Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóathực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần đầu tư và kỹ thuật Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.8 KB, 47 trang )

TÓM LƯỢC
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hình hợp đồng chính được sử dụng
trong hoạt động của công ty. Mặc dù đã phát triển từ rất lâu, là hợp đồng phổ biến
nhưng đôi khi các công ty thường coi nhẹ việc giao kết và thực hiện hợp đồng này.
Việc nghiên cứu về hoạt động giao kết hợp đồng và mua bán hàng hóa là thật
sự cần thiết bởi đây là một vấn đề quan trọng không chỉ đối với bản thân công ty, mà
còn đối với sự phát triển của luật quốc gia bởi hiện nay việc thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa không còn giới hạn ở trong nội địa của một quốc gia nữa mà nó đã vươn
ra tầm quốc tế.Trong bài khóa luận này, phạm vi đề tài em chọn Công ty cổ phần đầu
tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình làm địa điểm thực tế.
Bằng những kiến thức đã học tại trường Đại họcThương mại và những gì thu
nhặt được em hy vọng sẽ đóng góp một số giải pháp nhằmhoàn thiện pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa, đặc biệt đẩy mạnh tính hiệu quả của vấn đề này tại Công ty
cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.Qua quá trình nghiên cứu, đề tài đã
đạt được một số kết quả sau:
1. Xác định rõ những vấn đề cần nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa, cũng như những vấn đề liên quan đến giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa.
2. Làm rõ những lý luận cơ bản liên quan đến pháp luật điều chỉnh hoạt động giaokết, thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, cơ sở ban hành pháp luật, những nguyên tắc,nội dung pháp
luật điều chỉnh đến hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung.
3. Tìm hiểu nhân tố ảnh hưởng, phân tích thực trạng thực hiện vấn đề này tại công ty
cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
4. Đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, đồng
thời đề xuất những kiến nghị để góp phần hoàn thiện vấn đề này.Kết quả nghiên cứu
mang yếu tố thực tiễn, có thể áp dụng tham khảo cho vấn đề xây dựng pháp luật liên
quan đến giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa của Nhà nước và hoàn thiện
pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ ở công ty cổ phần đầu tư thương
mại và kỹ thuật Hòa Bình mà còn ở các công ty cổ phần tương tự.

1



1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Thương mại, được sự chỉ bảo tận
tình của các Thầy Cô, em đã có được những kiến thức, bài học quý báu. Đó thật sự là
một món quà vô giá. Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô, đặc biệt là các Thầy
giáo, Cô giáo trong khoa Kinh tế-Luật trường Đại học Thương mại đã dạy dỗ, tạo điều
kiện thuận lợicho em thực hiện Khóa luận trong suốt thời gian qua.Em xin cảm ơn
TS.Trần Thành Thọ đã tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình thựchiện và hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này. Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các anh,
các chị cán bộ công nhân viên công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa
Bình đã tạo điều kiện cho em có khoảng thời gian quý báu học tập và nghiên cứu tại
quý công ty. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề pháp lý liên quan,
nhưng do trình độ lý luận, kiến thức bản thân còn có phần hạn chế nên bài khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự phản hồi, góp ý của
Thầy, Cô giáo để khóa luận được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm
ơn!
Sinh viên thực hiện
Lê Mỹ Hạnh.

2

2


MỤC LỤC

3


3


DANH MỤC VIẾT TẮT

4

Bộ luật Dân sự

BLDS

Luật Thương mại

LTM

Hợp đồng mua bán hàng hóa

HĐMBBHH

Nghị định Chính phủ

NĐ-CP

4


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi tham gia vào WTO,tiêu thụ

sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chính, là vấn đề tất yếu của hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ được coi là mạch máu của hoạt động lưu thông hàng
hóa, là khâu không thể thiếu được của quá trình sản xuất hàng hóa. Tiêu thụ hàng hóa (
bán hàng hóa ) gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, quyết định sống
còn đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào theo đuổi mục tiêu lợi nhuận.
Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra và chiếm một số lượng chủ
yếu trong các giao dich dân sự. Pháp luật là công cụ thực hiện các giao dịch dân sự, và
gắn liền với các hoạt động mua bán hàng hóa là hợp đồng mua bán hàng hóa. Các hoạt
động trao đổi, mua bán của các doanh nghiệp hiện nay đều đã sử dụng hợp đồng mua
bán như một công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản giữa các bên. Việc các
bên thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ngoài những thỏa thuận
chung có quy định trong luật định thì còn bao gồm những thỏa thuận theo điều kiện
thực tế của từng doanh nghiệp. Bởi vậy việc tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi
cho các doanh nghiệp đẩy mạnh việc cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp,
đồng thời bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong thời đại mở cửa giao lưu buôn
bán với thế giới.
Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần đầu tư và kỹ thuật Hòa Bình do
nhận thức được vai trò to lớn của hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra quá trình giao
kết và thực hiện hợp đồng trong mua bán hàng hóa mà em đã quyết định chọn để tài:
“Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa-thực tiễn áp dụng tại
Công ty cổ phần đầu tư và kỹ thuật Hòa Bình” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vai trò quan
trọng trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Chế định về hợp đồng đã được đề cập
trong pháp luật Việt Nam ngay từ sự ra đời của Bộ Quốc triều hình luật năm1483 và
Bộ luật Gia Long năm 1815. Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa thực
sự được định hình với các quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và đặc
biệt sau đó là Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại năm2005 và Bộ luật Dân sự
năm 2005.Vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa đã được
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu nhằm phân tích, luận

giải và đưa ra kiến nghị.
Có khá nhiều các công trình nghiên cứu cũng như bài viết liên quan đến vấn đề
này như luận văn của Phạm Thị Hải Ninh về “Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán
5


hàng hóa quốc tế tại Công ty TNHH Vật tư khoa học kỹ thuật Đông DươngIndochina”, luận văn của Phạm Thị Lan Phương về “ Hợp đồng mua bán hàng hóa từ
lý thuyết đến thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH IPC”, luận văn của Thái Tăng Bang
về “Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế“, …
Những công trình này đã tiếp cận ở những góc độ khác nhau của vấn đề mua bán hàng
hóa như vấn đề giao kết hợp động, thực hiện hợp đồng, xử lý vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hóa… Tuy nhiên nhiều nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa chưa được
các công trình nêu trên khai thác hoặc khai thác chưa đẩy đủ như quan hệ hợp đồng,
vấn đề lựa chọn luật áp dụng và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng…
Như vậy có thể nói, liên quan đến vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa , hiện
nay có khá nhiều các công trình nghiên cứu có giá trị được tiến hành. Tuy nhiên,các
lĩnh vực nghiên cứu của các công trình hầu như chỉ là một mặt của hợp đồng mua bán
hàng hóa, chứ chưa có cái nhìn tổng quát về hợp đồng mua bán hàng hóa.Hay nói một
cách khác, lĩnh vực nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số vấn đềđang còn tranh luận
cần tiếp tục làm rõ trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu của đề tài
Từ những phân tích ở trên, em đã chọn đề tài “ Pháp luật về giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa áp dụng thực tiễn tại công ty cổ phần đầu tư thương
mại và kỹ thuật Hòa Bình” để làm khóa luận tốt nghiệp. Quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hóa không chỉ là quan hệ giữa các thương nhân trong nước với nhau mà còn là
quan hệ giữa các thươngnhân trong nước với các thương nhân nước ngoài. Song để tập
trung vào nội dung cần bàn bạc, bài luận văn sẽ chỉ đề cập đến những vấn đề pháp lý
và thực tiễn liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong
nước.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

Với đề tài trên, thì đối tượng của đề tài chính là pháp luật về giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa và thực trạng áp dụng vấn đề đó.
Mục đích của đề tài là luận giải những vấn để lý luận của pháp luật Việt Nam về việc
giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa; tiến hành phân tích, đánh giá việc
thực hiện những quy định đó tại công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa
Bình ; qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về việc giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách
quan trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
hiện nay.Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác
địnhcụ thể gồm:
6


Luận giải những vấn đề lý luận của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán
hàng hóa.
• Phân tích một cách có hệ thống về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật
ViệtNam điều chính vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần
đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
• Đề xuất các giải pháp cũng như kiến nghị hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam về
việc giao kết và tực hhiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Từ những điều nói trên, ta có thể thấy một điều rõ ràng rằng phạm vi nghiên
cứu của đề tài là “ Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình”
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ ChíMinh,
quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, đề tài tập
trung sử dụng một số phương pháp chủ yếu: phương pháp phân tích,tổng hợp.
Ngoài ra, để có thể đánh giá một cách chính xác xem công ty có thực hiện dùng các
quy định của pháp luật hay không thì trước tiên chúng ta phải xem xét tìnhhình hoạt
động của công ty đó hiện tại như thế nào đã. Để làm được điều đó trướctiên chúng ta
cần phải biết thu thập và xử lý những số liệu của công ty.Qua đóchúng ta có thể thấy

được những phương pháp được sử dụng đến là phương pháp định tính và phương pháp
định lượng nhằm giúp cho chúng ta thu thập đượcnhững số liệu cần thiết.
Đề tài cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu và
giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Kết cấu của khóa luận bao gồm các phần phụ thêm như: Tóm lược, danh mục
bảng biểu, danh mục tóm tắt, lời cảm ơn, lời mở đầu… thì phần nội dung chính của
khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về phá luật điều chỉnh việc giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa tại công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
Chương 3: Một số đề xuất cho việc hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa và áp dụng quy định của luật thương mại 2005 tại công ty cổ
phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
Do kiến thức cũng như kinh nghiệm còn hạn chế với thời gian khảo sát thực tế
chưa nhiều nên những thiếu sót trong khóa luận này là không thể tránh khỏi. Em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn có quan tâm đến vấn đề
này để đề tài được hoàn thiện hơn.Em xin chân thành cảm ơn!


7


CHƯƠNG 1. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Một số khái niệm và đặc điểm cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa (HĐMBHH) có bản chất chung của hợp đồng và
mang đầy đủ các đặc điểm mà hợp đồng có, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập,thay đổi

hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong quanhệ mua bán
hàng hóa. LTM không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH trong thươngmại nhưng chúng
ta có thể dựa vào khái niệm của hợp đồng mua bán tài sản trong Bộ luật Dân Sự
(BLDS) để xác định bản chất của HĐMBHH.
Theo Điều 428, BLDS có quy định “hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏathuận
giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua vànhận tiền, còn
bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Hàng hóa thuộc tài sản và
có phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, HĐMBHH trong kinh doanh – thương mại
là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.2.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa có đầy đủ những đặc điểm chung của hợp
đồng mua bán tài sản trong dân sự.
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp
lí là hợp đồng mua bán hàng hoá (HĐMBHH). HĐMBHH có bản chất chung của hợp
đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền vànghĩa vụ
trong quan hệ mua bán. Dù LTM 2005 không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH song có
thể các định bản chất pháp lí của HĐMBHH trong thương mạitrên cơ sở Điều 428,
BLDS về hợp đồng mua bán tài sản (HĐMBTS). Do đó, HĐMBHH trong thương mại
là một dạng cụ thể của HĐMBTS, dù vẫn mang những nét đặc thù riêng về chủ thể,
đối tượng, hình thức…, thoả thuận về việc MBHH ở hiện tại hoặc MBHH sẽ có ở một
thời điểm nào đó trong tương lai đềucó thể là một HĐMB. Quan hệ HĐMBHH sẽ hình
thành bất cứ khi nào nếu mộtchủ thể mua hàng hoá bằng tiền hoặc phương thức thanh
toán khác và nhận quyền sở hữu hàng hoá.
- Đặc điểm về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
HĐMBHH được thiết lập giữa các chủ thể trong đó ít nhất một trong các bênchủ thể
của HĐMBHH là thương nhân. Theo LTM 2005 quy định thương nhânbao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mạimột cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.Thương nhân có thểmang quốc tích của Việt
Nam hoặc mang quốc tịch nước ngoài. Ngoài ra, các tổchức, cá nhân không phải là
thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể củaHĐMBHH. Theo khoản 3 Điều 1 LTM

8


2005 quy định hoạt động của bên chủ thểkhông phải là thương nhân và không nhằm
mục đích lợi nhuận trong quan hệ muabán hàng hóa phải tuân theo LTM khi chủ thể
này lựa chọn áp dụng LTM.
- Đặc điểm về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Về hình thức của HĐMBHH có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằngvăn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong một số trường hợp nhất định,
pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản, ví dụ như
HĐMBHH quốc tế-phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc bằng hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương như điện báo, TELEX,FAX hay thông điệp dữ
liệu.
- Đặc điểm về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Về đối tượng của HĐMBHH có đối tượng là hàng hóa. Theo nghĩa thông thường có
thể hiểu hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo ranhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu của con người. Càng ngày cùng với sự phát triểncủa xã hội, hàng
hóa càng trở nên phong phú. Khái niệm hàng hóa được quy định trong luật pháp các
nước hiện nay dù có những khác biệt nhất định song đều có xu hướng mở rộng các đối
tượng là hàng hóa được phép lưu thông. Theo LTM 2005,hàng hóa là đối tượng của
quan hệ mua bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tạihoặc hàng hóa sẽ có trong tương
lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất độngsản được phép lưu thông thương mại.
1.1.3. Một số nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa
Luật Thương mại 2005 không quy định về nội dung của HĐMBHH tuy
nhiên,chúng ta có thể dựa vào các quy định của BLDS 2005 để có thể xem xét vấn đề
nội dung của HĐMBHH. Theo đó, trong HĐMBHH các bên có thể thỏa thuận về các
nội dung sau :
- Đối tượng của hợp đồng
- Số lượng, chất lượng, giá cả, phươngthức thanh toán
- Địa điểm và thời hạn giao hang

- Quyền, nghĩa vụ của các bên
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
- Phạm vi phạm hợp đồng
- Các nội dung khác
Nội dung chủ yếu của hợp đồng là những nội dung mà khi các bên giao kết với
nhau đều phải thỏa thuận, nếu chưa thỏa thuận thì có thể coi như chưa giao kết hợp
đồng. Khi đã thỏa thuận được nội dung chủ yếu thì HĐMBHH coi như đã có hiệu lực
pháp lý.

9


1.2. Pháp luật điều chỉnh về vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa.
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Pháp luật hợp đồng của Việt hiện nay, tuy có một số hạn chế nhất định nhưng
nhìn chung được coi là khá tiến bộ và phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội
trong thời kỳ đổi mới. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung các chế định về hợp đồng đã
phần nào quán triệt, thể chế hoá các chủ trương, chính sách về phát triểnkinh tế - xã
hội của nhà nước, cụ thể hoá các quyền về kinh tế, dân sự của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp 1992 và đáp ứng được các yêu cầu trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng đã thể hiện quan điểm tăng
cường quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được toàn quyền quyết định về
đối tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức hợp đồng,nội dung của hợp đồng và trách
nhiệm của các bên khi có vi phạm.Bộ luật Dân sự quy định những vấn đề chung về
hợp đồng như khái niệm hợp đồng, giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, chấm dứt
hợp đồng… còn các luậtchuyên ngành thì chỉ quy định các vấn đề mang tính đặc thù
của hợp đồng trong các lĩnh vực khác nhau. Do đó, phần này chủ yếu đề cập đến một
số quy định chung về hợp đồng trong BLDS.

1.2.2. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa.
Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hóa HĐMBHH là một loại hợp đồng trong thương mại nên trước hết HĐMBHH chịu
sự điều chỉnh của LTM. Nhưng để xác định bản chất pháp lý về HĐMBHH trong
thương mại cần dựa trên cơ sở quy định của BLDS về hợp đồng mua bán tài sản nên
HĐMBHH còn chịu sự điều chỉnh của BLDS. Như vậy, với HĐMBHH,LTM đóng vai
trò là luật riêng áp dụng, BLDS là luật chung áp dụng. Trình tự áp dụng luật được tuân
theo quy định chung, áp dụng luật riêng trước, nếu không cónhững quy định có liên
quan thì sẽ áp dụng đến Luật chung tức là áp dụng LTM trước BLDS.
LTM không coi đất đai – quyền sử dụng đất là hàng hóa trong thương mại
nhưng nhà và các công trình xây dựng luôn gắn liền với đất đai – quyền sử dụng đất
nên quyền sử dụng đất cũng được chuyển nhượng mua bán. Giao dịch này do Luật đất
đai điều chỉnh. Do đó, HĐMBHH là nhà, công trình gắn liền với đất đai không những
chịu sự điều chỉnh của BLDS, LTM mà còn chịu sự điều chỉnh củaLuật Kinh Doanh
Bất Động Sản 2006 và Luật Đất Đai 2003.Bên cạnh các luật kể trên thì HĐMBHH còn
chịu sự điều chỉnh của nhiều Nghị định, Thông tư như là:

10


- Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung danh
mục hànghoá, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP Nghị định số
54/2009/NĐ-CP ngày 05/06/2009 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
- Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại mua bán
hàng hóa quốctế và các hoạt động đại lý mua, bán gia công và quá cảnh hàng hóa với
nước ngoài.
- Bên cạnh luật quốc gia, HĐMBHH quốc tế còn phải chịu sự điều chỉnh của các điều
ước quốc tế mà điển hình là Công ước Viên 1980 về HĐMBHH quốc tế, các tập quán

quốc tế khác về thương mại và hàng hải.
1.3. Một số nội dung cơ bản về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.3.1. Giao kết hợp đồng.
Giao kết hợp đồng dân sự nói chung và giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
nói riêng là việc các bên bảy tỏ ý chí với nhau theo nhưng nguyên tắc và trình tự nhất
định để qua đó xác lập quyền và nghĩa vụ mỗi bên.
1.3.1.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa trong dân sự.Theo quy định tại điều 390 Bộ luật dân sự khi giao kết
hợp đồng các chủ thể phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái với pháp luật và đạo
đức xã hội. Theo nguyên tắc này bên bán hoặc bên mua trong hợp đồng mua bán hàng
hóa khi có đủ tư cách chủ thể điều có quyền tham gia bất kỳ một hợp đồng nào mà
không ai có quyền ngăn cản, sự tư do ý chí phải năm trong khuôn khổ pháp luật và
không trái với đạo đức xã hội.
Ví dụ: Doanh ngiệp A ( bên bán) có quyền tự do kí hợp đồng mua bán vật liệu xây
dựng đối với các doanh nghiệp B, doanh nghiệp C theo quy định của pháp luật mà
không thể bị ngan cản, nghĩa là doanh nghiệp B hay doanh nghiệp C không được ngăn
cản doanh nghiệp A kí hợp với nhiều đối tác.
Thứ hai, các bên tham gia giao kết hợp đồng phải tự nguyện và bình đẳng. Ý
chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí đó
ra bên ngoài.
Ví dụ: công ty X ( bên bán) kí hợp đồng mua bán hàng hóa là vải với công ty B, thì hai
bên đều phải tự nguyện và bình đẳng về địa vị pháp lí. Tự nguyện trong việc thỏa
thuận giá cả hàng hóa, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng.
Các bên phải thỏa thuận thống nhất ý chí, không bên nào được áp đặt, đe dọa, lừa dối
đối tác.
11



Nếu vi phạm nguyên tắc này thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu
1.1.3.2. Trình tự giao kết hợp đồng
Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình mà trong đó bên bán và bên mua bày tỏ
ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận cùng nhau xác lập quyền
và nghĩa vụ mỗi bên.
- Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là việc thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng mua bán và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị với bên đã
được xác định cụ thể. Đề nghị hợp đồng mua bán có thể do bên bán hoặc bên mua thực
hiện.
Hình thức của đề nghị:để bên bán hoặc bên mua có thể hình dung được hợp đồng đó
như thế nào? Bên đề nghị phải đưa ra những điều khoản của một hợp đồng một cách rõ
ràng. Dựa vào quy định về hình thức hợp đồng mua bán (Điều 24 Luật thương mại ) có
thể xác định được hình thức của đề nghị hợp đồng. Theo đó việc đề nghị hợp đồng
được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, có thể được thực hiện bằng văn bản, lời
nói hoặc hành vi cụ thể hoặc kết hợp giữa các hình thức này.
Hiệu lực của đề nghị giao kết: hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
thong thường do bên đề nghị ấn định. Trong trường hợp bên đề nghị không ấn định
thời điểm có hiệu lực thì đề nghị giao kết có hiệu lực từ khi bên được đề nghị đã nhận
được đề nghị đó.
Bên đề nghị phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình, nếu bên được đề
nghị thông báo chấp nhận trong thời hạn đề nghị có hiệu lực thì hợp đồng mua bán
hàng hóa hình thành và ràng buộc các bên. Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay
đổi hoặc rút lại đề nghị. Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường
hợp: bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; hết thời hạn trả lời chấp nhận;
thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực; thông báo về việc hủy bỏ
đề nghị có hiệu lực; theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong
thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán.
Chấp nhận đề nghị giao kết là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận

toàn bộ nội dung của đề nghị. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác
định khác nhau trong các trường hợp sau:
• Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận có hiệu lực
khi thực hiện trong thời hạn đó.
• Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, thì bên được đề nghị phải trả lời ngay
có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
12


Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận.
Theo tinh thần của Bộ luật dân sự 2005 ( Điều 404), có thể xác định thời điểm giao kết
hợp đồng mua bán theo các trường hợp sau:
• Hợp đồng bằng văn bản: thời điểm giao kết là thời điểm bên sau cùng kí vào
văn bản.
• Hợp đồng giao kết gián tiếp bằng văn bản ( thông qua các tài liệu giao dịch):
hợp đồng được giao kết khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng.
• Hợp đồng miệng: thời điểm giao kết là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong về
nội dung của hợp đồng.
Trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, sự im lặng của bên được đề nghị
cho đến khi hết thời hạn trả lời cũng có thể là căn cứ xác định hợp đồng đã được giao
kết nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
1.1.3.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự (Điểu 122) và các quy định có lien
quan, có thể xác định một hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực khi đầy đủ các điều
kiện sau:
Thứ nhất, các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán phải có năng lực chủ thể để
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Nghĩa là các chủ thể phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi thương mại.

Thứ hai, đại diện của các bên giao kết hợp đồng mua bán phải đúng thẩm
quyền.
Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng mua bán không vi phạm điều cấm
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không
bị cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, hợp đồng mua bán được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng
theo quy định của pháp luật, đó là: tự do giao kết nhưng không trái với pháp luật và
đạo đức xã hội; tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực và ngay thẳng.
Thứ năm, hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật. Hợp
đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể.
1.3.2. Thực hiện hợp đồng.
1.3.2.1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán
Những thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các bên.
Các bên phải thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận theo đúng hợp đồng. Để đảm bảo
-

13


việc thực hiện hợp đồng mang lại lợi ích cho các bên đồng thời không xâm hại đến
những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ, pháp luật quy định những nguyên tắc có tính
chất bắt buộc phải tuân theo đối với các chủ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Theo quy định của Bộ luật dân sự, việc thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng
mua bán nói riêng phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
- Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời
hạn,
phương thức và các thỏa thuận khác.
- Thực hiện 1 cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, đảm
bảo tin cậy lẫn nhau.

- Không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác.
1.3.2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán
* Nghĩa vụ cơ bản của bên bán:
- Giao hàng: giao hàng là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán trong hợp đồng
mua bán hàng hoá. Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên bán đều có liên quan và
nhằm mục đích hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng cho bên mua. Theo quy định của Luật thương mại 2005, bên bán
phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách
thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Trường hợp không có
thoả thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định
của pháp luật.
• Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng:
Đối tượng và chất lượng hàng hoá là những nội dung cơ bản của hợp đồng mua
bán hàng hoá. Bên bán phải thực hiện giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo
thỏa thuận và quy định của pháp luật. Trong việc giao nhận hàng hoá, vấn đề xác định
hàng hoá có phù hợp với hợp đồng về đối tượng và chất lượng hay không có ý nghĩa
rất quan trọng. Về nguyên tắc, phải căn cứ vào nội dung cụ thể của hợp đồng để xác
định vấn đề này, nếu không thì phải căn cứ vào các quy định của pháp luật.
Khi hàng hoá giao không phù hợp với hợp đồng, bên mua có quyền tự chối nhận hàng.
• Giao chứng từ kèm theo hàng hóa:
Trong nhiều trường hợp, việc giao hàng hoá còn bao gồm việc giao các chứng
từ có liên quan đến hàng hoá (chứng nhận chất lượng, chứng nhận nguồn gốc, xuất xứ,
vận đơn...). Theo Luật thương mại 2005, trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng
từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong
thời hạn, tại địa điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận.
14


Giao hàng đúng thời hạn:

Những nội dung liên quan đến điều khoản giao hàng như thời gian, địa điểm,
phương thức giao hàng thường được các bên thỏa thuận phù hợp với đặc điểm của
hàng hoá trong hợp đồng. Trường hợp các bên không thỏa thuận những vấn đề này
trong hợp đồng thì áp dụng quy định của pháp luật hoặc tập quán. Theo Luật thương
mại 2005, trường hợp chỉ có thoả thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thời
điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong
thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua; trường hợp không có thoả thuận về
thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong 1 thời hạn hợp lý sau khi giao kết
hợp đồng.
• Giao hàng đúng địa điểm:
Bên bán phải giao hàng đúng địa điểm theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu các
bên không có thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng được xác định
như sau:
Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại
nơi có hàng hoá đó.
Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì bên bán có
nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên.
Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu
vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm
xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm
đó.
Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của
bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên
bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán.
• Kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng:
Việc kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng là yêu cầu cần thiết đối với giao
dịch mua bán trong thương mại, ngăn ngừa những sai sót trong việc giao hàng, tăng
khả năng thực hiện hiệu quả việc mua bán. Bên bán phải kiểm tra hàng hoá trước khi
giao hàng nếu các bên không có thoả thuận khác.
- Đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hoá mua bán:

Bên bán phải đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hoá giao cho bên mua. Bên
bán phải đảm bảo tính hợp pháp về quyền sở hữu và việc chuyển giao quyền sở hữu
đối với hàng hoá giao cho bên mua; đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với hàng
hoá đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ 3, Trong trường hợp hàng hoá bị người thứ
3 tranh chấp thì bên bán phải đứng về phía bên mua để bảo vệ quyền lợi của bên mua;


15


nếu người thứ 3 có quyền sở hữu 1 phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán thì bên mua có
quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại.
- Chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua:
Theo Luật thương mại 2005, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc
các bên có thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ
thời điểm hàng hoá được chuyển giao. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận,
quyền sở hữu hàng hoá có thể được chuyển giao ở những thời điểm khác nhau, tùy
thuộc tính chất của việc chuyển giao hàng hoá và phương thức mua bán.
- Rủi ro đối với hàng hoá:
Trong thực tiễn mua bán hàng hoá, có thể xảy ra những sự kiện khách quan làm
mất mát, hư hỏng hàng hoá trên đường vận chuyển, trước hoặc sau khi nhận hàng. Về
nguyên tắc chung, việc xác định trách nhiệm chịu rủi ro đối với hàng hoá trước hết cần
căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Trường hợp các bên không có
thỏa thuận thì áp dụng theo các quy định của pháp luật. Theo Luật thương mại 2005,
vấn đề xác định trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hoá được quy định như sau:
• Rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định: nếu bên bán có nghĩa
vụ giao hàng cho bên mua tại 1 địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc
hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho
bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền đã nhận hàng hoá tại địa điểm đó,
kể cả trong trường hợp bên bán được ủy quyền giữ lại các chứng từ xác lập

quyền sở hữu đối với hàng hoá.
• Rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định: nếu hợp đồng
có quy định về việc vận chuyển hàng hoá và bên bán không có nghĩa vụ giao
hàng tại 1 địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được
chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho người vận chuyển đầu tiên.
• Rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà không phải
là người vận chuyển: nếu hàng hoá đang được người nhận hàng để giao nắm
giữ mà không phải là người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng
hàng hoá được chuyển cho bên mua khi: bên mua nhận được chứng từ sở hữu
hàng hoá; khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hoá
của bên mua.
• Rủi ro trong trường hợp hàng hoá đang trên đường vận chuyển: rủi ro về mất
mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm giao kết
hợp đồng.
Ngoài ra, rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua
kể từ thời điểm hàng hoá thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp
đồng do không nhận hàng.
16


- Nghĩa vụ bảo hành hàng hoá:
Bảo hành là việc bên bán, trong 1 thời gian nhất định phải chịu trách nhiệm về
hàng hoá sau khi đã giao hàng hoá cho bên mua. Việc bảo hành được thực hiện theo
thỏa thuận hoặc theo các quy định của pháp luật. Bên bán phải thực hiện nghĩa vụ bảo
hành trong thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Bên bán phải chịu các
chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
* Nghĩa vụ cơ bản của bên mua:
- Nghĩa vụ nhận hàng:
Nhận hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên mua tương ứng với nghĩa vụ giao hàng
của bên bán. Nhận hàng được hiểu là việc bên mua tiếp nhận trên thực tế hàng hoá từ

bên bán. Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa thuận. Khi nhận hàng, bên mua
phải thực hiện các công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng, những công việc này
có thể khác nhau trong những trường hợp cụ thể. Cần lưu ý, việc nhận hàng trên thực
tế không đồng nghĩa với việc người mua đã chấp nhận về hàng hoá được giao. Theo
Luật thương mại, sau khi hoàn thành việc giao nhận, bên bán vẫn phải chịu trách
nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá đã được giao, nếu các khiếm khuyết của
hàng hoá không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông
thường và bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông
báo cho bên mua.
- Nghĩa vụ thanh toán:
Thanh toán là nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua trong quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hoá. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận trong
hợp đồng. Điều khoản thanh toán được các bên thỏa thuận thông thường bao gồm
những nội dung cụ thể về đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán, thời hạn, địa
điểm thanh toán, trình tự, thủ tục thanh toán... Bên mua phải thực hiện đúng những nội
dung này theo thỏa thuận. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về những nội dung
cụ thể liên quan đến việc thanh toán thì áp dụng quy định của pháp luật.
1.3.3. Vấn đề giải quyết vi phạm phát sinh khi giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa
Các bên khi đã giao kết hợp đồng thì phải thực hiện nghĩa vụ khi hợp đồng có
hiệu lực. Việc một bên không thực hiện nghĩa vụ sẽ phải chịu những chế tài do pháp
luật quy định. Quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng
vì nó đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện trong thực tế, ngăn ngừa và hạn chế vi
phạm hợp đồng, đảm bảo quyền lợi cho các bên khi tham gia ký kết hợp đồng cũng
như đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về mua bán hàng hóa.
1.3.3.1. Căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá
17


Để áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa phải dựa vào

các căn cứ do pháp luật quy định. Đó là các căn cứ sau đây:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng
Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là xử sự của một bên chủ thể của hợp
đồng không phù hợp với hợp đồng đã giao kết. Đó là việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Tuy nhiên khi thực hiện
không những phải thực hiện các nghĩa vụ đã ký trong hợp đồng mà còn phải thực hiện
theo những quy định của pháp luật do đó nếu căn cứ để áp dụng trách nhiệm cần phải
căn cứ vào hợp đồng và có xem xét quy định của pháp luật
- Bên vi phạm có lỗi
Để áp dụng chế tài này thì nhất thiết bên vi phạm phải có lỗi. Khi xác định lỗi
của chủ thể là tổ chức vi phạm hợp đồng để áp dụng trách nhiệm hợp đồng phải căn cứ
vào lỗi của người đại diện tổ chức đã giao kết và thực hiện hợp đồng. Mọi hành vi
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng đều bị suy đoán là có lỗi (trừ
trường hợp bên vi phạm chứng minh được là mình không có lỗi). Do đó khi áp dụng
chế tài đối với bên vi phạm, bên bị vi phạm cũng như cơ quan tài phán không có nghĩa
vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm. Đối với trường hợp vi phạm này có thể áp dụng
hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng hoặc phạt vi phạm. Mức tiền phạt do hai bên
thỏa thuận nhưng không được vượt quá quy định của pháp luật. LTM quy định mức
phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm.
- Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra
Thiệt hại vật chất thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà bên
bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu. Thiệt hại có hai loại là thiệt hại trực tiếp và thiệt
hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, có thể tính
một cách dễ dàng và chính xác. Biểu hiện của nó là tài sản bị mất mát, hư hỏng, chi
phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra. Thiệt hại gián tiếp
là những thiệt hại phải dựa trên sự suy đoán khoa học (trên cơ sở những chứng cứ, tài
liệu) mới có thể xác định được. Biểu hiện cụ thể của thiệt hại này là thu nhập thực tế bị
mất, bị giảm sút, khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải

chịu.
Đối với hợp đồng trong thương mại, LTM quy định về các khoản thiệt hại do vi
phạm hợp đồng bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu
do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng
nếu không có hành vi vi phạm. Nếu bên vi phạm chậm thanh toán tiền thì bên bị vi
18


phạm có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn
trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với số tiền chậm trả.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
Mối quan hệ nhân quả ở đây tức thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi
vi phạm hợp đồng. Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt
hại xảy ra không phải là dễ dàng bởi trong thực tế các chủ thể có thể tham gia nhiều
mối quan hệ cùng một lúc. Do đó khi xác định thiệt hại phải dựa trên những chứng cứ
rõ ràng, xác thực và hợp pháp.
Khi có thiệt hại xảy ra, và thiệt hại đó có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi
phạm thì có thể áp dụng hình thức bồi thường thiệt hại. Bên vi phạm phải bồi thường
toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm, tuy nhiên các khoản thiệt hại đòi
bồi thường phải nằm trong phạm vi mà pháp luật cho phép. Bên yêu cầu bồi thường
phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực
tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi
thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm
bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được. Các bên
có thể thỏa thuận chỉ nộp tiền phạt mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phạt
vi phạm hợp đồng vừa phải bồi thường thiệt hại. LTM quy định, trong trường hợp các
bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài
phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại.
Ngoài các hình thức trách nhiệm trên, các bên có thể áp dụng các hình thức như
tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng. Khi

xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng, đình chỉ,
hủy bỏ hợp đồng thì các bên có thể áp dụng các hình thức này
1.3.3.2. Các trường hợp miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa
Khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa, có nhiều trường hợp không phải chịu
các hình thức chế tài mà pháp luật quy định. Đó là khi thuộc một trong các trường hợp
các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Theo LTM 2005 (Điều 294),
ngoài các trường hợp miễn trách mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng, bên vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng mua bán còn được miễn trách trong các trường hợp sau: (i) khi xảy
ra sự kiện bất khả kháng; (ii) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên
kia; (iii) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, đối với những trường hợp mua bán có thời
hạn cố định về giao hàng, các bên có quyền không thực hiện hợp đồng và không bị áp
19


dụng các chế tài vi phạm hợp đồng. Trường hợp hợp đồng mua bán có thỏa thuận giao
hàng trong một thời hạn, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn hoặc không thỏa
thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian
bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc
phục hậu quả nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:
- Năm tháng đối với hàng hóa mà thời hạn giao hàng được thỏa thuận trong hợp đồng
không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;
- Tám tháng đối với hàng hóa mà thời hạn giao hàng được thỏa thuận trên mười hai
tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng .
Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp được miễn
trách và phải thông báo cho bên kia biết cùng những hậu quả xảy ra. Nếu không thông
báo kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.


20


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VẤN ĐỀ
GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI CÔNG
TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ THƯƠNG MẠI VÀ KỸ THUẬT HÒA BÌNH.
2.1. Khái quát về tình hình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại
Công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
2.1.1. Giới thiệu công ty
Tên Công ty: Công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
Tên giao dịch bằng tiếng Anh: HOA BINH ENGINEERING AND TRADING
INVESTMENT JOINT STOCK COMPANY
Tên công ty viết tắt: HOABINH ETI.,JSC
Vốn điều lệ: 33.300.000.000 đồng
Mệnh giá cổ phần: 10.000 dồng
Tổng số cổ phần: 33.300.000
Chủ tịch hội đồng quản trị: tổng giám đốc Đào Xuân Hòa.
Người đại diện theo pháp luật: Tổng Giám Đốc: Đào Xuân Hòa
Địa chỉ trụ sở chính: Số 7 BT3, Phố Nguyễn Duy Trinh, Bán đảo Linh Đàm, Hoàng
Mai, Hà Nội
Điện thoại: +84 4366 86 390 * Fax: +84 4366 86 391
Email:
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh
Hiện nay, Công ty Hoà Bình không chỉ là nhà thầu cơ điện mà đã vươn ra lĩnh
vực đầu tư, xây dựng hạ tầng, giao thông và thuỷ lợi, bên cạnh đó Công ty cũng cung
cấp các dịch vụ thương mại cho ngành công nghiệp và dân dụng bao gồm:
•Tư vấn, thiết kế, xây dựng hoàn thiện các nhà máy công nghiệp, khách sạn, văn
phòng, chung cư cao cấp.
•Kinh doanh máy móc, thiết bị nhà máy nhiệt điện, nhà máy lọc dầu và các nhà máy
công nghiệp.

•Đầu tư & xây dựng hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi, nhà máy công nghiệp.
Qua nhiều dự án, với kinh nghiệm quý báu và sự trưởng thành của đội ngũ cán
bộ nhân viên trong Công ty, cùng với sự tin tưởng của quý khách hàng các đối tác, đây
là nguồn động lực vô cùng quý báu với Hòa Bình.
Để hoàn thành những sứ mệnh của Công ty, với sự đồng tâm nhất trí, Ban Giám
đốc cùng toàn thể Cán bộ Công nhân viên CÔNG TY CP ĐẦU TƯ THƯƠNG MẠI
VÀ KỸ THUẬT HOÀ BÌNH quyết tâm phấn đấu trở thành Công ty hàng đầu trong
lĩnh vực Tư vấn, thiết kế, cung cấp, lắp đặt các hệ thống cơ điện, đáp ứng ngày càng
cao các yêu cầu của khách hàng.
21


Trở thành Tổng thầu M&E hàng đầu tại Việt Nam
“Trung thực - Khách quan - Hiệu quả” là phương châm hành động của công ty nhằm
đạt mục tiêu đề ra. Bằng nỗ lực và lòng tận tụy của từng cá nhân, toàn thể cán bộ, nhân
viên trong công ty, đồng thời dựa trên cơ sở hiểu biết sâu sắc nhu cầu của khách hàng
và năng lực không ngừng được nâng cao, Công ty sẽ triển khai các dịch vụ tốt nhất,
mang lại hiệu quả cao nhất cho mọi đơn vị, tổ chức, cá nhân có nhu cầu đấu giá tài
sản. Đối với tất cả các khách hàng dù lớn hay nhỏ hơn, Công ty chủ trương xây dựng
mối quan hệ lâu dài, hợp tác và tin cậy.
Ngoài ra, Công ty mong muốn được đóng góp một phần lớn lao cho sự nghiệp
phát triển của hoạt động tại Việt Nam, minh bạch hóa quan hệ thị trường, tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình toàn cầu hóa và hội nhập nền kinh tế thế giới của Việt Nam.
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật giao kết và thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa tại Công ty Cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
2.1.3.1. Nhân tố chủ quan
* Nhân tố con người:
Con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể chính của mọi hoạt động, quyết
định trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Trình
độ, năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc tốt thì sẽ đảm bảo được

kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp đề ra, cho phép việc thực hiện các hợp đồng mua
bán hàng hóa có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn, nhanh nhạy với thị trường,
tận dụng các cơ hội có được và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiếp đó là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh
nghiệp, đây là những người trực tiếp thực hiên hoạt động mua bán hàng hóa. Họ trực
tiếp đi giao dịch ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa và thực hiện chúng, trong quá
trình thực hiện hợp đồng họ luôn giám sát và đôn đốc công việc cho tới khi hoàn
thành. Chính vì vậy mà họ là nhân tố quyết định hiệu quả của việc thực hiện hợp đồng.
* Nguồn tài chính:
Tài chính hay vốn là nhân tố cực kỳ quan trọng và quyết định đến sự tồn tại của
doanh nghiệp cũng như hoạt động mua bán hàng hóa. Có nguồn tài chính đồi dào sẽ
đảm bảo hoạt động mua bán hàng hóa được thực hiện và diễn ra liên tục.Với khả năng
huy động vốn của doanh nghiệp tốt thì có thể tăng khả năng cạnh tranh bằng các biện
pháp như ứng trước tiền hàng, cho phép thanh toán chậm, đưa ra các điều khoản thanh
toán ưu đãi và dễ dàng hơn trong việc đàm phán ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

22


2.1.3.2. Nhân tố khách quan
* Nhân tố kinh tế:
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đặc biệt khi tham gia vào WTO tiêu thụ
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chính, là vấn đề tất yếu của hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra và
chiếm một số lượng chủ yếu trong các giao dịch dân sự. Sử dụng pháp luật là công cụ
thực hiện các giao dịch dân sự và gắn liền với các hoạt động mua bán hàng hóa là hợp
đồng mua bán hàng hóa. Các hoạt động trao đổi, mua bán của các doanh nghiệp hiện
nay dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều đã sử dụng hợp đồng mua bán
hàng hóa như một công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản giữa các bên.
* Nhân tố chính trị, pháp luật:

Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao, sự cân bằng các chính sách của
nhà nước, vai trò và chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ, sự điều tiết
và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế xã hội, các quyết định
bảo vệ người tiêu dùng, hệ thống pháp luật, sự hoàn thiện và hiện thực thi hành
chúng... có ảnh hường rất lớn đến hoạt động mua bán hàng hóa của doanh nghiệp.
Các chính sách bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy phạm kỹ
thuật sản xuất tạo ra một hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động, các hoạt động
của doanh nghiệp như sản xuất kinh doanh hay hoạt động mua bán hàng hóa đều phải
dựa vào các quy định của pháp luật. Doanh nghiệp phải chấp hành các quy định của
pháp luật, phải thực hiện các nghĩa vụ của mình với nhà nước, với xã hội và với người
lao động như thế nào là do pháp luật quy định (nghĩa vụ nộp thuế, trách nhiệm đảm
bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp, tuân thủ các yêu cầu trong khi thực hiện hợp đồng …).
2.2. Thực trạng của việc áp dụng pháp luật điều chỉnh giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa
Bình.
2.2.1. Thực trạng của việc áp dụng pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng
mua bán tại Công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
a. Căn cứ giao kết hợp đồng
Như chúng ta đã biết không có một văn bản nào của Nhà nước qui định nếu văn
bản không có phần căn cứ thì sẽ vô hiệu hay thiếu sót. Do đó, khi soạn thảo hợp đồng
không nhất thiết phải nêu căn cứ pháp lý. Tuy nhiên, để đảm bảo cho các bên trong
hợp đồng có thể định hướng được các nội dung khác của hợp đồng thì khi soạn thảo
nên có phần căn cứ.

23


Vấn đề về căn cứ của hợp đồng đã được Công ty cổ phần đầu tư thương mại và
kỹ thuật Hòa Bình áp dụng một cách triệt để. Hầu hết tất cả hợp đồng của công ty đều

có ghi rõ căn cứ áp dụng và dựa vào các hợp đồng mua bán hàng hoá mà Công ty cổ
phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình đã ký kết thì có thể thấy việc ký kết hợp
đồng mua bán hàng hoá của công ty dựa trên các căn cứ sau:
* Căn cứ pháp lý
• Đối với những hợp đồng được ký trước khi có Bộ luật dân sự 2005 và Luật
thương mại 2005 thì công ty căn cứ vào:
- Bộ luật dân sự 1995;
- Luật thương mại 1997;
- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế do Hội đồng nhà nước ban hành ngày 25/9/1989 và Nghị
định số 17/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
• Đối với những hợp đồng mà được ký kết khi Bộ luật dân sự và Luật thương
mại mới có hiệu lực thì công ty căn cứ vào:
- Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2006;
- Luật thương mại 2005 được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14
tháng 6 năm 2005, có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2006.
Ngoài ra tuỳ theo đối tượng của từng loại hợp đồng thì công ty cũng có thể dựa
trên căn cứ như, Công văn số 07/TMHT ngày 28/1/2008 về việc xin ký hợp đồng mua
bán giấy năm 2008; Căn cứ bản chào giá bán hoá chất nhập khẩu của Công ty cổ phần
đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình. …để ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
* Căn cứ thực tiễn
Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá bên cạnh những căn cứ về pháp lý,
Công ty còn căn cứ vào căn cứ thực tiễn. Đó là định hướng của Nhà nước, nhu cầu thị
trường, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, đặc biệt là khả năng thực hiện hợp đồng của
công ty. Khả năng đó là có thể giao hàng theo đúng khối lượng, đúng địa điểm hoặc
thời gian hay không hoặc vấn đề tổ chức điều hành của Công ty trong việc sản xuất
kinh doanh. Tuy vậy thì trong đa số các hợp đồng mà công ty đã tiến hành giao kết thì
phần căn cứ đều ghi là “… theo nhu cầu và năng lực của…” . Điều này là không cần
thiết vì đây là điều tất yếu mặc định.
Ngoài ra, trong khi giao kết hợp đồng Công ty cổ phần đầu tư thương mại và kỹ

thuật Hòa Bình luôn chú ý tuân thủ các nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng
không được trái pháp luật, đạo đức xã hội, tự nguyện và bình đẳng mà luật quy định.

24


b.Chủ thể giao kết hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hoá có thể được giao kết giữa thương nhân với thương
nhân hoặc giữa thương nhân với một bên không phải là thương nhân. Thương nhân có
thể là cá nhân hoặc pháp nhân có tiến hành hoạt động thương mại độc lập, thường
xuyên và có đăng kí kinh doanh. Thương nhân khi là chủ thể của hợp đồng mua bán
hàng hoá phải phù hợp với phạm vi và lĩnh vực của họ trong đăng kí kinh doanh. Chủ
thể khác không phải là thương nhân khi kí một hợp đồng với một thương nhân khác
mà bản thân họ không nhằm mục đích sinh lời thì họ có thể là chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hoá trong hoạt động thương mại nếu bên không phải là thương nhân lựa
chọn luật thương mại để áp dụng khi giao kết hợp đồng. Chi nhánh của thương nhân
nước ngoài tại Việt Nam cũng có quyền kí các hợp đồng mua bán hàng hoá.
c.Việc hình thành các đề nghị giao kết hợp đồng mua bán của Công ty cổ phần đầu tư
thương mại và kỹ thuật Hòa Bình.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng được thực hiện chủ yếu tại Công ty cổ
phần đầu tư thương mại và kỹ thuật Hòa Bình. Khi muốn tiến hành hoạt động mua bán
hàng hóa của mình, công ty bao giờ cũng chú ý đến việc tìm kiếm khách hàng, đối tác
kinh doanh. Trước khi tiến hành giao kết hợp đồng, công ty luôn thực hiện công việc
tiếp cận, tìm hiểu về các khách hàng sắp kí kết hợp đồng. Việc tìm hiểu này có thể
thông qua các nguồn như báo chí, đài phát thanh, truyền hình, mạng internet hay qua
sự giới thiệu của ngân hàng mà công ty giao dịch và các nguồn khác… Mặt khác, lợi
ích của việc tìm hiểu này còn là việc hiểu rõ nhu cầu của khách hàng về sản phẩm như
các yêu cầu về kiểu dáng, chủng loại, chất lượng của sắt thép mà họ cần mua. Công
việc này được thực hiện qua việc trưng cầu ý kiến của khách hàng. Công ty coi đây là
việc làm quan trọng và nó giúp cho công ty có thể giao kết được nhiều hợp đồng. Điển

hình như số lượng hợp đồng công ty kí kết được đều tăng lên, giá trị hợp đồng được kí
kết cũng đạt giá trị lớn. Ngoài ra, với khách hàng quen biết, từng ký hợp đồng nhiều
lần với công ty thì các khách hàng có thể thực hiện việc đặt hàng theo cách gọi điện
trực tiếp, hoặc gửi đơn đặt hàng đến công ty. Ví dụ như trong hợp đồng cung cấp vật
tư, vật tư phụ cho hệ thống điều hòa cho Trụ sở làm việc chi nhánh Ngân hàng đầu tư
và Phát triển Hà Nội mà công ty đã tiến hành ký kết thì bên Trụ sở làm việc chi nhánh
Ngân hàng đầu tư và Phát triển Hà Nội đã trực tiếp gửi đơn hàng cho công ty, trong
đơn đặt hàng có ghi rõ quy cách, chất lượng, giá cả đã xác nhận mua, thời gian giao
nhận và người được ủy quyền nhận hàng tại kho nhà máy . Đơn đặt hàng của bên mua
phải do giám đốc công ty hoặc người được ủy quyền ký và phải gửi cho bên bán trước
khi giao hàng. Bên bán sẽ cung cấp đúng đủ quy cách số lượng hàng hóa theo đơn đặt
hàng của bên mua.
25


×