và đúng đắn góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trên thực tế. Đồng thời, giúp cơ quan thi
hành án dân sự, chấp hành viên và các chủ thể khác có thể dựa vào để giải quyết
những vấn đề luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ ràng, cụ thể khi cần thiết
mà không sợ vi phạm pháp luật.
Cũng giống như luật thi hành án dân sự, trong xây dựng pháp luật tố tụng
dân sự cũng cần phải dựa vào các nguyên tắc của luật tố tụng dân sự.

3

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thi hành án dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2010, tr.59.

8


Nguyên tắc của luật tố tụng dân sự Việt Nam là những nguyên lý, tư tưởng
pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân
sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự4.
1.2.

Phân loại nguyên tắc.


Khoa học pháp lý có nhiều cách phân loại khác nhau, nhưng cơ bản nhất là
phân chia thành nguyên tắc Hiến định và nguyên tắc đặc thù.
- Nguyên tắc Hiến định là nguyên tắc được Hiến pháp quy định và là nguyên tắc cơ
bản của hệ thống pháp luật như nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng,
nguyên tắc dân chủ,…
- Nguyên tắc đặc thù của LTHADS là những nguyên tắc đặc trưng của LTHADS
chỉ áp dụng trong quá trình thi hành án dân sự.
Cách phân loại trên chú trọng đến tầm quan trọng của nguyên tắc Hiến định
trong LTHADS, dễ dẫn đến xem nhẹ các nguyên tắc khác.
Ngoài cách trên, còn có cách phân chia các nguyên tắc của LTHADS thành
ba loại dựa vào nhiệm vụ của LTHADS và tính chất, mục đích của hoạt động thi
hành án như sau:
- Các nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Các nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan.
- Các nguyên tắc nâng cao hiệu quả, đảm bảo thi hành án dân sự nhanh chóng,
đúng đắn.
Cũng dựa vào tiêu chí trên, các nguyên tắc của luật tố tụng dân sự được
phân chia như sau:
- Các nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Các nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan.
- Các nguyên tắc đảm bảo giải quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ việc dân sự.

4

Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội,
2014, tr.51.


9


- Các nguyên tắc đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, cách phân loại nào cũng có sự hạn chế của nó và chỉ mang tính
chất tương đối vì nội dung một nguyên tắc có thể biểu hiện nhiều tính chất thuộc
nhiều nhóm nguyên tắc khác nhau.
1.3. So sánh các nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự với các nguyên tắc
của Luật tố tụng dân sự
Dựa trên sự phân loại các nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự và sự phân
loại các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự, ta có thể thấy rằng tồn tại một số
nguyên tắc mang tính chất định hướng chung, được quy định chung cho cả hai
ngành luật, nhưng bên cạnh đó, với tính chất là một ngành luật độc lập, Luật thi
hành án dân sự cũng có những nguyên tắc được quy định cho riêng mình, thể hiện
tính đặc thù của giai đoạn thi hành án dân sự với tư cách là giai đoạn độc lập với
giai đoạn xét xử giải quyết vụ án dân sự.
1.3.1. Sự giống nhau:
Qua tìm hiểu, Nhóm nhận thấy cả hai lĩnh vực Luật tố tụng dân sự và Luật
Thi hành án dân sự đều có những nguyên tắc với cùng nội dung định hướng như
nhau mà theo nhóm bao gồm các nguyên tắc sau:

10


1.3.1.1. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án quyết định
Xét xử và thi hành án là hai mặt của quá trình thống nhất trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và qua đó cũng thể hiện quyền lực Nhà
nước. Xét xử là tiền đề của thi hành án dân sự. Ngược lại thi hành án dân sự tiếp
nối với xét xử làm cho bản án, quyết định có hiệu lực trên thực tế, củng cố kết quả
xét xử. Việc xét xử chỉ có ý nghĩa khi bản án, quyết định được thi hành.

Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa là nguyên tắc
cơ bản trong tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước nên đã được quy định tại nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau do Nhà nước ban hành.Như tại điều 106
Hiến pháp 2013,điều 19 bộ luật tố tụng dân sự 2004 và 2015, điều 4 luật thi hành
án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014).
Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong tố tụng dân sự
cũng như trong thi hành án dân sự có ý nghĩa trong việc bảo đảm cho bản án, quyết
định của Tòa án không chỉ có hiệu lực về mặt pháp lý mà còn có hiệu lực trên thực
tế, bảo đảm sự thi hành của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với bản án, quyết
định của Tòa; bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự và thi hành
án dân sự.
Nội dung của nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định:
- Khi giải quyết vụ việc dân sự tòa án phải quyết định áp dụng biện pháp cần thiết
bảo đảm cho việc thi hành án, phải tuyên bản án, quyết định đầy đủ, rõ ràng, chính
xác tạo thuận lợi cho việc thi hành án.
- Bản án, quyết định đã có hiệu lực phải được đưa ra thi hành. Cá nhân, cơ quan, tổ
chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định phải chấp hành đúng và đầy đủ các
phán quyết ghi trong bản án quyết định được đưa ra thi hành. Trong trường hợp
người có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định không tự nguyện thi hành thì phải
áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết buộc họ thực hiện.
- Tòa án, cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định phải
thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.
- Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp trái pháp luật vào
quá trình thi hành án dân sự; không được cản trở, gây khó khăn cho cơ quan thi
hành án dân sự và chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án dân sự.
11



- Đối với những người có hành vi trái pháp luật như cố tình không chấp hành án,
cản trở, can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành án dân sự..thì tùy mức độ vi
phạm mà có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
1.3.1.2. Nguyên tắc tiếng nói chữ viết dùng trong tố tụng dân sự, thi hành án
dân sự
Nguyên tắc tiếng nói, chữ viết được ghi nhận tại điều 15 luật tổ chức tòa án nhân
dân, điều 20 bộ luật tố tụng dân sự 2004 và 2015, điều 8 luật thi hành án dân sự
2008. Việc ghi nhận nguyên tắc này có ý nghĩa cả về mặt pháp lý và chính trị.Về
chính trị nó bảo đảm sự bình đẳng giữa các công dân thuộc các dân tộc.Về pháp lý
nó bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xét xử cũng như thi hành án.Thể hiện
bản chất dân chủ, tôn trong và bảo vệ quyền con người.Sử dụng tiếng Việt thể hiện
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, cũng như đảm bảo được sự thống nhất trong
quy đinh và thực hiện pháp luật. Trong tố tụng dân sự, thi hành án dân sự có nhiều
đương sự là người thuộc các dân tộc khác nhau, thậm chí có đương sự là người
nước ngoài. Để thực hiện xét xử và thi hành án tiếng nói chữ viết phải thống nhất.
Nội dung của nguyên tắc:
- Tiếng nói chữ viết dùng trong tố tụng dân sự và thi hành án dân sự là tiếng Việt.
- Đương sự có quyền dùng tiếng nói chữ viết của dân tộc mình nhưng phải có
người phiên dịch.
- Trường hợp đương sự là người dân tộc thiểu số mà không biết tiếng Việt thì cơ
quan thi hành án phải bố trí phiên dịch.
- Người phiên dịch phải phiên dịch đúng nghĩa, khách quan, trung thực, nếu cố ý
dịch sai thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
1.3.1.3. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và
trong thi hành án dân sự
Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật được quy định tại điều 107
Hiến pháp 2013, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014, điều 21 Bộ luật tố tụng
dân sự và khoản 2 điều 12 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi 2014. Theo các
quy định này Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát các hoạt động tố tụng dân sự
nhằm bảo vệ việc giải quyết vụ án dân sự đúng đắn, khách quan; Kiểm sát hoạt

động tổ chức thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên,
hoạt động thi hành án của các cơ quan,tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi
hành án sẽ nâng cao được trách nhiệm thi hành án của các cơ quan, tổ chức, cá
12


nhân có liên quan đến việc thi hành án dân sự, phát hiện, bảo đảm việc thi hành án
kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật, trách tình trạng xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể trong thi hành án dân sự. Khi tiến hành kiểm sát hoạt động tố
tụng dân sự và thi hành án dân sự, viện kiểm sát thực hiện các nhiệm vụ và quyền
hạn quy định tại điều 27, 28 luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014.
1.3.2. Sự khác nhau:
Như đã trình bày ở trên, tố tụng dân sự và thi hành án dân sự là hai ngành luật độc
lập , do vậy, pháp luật của mỗi lĩnh vực quy định cho chúng những nguyên tắc
mang tư tưởng chủ đạo riêng thể hiện tính đặc thù của riêng mình.
1.3.2.1. Pháp luật thi hành án dân sự
Theo nhóm, bên cạnh những nguyên tắc mang tính định hướng chung, THADS còn
có những nguyên tắc đặc thù, cụ thể bao gồm các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Việc xét xử và thi hành án mang bản chất là quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể liên quan. Việc quy định những quyền tố tụng nhất định như
quyền khởi kiện, quyền bảo vệ quyền khởi kiện bằng cách tự mình hoặc nhờ người
khác bảo vệ quyền lợi, quyền tranh luận trước Tòa án,.. là giúp bảo đảm được
quyền lợi ích hợp pháp của đương sự và các bên có liên quan trong quá trình tố
tụng. Khi Tòa án kết thúc việc xét xử và ra một bản án hay một quyết định giải
quyết vụ án cũng có nghĩa là Tòa án đã xác nhận và ấn định trong bản án, quyết
định đó việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan. Quyền và lợi ích
của các chủ thể chính thức được Nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên, bản án quyết định
của Tòa án nếu không được đem ra thi hành trong thực tiễn thì chỉ coi là sự bảo hộ

“trên giấy”. Mọi quyền lợi chính đáng chỉ thực sự được bảo đảm khi bản án, quyết
định có hiệu lực được đem ra thi hành. Như vậy chuyển sang quá trình thi hành án,
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự lúc này tiếp tục được đảm bảo bởi
pháp luật thi hành án dân sự (chứ không phải pháp luật tố tụng dân sự) để chống lại
các hành vi xâm phạm của các chủ thể thực hiện thi hành án .Và việc thi hành án
dân sự khôngchỉ phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự mà còn
phải bảo đảm cả quyền lợi ích hợp pháp của nhưng người có quyền và nghĩa vụ
liên quan đến việc thi hàng án dân sự, không được xâm phạm, gây thiệt hại đến
quyền lợi ích hợp pháp của họ.

13


Nội dung nguyên tắc:
- Trong thi hành án dân sự phải tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
- Việc tổ chức thi hành án dân sự phải đúng pháp luật và đúng nội dung bản án
quyết định được thi hành để bảo đảm quyền lợi ích của người được thi hành án,
người phải thi hành án và không xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của những
người liên quan đến việc thi hành án dân sự.
- Bảo đảm cho người được thi hành án, người phải thi hành án và những người liên
quan đến việc thi hành án dân sự được tham gia vào quá trình thi hành án để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ và bảo đại đảm quyền khiếu nại của họ đối vớiluật
các hành vi trái pháp luật trong thi hành án.
Ngoài ra, trong những trường hợp bán tài sản kê biên của người phải thi hành án
thuộc sở hữu chung với người thứ 3 thì họ phải được ưu tiên mua trước. Nếu ngươì
sở hữu tài sản chung với người phải thi hành án không mua thì việc bán tài sản đó
cho người khác cũng phải theo quy định của pháp luật thi hangh án để đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Nguyên tắc này được quy định tại điều 7 PLTHADS năm 1989, Điều 9 PLTHADS

1993, điều 9 PLTHADS 2004 và hiện tại được quy định tại điều 5 Luật thi hành án
dân sự 2008 sửa đổi năm 2014.
Thứ hai: Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự
Quyền yêu cầu thi hành án là một trong các quyền thi hành án cơ bản của đương
sự và là sự tái khẳng định lại một trong những nội dung quan trọng của quyền bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Sau khi bản án, quyết định được thi hành
các đương sự chỉ bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình nếu thực hiện
được quyền yêu cầu THA. Nhất là đối với người được thi hành án. Vì vậy, bảo
đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự trong thi hành án dân sự được
quy định là nguyên tắc của luật thi hành án dân sự. Nguyên tắc này ban đầu được
ghi nhận tại điều 7 Luật THADS 2008, sau đó được sửa đổi bộ sung cụ thể tại Điều
7a, 7b trong Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS năm 2014.
Nội dung của nguyên tắc:
- Người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định
dân sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền tổ chức thi hành án.
14


+ Điều 7a quy định cụ thể về quyền yêu cầu thi hành án của người phải thi hành
án như sau:
 Người phải thi hành án có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu
cầu thi hành án theo quy định của LTHADS
 Chuyển giao nghĩa vụ thi hành án cho người khác theo quy định của Luật
THDS
+ Người được thi hành án cần lưu ý rằng có bản án, quyết định mà Tòa án, cơ
quan có thẩm quyền tuyên mình là người được hưởng quyền và lợi ích không đồng
nghĩa với việc cơ quan có thẩm quyền sẽ tự động đưa bản án, quyết định đó ra thi
hành. Trong số những nội dung của bản án, quyết định thuộc diện trên, Luật Thi
hành án dân sự phân biệt những loại việc thuộc trách nhiệm của cơ quan thi hành
án dân sự phải chủ động ra quyết định thi hành án để tổ chức thi hành và những

loại việc cơ quan thi hành án dân sự chỉ được đưa ra thi hành khi có đơn yêu cầu
thi hành án của đương sự.
Bởi bản án, quyết định thuộc diện được đưa ra thi hành có nhiều nội dung khác
nhau về quyền, nghĩa vụ của các bên đương sự (cá nhân, pháp nhân) đối với nhau,
đối với người khác hoặc đối với nhà nước, và khác nhau về cách thức xử lý đối với
các tài sản, vật chứng có liên quan đến từng vụ việc cụ thể như tịch thu, tiêu hủy,
trả lại cho đương sự hoặc chủ sở hữu hợp pháp…
Về nguyên tắc, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chỉ ra quyết định thi hành
án khi có yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp luật quy định,
Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ động ra quyết định THADS. Đó là
các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật THADS 2008 sửa đổi bổ sung
năm 2014. Theo quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự thì những loại việc
do cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án để tổ chức thi
hành là các loại việc sau đây:
a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án;
b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu
khác cho Nhà nước;
d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;
đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.

15


Như vậy, trong một bản án, quyết định, nếu có những nội dung trên thì được cơ
quan thi hành án tự mình đưa ra thi hành, những nội dung còn lại mà liên quan đến
đương sự thì đương sự phải làm đơn mới được đưa ra thi hành. Các nội dung đó rất
đa dạng, từ việc thanh toán tiền, trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại tính mạng, sức
khoẻ, tiền cấp dưỡng, đến buộc người sử dụng lao động nhận người lao động trở

lại làm việc, buộc thực hiện hành vi nhất định…
Điều này xuất phát từ nhận thức rằng, giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án là
hai giai đoạn riêng rẽ, mỗi giai đoạn có những nhiệm vụ riêng. Việc Toà án, cơ
quan có thẩm quyền công nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được
thi hành án được thể hiện bằng phán quyết thông qua hình thức bàn án, quyết định.
Tuy nhiên, có trong tay bản án, quyết định, người thắng kiện hoặc người được
hưởng quyền và lợi ích hợp pháp theo bản án, quyết định hoàn toàn có quyền
quyết định việc có làm đơn yêu cầu thi hành án hay không, yêu cầu thi hành vào
thời điểm nào, yêu cầu thi hành những gì, đã có những thoả thuận gì với bên
phải thi hành án, đã thi hành với nhau được những gì… Do đó, pháp luật dành
quyền quyết định cho người được thi hành án thể hiện ý chí của mình bằng việc
yêu cầu thi hành án.
Thứ ba: Nguyên tắc thỏa thuận khi thi hành án
Trong giao lưu dân sự, các đương sự có quyền tự do cam kết thỏa thuận xác lập các
quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với pháp luật. Vì vây, trong quá trình giải quyết
các tranh chấp dân sự thì đương sự vẫn có quyền tự định đoạt để đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của mình.
Thi hành án dân sự là một giai đoạn của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự nên trong giai đoạn này các đương sự vẫn có quyền tự định đoạt.
Trong đó có quyền thỏa thuận thi hành án. Thỏa thuận thi hành án là nội dung cơ
bản của quyền tự định đọat trong thi hành án của đương sự nên được quy định là
nguyên tắc của luật thi hành án dân sự.
Nội dung của nguyên tắc:
- Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi
phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án
theo thoả thuận được công nhận
Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thoả
thuận về thi hành án. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có
quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi
hành theo nội dung bản án, quyết định.

16


Nguyên tắc thỏa thuận THA được quy định tại điều 6 Luật thi hành án dân sự hiện
này và được hướng dẫn cụ thể tại Điều 5 NĐ số 62/2015 Hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật THADS. Theo đó, việc thỏa thuận có thể được thực hiện trước
hoặc sau khi yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành án, nếu thỏa thuận sau
khi có quyết định hti hành án, đương sự có quyền yêu cầu chấp hành viên chứng
kiến việc thỏa thuận.
Thứ tư: Tự nguyện và cưỡng chế thi hành án
Trong thi hành án, việc đương sự tự nguyện thi hàn án là tốt nhất, vừa thuận lợi
cho việc tổ chức thi hành án vừa giảm được các chi phí cho việc thi hành án. Hơn
nữa nguyên tắc này ra đời cũng xuất phát từ nguyên tắc thỏa thuận và tự định đoạt
trong quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, Nhà nước khuyến khích các đương sự tự
nguyện thi hành án. Tuy vậy, thực tế thi hànha sn dân sự cho thấy không ít trường
hợ sau khi được giáo dục, thuyết phục đương sự vẫn không tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ. Trong trường hợp này, để đảm bảo hiệu lực
của bản án, quyết định phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết
để kết thúc việc thi hành án. Như vậy để thi hành án về dân sự về nguyên tắc phải
kết hợp chặt chẽ giữa hai biện pháp tự nguyện và cưỡng chế thi hành án.
Nội dung nguyên tắc:
- Phải đảm bảo quyền tự nguyện thi hành án dân sự của các đương sự, Theo đó,
chấp hành viên cần phải định cho các đương sự một thời hạn theo quy định của
pháp luật để họ tự nguyện thi hành, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra, chấp hành viên cũng phải tích cực giáo dục, thuyết phục các đương sự tự
nguyện thi hành án thì chấp hành viên hướng dẫn để cho các đương sự tự thi hành
các quyền , nghĩa vụ của họ theo bản án quyết định của tòa án.
- Trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án sau khi đã được giáo
dục, thuyết phục mà không tự nguyện thi hành các nghĩa vụ thi hành án dân sự của
họ thì chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết được

quy định trong LTHADS để đảm bảo việc thi hành án
Nguyên tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cưỡng chế thi hành án trước đây được
quy định tài điều 5 PLTHADS 1989, Điều 6 PLTHADS 1993. Hiện tại, nguyên tắc
này được quy định tại điều 6 Luật THADS 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014.
Thứ năm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Kết quả thi hành án dân sự phụ thuộc rất lớn vào việc cơ quan thi hành án dân sự,
các cá nhân, cơ quan và tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự có thực hiện
đúng, đầy đủ các quyền hạn và nhiệm vụ của họ hay không. Vì vậy việ đề cao
trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, các cá nhân cơ quan và tổ chức có liên
17


quan đến việc thi hành án dân sự là cần thiết. Từ đó, vấm đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong thi hành án dân sư được quy định là nguyên tắc cơ bản của
luật thi hành án dân sự.
Nội dung nguyên tắc:
- Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, các đương sự và các cá nhân, cơ
quan, tổ quan chức khác có liên quan trong thi hành án dân sự phải đề cao trách
nhiệm trong việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật
về thi hành án dân sự, không được thực hiện hành vi trái với quy định của pháp
luật về THADS
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của LTHADS thì phải chịu trách
nhiệm về vi phạm đó. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức cá nhân vi phạm quy
định của LTHADS gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị hại theo quy định
của pháp luật.
Nguyên tắc trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong thi hành án dân sự lần đầu tiên
được quy định tại Điều 10 LTHADS 2008. Việc xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong thi hành án dân sự trong trường hợp cụ thể được thực hiện theo quy
định của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật này.

Thứ sáu: Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan thi
hành án dân sự, chấp hành viên
Thi hành án dân sự là hoạt động phức tạp, hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều yếu
tố. Tuy cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên được thực hiện quyền lực của
Nhà nước để tổ chức thi hành án, giữ vai trò chủ đạo tổ chức thi hành án nhưng
trong những trường hợp như đương sự chây ỳ, chống đối nếu không có sự phối
hợp, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác thì việc thi hành án vẫn
khó có thể thực hiện có hiệu quả. Trong các mối quan hệ phối hợp thi hành án thì
mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với tòa án đã ra bản án, quyết định;
với lực lượng cảnh sát nhân dân; với chính quyền địa phương nơi người phải thi
hành án cư trú hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án; với cơ quan, tổ chức
nơi người phải thi hành án làm việc, nhận thu nhập là quan trọng nhất Nếu các
mối quan hệ phối hợp này tiến hành tốt sẽ có tác dụng rất lớnn đối với hoạt động
thi hành án dân sự và nếu không thì kết quả sẽ ngược lại. Việc bảo đảm được sự
phối hơp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thi hành án dân sự sẽ tạo được
sức mạnh tổng hợp trong việc giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành án và tổ
chức cưỡng chế thi hành án dân sự nên có tác dụng nâng cao hiệu quả thi hành án
dân sự. Do vậy, trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan
18


thi hành án dân sự và chấp hành viên được quy định là nguyên tắc cơ bản của
LTHADS.
Nội dung nguyên tắc:
- Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá
nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành
án.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của
cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên theo quy địnhc ủa LTHADS
- Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi

hành án dân sự, chấp hành viên đều bị xử lí theo quy định pháp luật
Thứ bảy: Nguyên tắc giám sát việc thi hành án (Điều12)
Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan nhà nước khác trong tổ
chức thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực của Nhà nước trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Hoạt động này chỉ phát huy được
tác dụng của nó khi được tiến hành đúng theo quy định pháp luật. Vì vậy để bảo
đảm cho hoạt động của các cơ quan này trong THADS tiến hành đúng pháp luật thì
phải kiểm tra, giám sát, kiểm sát chúng.
Theo Hiến pháp 2013 điều 8 thì các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước
phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
Theo đó,việc bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với các hoạt động thi hành
án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan nhà nước khác là vấn đề
tất yếu và mang tính nguyên tắc.
Nguyên tắc giám sát hoạt động thi hành án dân sự yêu cầu mọi hoạt động thi hành
án dân sự phải được đặt dưới sự giám dát của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền
giám sát đối với các hoạt động thi hành án dân sự thông qua các cơ quan, tổ chức
đại diện cho mình như Quốc hội, HĐND, Măt trận TQVN. Do đó, để bảo đảm
quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động thi hành án phải bảo đảm cho các
cơ quan, tổ chức này thực hiện được quyền theo dõi, kiểm tra các hoạt động
THADS và các cơ quan nhà nước khác. Ngoài ra cũng phải bảo đảm quyền của họ
trong việc kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí các hành vi,
quyết định trái pháp luật trong THADS.
1.3.2.2. Pháp luật tố tụng dân sự
Thứ nhất là nhóm nguyên tắc bảo đảm pháp chế:
19


Nhóm này bao gồm các nguyên tắc được quy định trong bộ luật tố tụng dân sự
2015 như:Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự (điều 3), Bình đẳng

về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (điều 8),Thẩm phán, hội thẩm nhân dân
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật(điều 12),Bảo đảm hiệu lực của bản án,
quyết định của Tòa án (điều 19),Tiếng nói chữ viết trong tố tụng dân sự(điều 20).
Đây là nhóm các nguyên tắc nhằm ngăn chặn tình trạng áp dụng luật tùy tiện, thiếu
căn cứ pháp lý trong tố tụng dân sự. Việc tiến hành hoạt động tố tụng ngoài những
căn cứ và trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định sẽ dề dàng dẫn đến lạm quyền,
xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích chính đáng của con người.
Nội dung chính của nhóm nguyên tắc này là các hoạt động tố tụng của
những người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ một cách tự
giác và triệt để các trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự
trong tất cả các giai đoạn, từ khi tiếp nhận đơn khởi kiện đến khi thi hành bản án,
quyết định của Tòa án. Ngoài ra, nhóm nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự cân bằng
giữa quyền và nghĩa vụ của các bên trong tố tụng dân sự. Chung quy lại, nhóm
nguyên tắc đảm bảo pháp chế đòi hỏi phải đảm bảo được tính hợp pháp của các
hoạt động tố tụng dân sự.
Thứ hai là nhóm nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Bao gồm các nguyên tắc quy định trong bộ luật tố tụng dân sự 2015 như:nguyên
tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp(điều 4), Quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự(điều 5), Cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự(điều 6), Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự(điều 9), Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự(điều 25).
Nhóm nguyên tắc này có ý nghĩa trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của người tham gia tố tụng và được thể hiện qua các nội dung như cá nhân, cơ
quan, tổ chức nếu có quyền và lợi ích bị xâm hại thì có quyền yêu cầu Tòa án bảo
vệ theo trình tự, thủ tục luật định; Tòa có nghĩa vụ xem xét giải quyết các yêu cầu
của đương; Đương sự có quyền quyết định xem có khởi kiện hay không, đã khởi
kiện cũng có quyền quyết định rút đơn khởi kiện, đương sự có quyền tự mình đưa
ra các yêu cầu hay thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu đó, quyết định việc kháng cáo
hoặc không kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực..; Việc giải

quyết vụ việc dân sự liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các đương sự nên
nghĩa vụ chứng minh thuộc về các bên đương sự, chính các bên đương sự là người
đưa ra những chứng cứ chứng minh để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình; Tòa có
trách nhiệm tạo điều kiện cho đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của
mình, ngăn chặn và xử lí kịp thời những hành vi xâm phạm…Phương pháp, cách
20


thức, hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được ghi nhận
trong luật tố tụng dân khác biệt với cách thức bảo vệ quyền của đương sự trong thi
hành án dân sự mà chúng gắn liền với quá trình xét xử vụ án dân sự từ việc khởi
kiện đến bản án có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba là nhóm nguyên tắc bảo đảm giải quyết đúng đắn, nhanh chóng vụ việc
dân sự.
Bao gồm các nguyên tắc quy định trong bộ luật tố tụng dân sự 2015 như: nguyên
tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền(điều 7), Hòa giải trong tố tụng dân sự(điều 10), Trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sự(điều 13), Tòa án xét xử tậpthể(điều
14),Bảo đảm sự vô tư của người tiến hành, người tham gia tố tụng(điều 16),Bảo
đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm(điều 17), Giám đốc việc xét xử(điều 18),
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân(điều 21),Trách nhiệm chuyển
giao tài liệu giấy tờ của tòa án(điều 22), Việc tham gia tố tụng dân sự của cơ quan,
tổ chức, cá nhân(điều 23).Những nguyên tắc này mang tính đặc thù của hoạt động
giải quyết vụ việc dân sự với việc thi hành án dân sự. Các nguyên tắc này quy định
rõ ràng, cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm, các hoạt động của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng như trách nhiệm của Tòa trong việc tiến hành hòa
giải trong vụ án dân sự, đảm bảo,tạo điều kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên qua tham gia phiên tòa, khách quan vô tư trong việc thực hiện các hoạt động tố
tụng, việc xét xử vụ án phải đúng đắn, tăng cường sự quản lý, kiểm tra, giám
sát,đôn đốc của tòa cấp trên với tòa cấp dưới để có những biện pháp sửa chữa khắc

phục kịp thời sai lầm nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự.
Thứ tư là nhóm nguyên tắc bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động tố tụng dân sự.
Bao gồm các nguyên tắc quy địnhtrong bộ luật tố tụng dân sự 2015 như:Hội thẩm
nhân dân tham gia xét xử vụ án dân(điều 11),Tòa án xét xử kịp thời,công bằng,
công khai(điều 15),Bảo đảm tranh tụng trong xét xử(điều 24).
Nhóm nguyên tắc này đảm bảo cho việc thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự
thông qua các hoạt động như: người dân có quyền gián tiếp tham gia và giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án bằng người đại diện của họ thông qua chế định xét xử
có hội thẩm, hoặc trực tiếp tham dự phiên tòa để giám sát các hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Các bên đương sự có quyền tranh
luận trực tiếp, công khai trước tòa, việc ra bản án phải dựa trên kết quả tranh luận.
Trong tố tụng dân sự các hoạt động thể hiện tính dân chủ khác với trong thi hành
án dân sự. Trong hoạt động thi hành án dân sự, người dân thực hiện việc giám sát
21


thông qua các cơ quan tổ chức đại diện của mình như Quốc hội, hội đồng nhân
dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

22


Chương 2: Thực trạng áp dụng các nguyên tắc thi hành án dân sự
2.1. Thuận lợi
Nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự qua một quá trình phát triển từ Pháp lệnh
Thi hành án dân sự ngày 1989, 1993, 2004 cho đến Luật thi hành án dân sự 2008,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật thi hành án dân sự 2014 đã dần được hoàn
thiện và đã cơ bản thể hiện, truyền tải được Chính sách pháp luật thi hành án dân
sự của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Các nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự 2014 đã tiếp tục thể chế hoá chủ

trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Kết luận số 92-KL/TW
ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, trong đó có nội dung liên quan đến quản lý công tác thi hành án dân
sự theo hướng tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án nhân dân và Ủy ban
nhân dân địa phương trong công tác thi hành án dân sự. 5
Cụ thể, các nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự đã cơ bản thể chế hoá các nghị
quyết của Đảng, như Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020: "xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng chiến lược cải
cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ
quan, chức danh tư pháp" "Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo
hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo
đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp"; Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp
lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc;
trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm;
“từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy định những hình thức, thủ tục để giao
cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành
/>ail.aspx?ItemID=567
5

23


án”; "nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức
thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn

sẽ có bước đi tiếp theo”.
Đồng thời, các nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự đã thể chế hóa đầy đủ các
quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Hiến
pháp về việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp, Thi hành án dân sự là cơ quan thuộc hệ thống hành pháp tham gia
thực hiện kết quả hoạt động của quyền tư pháp; có tính đến những nội dung sửa
đổi, bổ sung lớn trong các luật, bộ luật khác đang được sửa đổi, bổ sung như Luật
tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật tố tụng dân
sự, Bộ luật tố tụng hình sự. Tại Khoản 5, Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định như
sau:
“5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.”
Thêm vào đó, Điều 106 Hiến pháp 2013 cũng quy định rõ: “Bản án, quyết định của
Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.” Thể chế
các quy định này, Luật thi hành án dân sự đã quy định các nguyên tắc: “bảo đảm
hiệu lực của bản án, quyết định của tòa án.” và nguyên tắc “trách nhiệm bồi thương
thiệt hại”.
Qua thực tế xây dựng và áp dụng luật, các nguyên tắc của luật thi hành án dân sự
đã thể hiện nhiều tiến bộ. Ví như nguyên tắc thỏa thuận thi hành án dân sự đã thể
hiện được xu hướng xã hội hóa trong lĩnh vực THADS. Theo đó, Các việc do Nhà
nước chủ động thi hành ngày càng bị thu hẹp lại, đồng thời việc THA do đương sự
yêu cầu ngày càng chiếm vị trí chủ yếu trong THADS; Bên cạnh đơn yêu cầu,
người được THA còn có nghĩa vụ cung cấp địa chỉ, tình hình tài sản, thu nhập của
người phải THA; khi trả đơn yêu cầu thì phải theo dõi, phát hiện tài sản của người
phải THA để yêu cầu trở lại; người phải THA phải chịu mọi chi phí cưỡng chế
THA; người được THA phải chịu phí THA.

Với định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân đồng thời xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người,
24


quyền tự do, dân chủ của công dân. Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung
2014) đã quy định cụ thể các nguyên tắc: “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”, nguyên tắc “trách nhiệm bồi
thường thiệt hại”… đều thể hiện rõ định hướng của nghị quyết.6
2.2 Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi đề cập trên, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, và yêu cầu cải cách tư pháp cũng như những khó khăn thực tế trong quá
trình áp dụng, thi hành luật thi hành án dân sự, các nguyên tắc của luật thi hành án
dân sự chưa thực sự thể hiện chức năng là định hướng chủ đạo cho quá trình xây
dựng và áp dụng luật thi hành án dân sự.
Thi hành án dân sự là một giai đoạn quan trọng của quá trình tố tụng. Quyền lợi
của các bên liên quan trong một vụ tranh chấp có được bảo đảm hay không không
chỉ phụ thuộc vào tính đúng, sai của bản án, quyết định của toà án đã tuyên, mà
còn phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả thi hành các bản án, quyết định của các cơ
quan thi hành án. Bởi vậy, mặc dù THADS đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi
nhận, tuy nhiên, hiệu quả công tác THADS vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội,
những vụ việc kéo dài nhiều năm chưa thi hành, hoặc chậm tổ chức thi hành án ảnh
hưởng đến quyền lợi của người dân. Số lượng án tồn đọng còn nhiều, đội ngũ cán
bộ công chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vẫn còn chưa cương quyết;
chuyên môn, nghiệp vụ của một số chấp hành viên còn chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ được giao; việc phân loại án có điều kiện còn chưa chính xác, còn
để chậm ra quyết định thi hành án, chậm về xử lý tang vật; việc tuyên truyền pháp
luật về thi hành án dân sự còn hạn chế; hoạt động của một số Ban Chỉ đạo thi hành

án dân sự chưa thực sự đóng vai trò giúp cấp ủy, chính quyền trong việc chỉ đạo thi
hành án. Thực trạng đó đòi hỏi chúng ta cần nhìn lại một cách nghiêm túc để tìm ra
đâu là nguyên nhân, đâu là điểm cần khắc phục. Đối tượng cần nhìn nhận trước hết
là các nguyên tắc của Luật thi hành án dân sự.
Về nguyên tắc thỏa thuận thi hành án:
Nguyên tắc tự do tự nguyện, cam kết, thoả thuận là nguyên tắc đặc trưng của pháp
luật dân sự, xuất phát từ tính độc lập về sở hữu, tính tự chủ, tự định đoạt, tự chịu
trách nhiệm về tài sản của các chủ thể. Đây là nguyên tắc bao trùm toàn bộ các
quan hệ dân sự đã được Bộ Luật dân sự 2005 khẳng định.

/>6

25


×