Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiềm năng, triển vọng, thực trạng khai thác, quản lý, định hướng sử dụng NĂNG LƯỢNG GIÓ của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.89 KB, 21 trang )

1

Đề tài : tài nguyên năng lượng gió
Họ và tên: Nguyễn Thị Lan Hương
Mã sinh viên: 11141985
Lớp : bản đồ học _1

Mục lục
Lời nói đầu................................................................................................1
Nội dung
1.Tổng quan về năng lượng gió................................................................................2
a. khái niệm năng lượng gió.................................................................................2
b. Các lợi thế chính của năng lượng gió và phân loại............................................3
c. Biểu đồ phân bố gió ở Việt Nam ở độ cao 80m ...................................................................4

2.Năng lượng gió của Việt Nam, tiềm năng và triển vọng......................................6
a.Tình hình cung - cầu điện năng ở Việt Nam......................................................6
b.Giá thành của điện gió, liệu có đắt ....................................................................7
3. Hiện trạng khai thác, quản lý, sử dụng ................................................................8
a.Năng lượng gió tại Việt Nam..............................................................................8
b. dự án điện gió Bình Thuận .............................................................................10
c.Dự án điện gió Bạc Liêu ..................................................................................11
4.Định hướng sử dụng trong thời gian tới...............................................................12


2

a. đề xuất một số khu vực xây dựng điện gió cho Việt Nam................................12
b.Một số lựa chọn chính sách của Việt Nam........................................................14
c. học tập các nước trên thế giới......................................................................... 15
d.Một viễn cảnh tươi sáng của điện gió.................................................................15


e.Những lợi ích về môi trường và xã hội của điện gió.........................................18

lời kết.........................................................................................19


3

lời nói đầu
Việc phát triển điện gió làm giảm thiểu lượng CO2, gây hiệu ứng nhà kính, góp
phần bảo vệ môi trường, đảm bảo nước ta phát triển nền công nghiệp xanh và bền
vững.
Tại Việt Nam, tình trạng thiếu hụt điện vẫn diễn ra nhiều năm qua. Các dự án xây
dựng nguồn cấp không theo kịp nhu cầu tiêu thụ điện gia tăng quá nhanh, tại một
quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trong khi nguồn điện năng chủ yếu của
nước ta là thủy điện và nhiệt điện (than, khí và dầu).
Việt Nam lệ thuộc vào thủy điện quá nhiều nên nhu cầu đáp ứng điện lại tăng cao
vào mùa khô, tạo nên áp lực lớn lên các nhà máy nhiệt điện, dẫn đến tiêu tốn một
số lượng lớn nhiên liệu hóa thạch, gây ô nhiễm môi trường. Hơn nữa việc phá rừng
làm thủy điện cũng đe dọa lớn đến môi trường, động thực vật càng ngày bị đe dọa.
Việc lệ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch và tàn phá thiên nhiên đang
khiến chúng ta phải trả giá bằng việc trái đất nóng dần lên, các loài động vật dần
tuyệt chủng, thiên tai ngày càng tăng lên và chưa có dấu hiệu dừng lại. Đây là
những tác động mà Việt Nam đang phải hứng chịu trong các năm gần đây.
Vì vậy, việc tìm kiếm các nguồn năng lượng mới là một trong những thách thức
cho chính Việt Nam. Hiện nay, giải pháp được các nước phát triển sử dụng và phát
triển là "Điện gió" - một nguồn năng lượng an toàn, hiệu quả, vô hạn.
Chính vì vậy, Nhà nước cần ban hành các chính sách thích hợp khuyến khích đầu
tư điện gió vào Việt Nam; trợ giá, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát triển
điện gió. Chúng ta cần nghiên cứu và xây dựng các tubin điện gió nội địa, từng
bước phát triển và làm chủ công nghệ; khuyến khích người dân sử dụng điện gió.

Mặt khác, chúng ta nên xây dựng cơ chế để đảm bảo công bằng sân chơi cho năng
lượng gió; tăng cường nghiên cứu khoa học về các ngành năng lượng mới; xây
dựng các trang trại điện gió ngoài biển, tận dụng tốt không gian và lượng gió.
Với những chính sách phù hợp và sự hưởng ứng của xã hội và nguồi dân, điện gió
ở nước ta sẽ phát triển nhanh và mạnh, trở thành nguồn năng lượng sạch, đồng thời
đảm bảo an ninh năng lượng trong tương lai. Việc phát triển điện gió cũng giúp
làm giảm thiểu lượng CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Vì vậy, chỉ có phát triển kinh tế
đi đôi với bảo vệ môi trường mới đảm bảo nước ta phát triển nền công nghiệp xanh
và bền vững.

Nội dung
1.Tổng quan về năng lượng gió
a.khái niệm năng lượng gió


4

Năng lượng gió là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí quyển Trái
Đất. Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng lượng mặt trời. Sử dụng
năng lượng gió là một trong các cách lấy năng lượng xa xưa nhất từ môi trường tự
nhiên và đã được biết đến từ thời kỳ Cổ đại.
Bức xạ Mặt Trời chiếu xuống bề mặt Trái Đất không đồng đều làm cho bầu khí
quyển, nước và không khí nóng không đều nhau. Một nửa bề mặt của Trái Đất, mặt
ban đêm, bị che khuất không nhận được bức xạ của Mặt Trời và thêm vào đó là
bức xạ Mặt Trời ở các vùng gần xích đạo nhiều hơn là ở các cực, do đó có sự khác
nhau về nhiệt độ và vì thế là khác nhau về áp suất mà không khí giữa xích đạo và 2
cực cũng như không khí giữa mặt ban ngày và mặt ban đêm của Trái Đất di động
tạo thành gió. Trái Đất xoay tròn cũng góp phần vào việc làm xoáy không khí và vì
trục quay của Trái Đất nghiêng đi (so với mặt phẳng do quỹ đạo Trái Đất tạo thành
khi quay quanh Mặt Trời) nên cũng tạo thành các dòng không khí theo mùa.

b. Các lợi thế chính của năng lượng gió và phân loại gió
+Các lợi thế chính của năng lượng gió
-Sạch, không gây ô nhiễm: năng lượng gió không thải khí và suy kiệt theo thời gian.
-Tăng cường phát triển kinh tế địa phương: các nông trại gió có khả năng nâng cao
thu nhập của chủ đất qua các hình thức cho thuê đất để phát triển trại gió, đưa tới
việc tăng lợi tức từ thuế cho cộng đồng địa phương.
-Đa dạng về hình thức và qui mô: ứng dụng năng lượng gió gồm nhiều hình thức và
qui mô từ nhỏ đến lớn, từ các trại gió tập trung đến các hệ thống phát điện gia dụng.
-Ổn định giá năng lượng: với khả năng đóng góp và đa dạng hóa năng lượng, năng
lượng gió có thể góp phần giảm sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng truyền thống
(năng lượng hóa thạch) vốn thay đổi theo giá thành và khả năng cung cấp.
-Giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, góp phần giữ vốn đầu tư nội địa và
hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp nguyên liệu từ nước ngoài.
Với vai trò và khả năng giảm thiểu tỷ lệ khí nhà kính của năng lượng gió, các
nước phát triển đang đẩy mạnh các kế hoạch khai triển điện gió đầy tham vọng.
Trong đó gần đây nhất là các dự án phát triển điện gió ngoài khơi, cho dù dạng
điện gió ngoài khơi thường có chi phí khai thác cao hơn nhưng nguồn gió rất dồi
dào và ít các tác động môi trường hơn.
Điện gió cũng đang thu hút dần dần sự chú ý của các nước đang phát triển do
nó có thể được khai triển tương đối nhanh chóng ở những khu vực đang có nhu cầu
cấp bách về điện năng. Điện gió cũng có thể là giải pháp có hiệu quả kinh tế để
thay thế một khi các nguồn nhiên liệu truyến thống bị khan hiếm hoặc giá cả dao
động mạnh, bất ổn. Điện gió cũng có những ứng dụng rất phù hợp ở các địa
phương vùng sâu vùng xa do khả năng linh hoạt của nó trong qui mô khai triển.


5

Nguời ta thường phân biệt 3 loại gió chính:
Gió geostrophic (hay còn gọi là gió toàn cầu: global wind): gây ra bởi sự

chênh lệch về nhiệt độ và áp suất, thổi ở độ cao khoảng 1000 m so với mặt đất,
không phụ thuộc nhiều vào bề mặt Trái Đất. Đây chính là loại gió được đề cập ở
trên. Loại gió này không là nguồn năng lượng cho điện gió.
Gió bề mặt (surface wind): thổi trên mặt đất cho đến độ cao 100 m. Loại gió
này phụ thuộc mật thiết vào điều kiện mặt đất, địa hình (giảm vận tốc gió). Lưu ý
là hướng gió thổi gần mặt đất khác rất xa hướng gió thổi trên cao (hướng gió
geostrophic). Gió bề mặt là nguồn năng lượng chính yếu cho điện gió.
Gió địa phương (gió biển, gió bờ ...): gió bề mặt phụ thuộc mật thiết vào
điều kiện khí hậu tại điện phương. Gió địa phương hầu hết được sử dụng tại các hệ
thống điện gió, đặc biệt là gió biển (sea breeze) và gió bờ (land breeze).
+







c. Biểu đồ phân bố gió ở Việt Nam ở độ cao 80m
Theo các kết quả đánh giá tiềm năng gió của Ngân hàng Thế giới (2001) thông
qua một nghiên cứu được thực hiện cho bốn quốc gia trong khu vực Đông Nam Á,
Việt nam được xác định là quốc gia có tiềm năng gió lớn nhất so với các nước láng
giềng trong khu vực như Lào, Campuchia và Thái Lan. Tiềm năng năng lượng gió
của Việt Nam được ước tính vào khoảng 513.360 MW, cao hơn gấp sáu lần so với
tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Trong đó, những khu vực
hứa hẹn nhất cho phát triển điện gió chủ yếu nằm ở các vùng ven biển và cao
nguyên miền nam trung bộ và miền nam của Việt nam. Cũng theo nghiên cứu của
Ngân hàng Thế giới, ước lượng khoảng 8,6% tổng diện tích lãnh thổ Việt nam có
tiềm năng gió với mức từ “cao” đến “rất cao”, phù hợp cho việc triển khai tuabin
gió cỡ lớn (với tốc độ gió trên 7,0 m/s).


Trên cơ sở số liệu của bản đồ tiềm năng gió của WB, Tập đoàn Điện lực Việt
nam (EVN) đã tiếp tục đầu tư khảo sát nghiên cứu đánh giá tiềm năng điện gió,
đã đạt được một số dữ liệu làm cơ sở xác định những khu vực thích hợp cho đầu
tư phát triển điện gió trong tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy những vùng
có thể tạo ra nguồn năng lượng điện gió với hiệu quả cao gồm: Trung trung bộ
(Quảng Bình đến Khánh Hòa), Nam Trung bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận) và các
tỉnh Nam Bộ (Bạc Liêu, Sóc Trăng..) trong đó hai tỉnh Ninh Thuận và Bình


6

Thuận đươc xem là có tiềm năng lớn nhất, là khu vực đầu tư cho điện gió khả
thi nhất.
Theo số liệu bản đồ năng lượng gió được lập, với tốc độ gió từ 6-7m/s ở độ cao
từ 60-80 m khu vực hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận có thể xây dựng lắp đặt
nhiều trang trại gió (Wind farm) với tổng công suất lên đến 9.500 MW (gấp gần
4 lần Nhà máy Thủy điện Sơn La).


7

Tuy nhiên, các kết quả mô phỏng của Ngân hàng Thế giới lai được đánh giá là khá
khác biệt so với các kết quả tính toán dựa trên số liệu quan trắc của Tập đoàn Điện
lực Việt Nam (EVN), (xem trong bảng 1). Lý do của sự khác nhau này có thể là do
sai số trong mô phỏng tính toán.


8


Bảng 1: So sánh các kết quả giữa EVN và Ngân hàng Thế giới
Vận tốc gió trung bình ở độ cao
STT Địa điểm
65 m trên mặt đất (m/s)
EVN
WB
Móng Cái, Quảng
1.1 Ninh
5,80
7,35
1.2 Van Lý, Nam Định
6,88
6,39
1.3 Sầm Sơn, Thanh Hóa 5,82
6,61
1.4 Kỳ Anh, Hà Tĩnh
6,48
7,02
Quảng Ninh, Quảng
2.1 Bình
6,73
7,03
2.2 Gio Linh, Quảng Trị 6,53
6,52
Phương Mai, Bình
2.3 Định
7,30
6,56
2.4 Tu Bong, Khánh Hòa 5,14
6,81

Phước Minh, Ninh
3.1 Thuận
7,22
8,03
3.2 Đà Lạt, Lâm Đồng
6,88
7,57
Tuy Phong, Bình
3.3 Thuận
6,89
7,79
3.4 Duyên Hải, Trà Vinh 6,47
7,24

2.Năng lượng gió của Việt Nam, tiềm năng và triển vọng
a.Tình hình cung - cầu điện năng ở Việt Nam
Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với bờ biển dài, Việt Nam có một thuận
lợi cơ bản để phát triển năng lượng gió. So sánh tốc độ gió trung bình trong vùng
Biển Đông Việt Nam và các vùng biển lân cận cho thấy gió tại Biển Đông khá
mạnh và thay đổi nhiều theo mùa.
chương trình đánh giá về Năng lượng cho Châu Á, Ngân hàng Thế giới (NHTG)
đã có một khảo sát chi tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam Á, trong đó có
Việt Nam. Như vậy Ngân hàng Thế giới đã làm hộ Việt Nam một việc quan trọng,
trong khi Việt Nam còn chưa có nghiên cứu nào đáng kể. Theo tính toán của
nghiên cứu này, trong bốn nước được khảo sát thì Việt Nam có tiềm năng gió lớn
nhất và hơn hẳn các quốc gia lân cận là Thái Lan, Lào và Campuchia. Trong khi


9


Việt Nam có tới 8,6% diện tích lãnh thổ được đánh giá có tiềm năng từ “tốt“ đến
“rất tốt“ để xây dựng các trạm điện gió cỡ lớn thì diện tích này ở Campuchia là
0,2%, ở Lào là 2,9%, và ở Thái-lan cũng chỉ là 0,2%. Tổng tiềm năng điện gió của
Việt Nam ước đạt 513.360 MW tức là bằng hơn 200 lần công suất của thủy điện
Sơn La, và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Tất
nhiên, để chuyển từ tiềm năng lý thuyết thành tiềm năng có thể khai thác, đến tiềm
năng kỹ thuật, và cuối cùng, thành tiềm năng kinh tế là cả một câu chuyện dài;
nhưng điều đó không ngăn cản việc chúng ta xem xét một cách thấu đáo tiềm năng
to lớn về năng lượng gió ở Việt Nam.
Nếu xét tiêu chuẩn để xây dựng các trạm điện gió cỡ nhỏ phục vụ cho phát triển
kinh tế ở những khu vực khó khăn thì Việt Nam có đến 41% diện tích nông thôn có
thể phát triển điện gió loại nhỏ. Nếu so sánh con số này với các nước láng giềng thì
Campuchia có 6%, Lào có 13% và Thái Lan là 9% diện tích nông thôn có thể phát
triển năng lượng gió. Đây quả thật là một ưu đãi dành cho Việt Nam mà chúng ta
còn thờ ơ chưa nghĩ đến cách tận dụng.
b.Giá thành của điện gió, liệu có đắt như định kiến?
Cho đến tận những năm 1990, nhiều người vẫn cho rằng giá thành (bao gồm giá
lắp đặt và vận hành) của các trạm điện gió khá cao. Nhưng ngày nay, định kiến này
đang được nhìn nhận và đánh giá lại, đặc biệt khi quan niệm giá thành không chỉ
bao gồm chi phí kinh tế mà còn gồm cả những chi phí ngoài (external cost – như
chi phí về xã hội do phải tái định cư, hay về môi trường do ô nhiễm).
Thử lấy một ví dụ cụ thể để so sánh giá thành của điện gió và thủy điện. Nhà máy
thủy điện Sơn La với 6 tổ máy, tổng công suất thiết kế là 2400 MW, được dự kiến
xây dựng trong 7 năm với tổng mức đầu tư là 2,4 tỷ USD. Giá thành khi phát điện
(chưa tính đến chi phí môi trường) là 70 USD/MWh. Như vậy để có được 1 KW
công suất cần đầu tư 1.000 USD trong 7 năm. Trong khi đó theo thời giá năm 2003
đầu tư cho 1 KW điện gió ở nhiều nước Châu Âu cũng vào khoảng 1.000 USD.
Đáng lưu ý là giá thành này giảm đều hàng năm do cải tiến công nghệ. Nếu thời
gian sử dụng trung bình của mỗi trạm điện gió là 20 năm thì chi phí khấu hao cho
một KWh điện gió là sẽ 14 USD. Cộng thêm chi phí thường xuyên thì tổng chi phí

quản lý và vận hành sẽ nằm trong khoảng 48 – 60 USD/MWh - tương đương với
thủy điện, vốn được coi là nguồn năng lượng rẻ và hiệu quả. Theo dự đoán, đến
năm 2020 giá thành điện gió sẽ giảm đáng kể, chỉ khoảng 600 USD/KW, khi ấy chi
phí quản lý và vận hành sẽ giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 30 USD/MWh.
Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoài – là những chi phí phát sinh bên cạnh những
chi phí sản xuất truyền thống, thì lợi ích của việc sử dụng năng lượng gió càng trở
nên rõ rệt. So với các nguồn năng lượng gây ô nhiễm (ví dụ như ở nhà máy nhiệt
điện Ninh Bình) hay phải di dời quy mô lớn (các nhà máy thủy điện lớn), khi sử
dụng năng lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại do thất thu hoa màu hay
tái định cư, và họ cũng không phải chịu thêm chi phí y tế và chăm sóc sức khỏe do


10

ô nhiễm.
Ngoài ra với đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, năng lượng gió giúp tiết
kiệm chi phí truyền tải. Hơn nữa, việc phát triển năng lượng gió ở cần một lực
lượng lao động là các kỹ sư kỹ thuật vận hành và giám sát lớn hơn các loại hình
khác, vì vậy giúp tạo thêm nhiều việc làm với kỹ năng cao.
Tại các nước Châu Âu, các nhà máy điện gió không cần đầu tư vào đất đai để xây
dựng các trạmtourbin mà thuê ngay đất của nông dân.
Giá thuê đất (khoảng 20% giá thành vận hành thường xuyên) giúp mang lại một
nguồn thu nhập ổn định cho nông dân, trong khi diện tích canh tác bị ảnh hưởng
không nhiều.

3. Hiện trạng khai thác, quản lý, sử dụng
a. Năng lượng gió tại Việt Nam
Một nghiên cứu thực hiện của tổ chức năng lượng Greenpeace EG và Hiệp hội năng lượng gió
của Đức BWE, phối hợp cùng với các nhà nghiên cứu từ Quỹ Xanh Đức (Green Budget
Germany, GBG) thực hiện công bố vào 8/2012, cho rằng cần phải tính phí môi trường và bảo

vệ sức khỏe cộng đồng vào giá thành điện sản xuất. Theo nghiên cứu có xét đến các chi phí
phụ (hỗ trợ từ ngân sách, tác động tới môi trường và nguy cơ hạt nhân) thì giá thủy điện 7,6
cent một KWh, giá điện gió là 8,1 cent một KWh, điện khí 9 cent một KWh, nhiệt điện từ than
bùn và than đá (15,6 và 14,8 cent một KWh) và điện hạt nhân 16,4 cent một KWh (nếu tính các
chi phí khác, giá điện hạt nhân 42,2 cent một KWh ). Từ đó có thể thấy điện gió nguồn điện
“xanh” rẻ trên thế giới hiện nay.
Sự chênh lệch giữa giá điện gió và các năng lương tuyền thống (thủy điện, điện gió) không lớn
đối với nước phát triển. Nhưng đối với các nước đang phát triển, phụ thuộc công nghệ như Việt
Nam, việc đầu tư phát triển điện gió khá khó khăn do chi phí hạ tầng cơ sở, lưới điện; chưa làm
chủ được công nghệ, phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Do đó, giá điện gió khi bán ra tương đối
cao (ví dụ như điện gió Bạc Liêu đề nghị giá bán 12 UScents một kWh cho EVN trong 4 năm
đầu). Ở đây chưa xét tới chi phí môi trường, tài nguyên. Trong khi giá điện EVN mua từ công ty
tư nhân 700 đồng một KWh (3,33 cent một KWh).
Đa phần trang thiết bị kích thước lớn dẫn đến khó khăn trong việc vận chuyển. Nhiều nơi có
tiềm năng điện gió rất cao nhưng khó vận chuyển được do đường xá khó chịu được trong tải
lớn, thiếu nguồn đầu tư. Ngoài ra, thông tin chưa đầy đủ về tiềm năng gió từng vùng miền tại
Việt Nam. Các nhà đầu tư chưa mạnh dạn đầu tư, sợ lỗ do thiếu cơ chế, chính sách hợp lý giá
mua của Nhà nước.
Việc phát triển điện gió làm giảm thiểu lượng CO2, gây hiệu ứng nhà kính, góp phần bảo vệ
môi trường, đảm bảo nước ta phát triển nền công nghiệp xanh và bền vững.

b. Năng lượng gió tại Việt Nam

Việt Nam có một vị trí địa lý tương đối thuận lợi để khai triển điện gió, trong đó
phải nhắc đến vai trò quan trọng của hệ thống gió mùa trong khu vực. Theo Tài
liệu "Bản đồ Năng Lượng Gió Khu Vực Đông Nam Á" công bố vào năm 2001,
Việt Nam có một tiềm năng vô cùng lớn cho việc khai triển điện gió thương mại.
Trong các nghiên cứu gần đây, tiềm năng điện gió qui mô lớn được đánh giá có
công suất lý thuyết lên đến 120-160 GW, với phần lớn các tiềm năng khai thác nằm
dọc ở khu vực bờ biển Đông-Đông Nam. Bảng 6.1 tóm tắt công suất tiềm năng của

các vận tốc gió khác nhau ở một số địa bàn trong cả nước, trong đó cho thấy hầu


11

hết tiềm năng công suất của năng lượng gió ở Việt Nam tập trung ở vận tốc gió
trong khoảng 7-8 m/s (thích hợp cho việc khai triển turbin công suất lớn).
Bảng 1. Tóm tắt tiềm năng gió ở Việt Nam, dựa theo bản đồ gió khu vực ở độ
cao trung bình 65 m trên mặt đất (Nguồn: Bản đồ Năng Lượng Gió Khu Vực
Đông Nam Á).
Gió tốt
(7-8 m/s)
Khu vực

ĐBSCL, Nam Trung Bộ
(Bảo Lộc), Tây Nguyên
(Pleiku, Buôn Ma Thuột),
Huế, khu vực biên giới
Việt-Lào, Hải Phòng
Diện tích khai 25679
thác (km2)
Công suất
102716
tiềm năng
(MW)

Gió rất tốt
(8-9 m/s)

Gió cực tốt

(> 9 m/s)

Đảo Côn Sơn, Qui Phan Rang, dãy
Nhơn, Tuy Hòa, Trường Sơn
biên giới ViệtTrung, dãy Trường
Sơn, Vinh
2187
113
8748

452

Tiềm năng to lớn về năng lượng gió dọc bờ biển Trung-Nam Bộ là từ cơ chế gió
mùa trong khu vực. Các dãy núi cao ở Trung và Nam Bộ nằm ở một vị trí đặc biệt
thuận lợi do chúng hình thành một hàng rào cản gió gần như thẳng góc với hướng
gió mùa Đông Bắc trong khoảng tháng 10 đến tháng 5, và từ Tây Nam trong
khoảng tháng 6 đến tháng 9 mỗi năm.
Từ tháng 12 đến tháng 2 mỗi năm, hướng gió chính chủ yếu thổi từ Đông Bắc, tuy
nhiên gió mạnh lại thổi ở khu vực đồng bằng mạn Tây dải Trường Sơn. Nguyên do
là khối khí nhiệt độ cao và ẩm thổi từ đại dương bị giảm nhiệt đột ngột khi nó thổi
lên cao ở sườn núi và đồng thời độ ẩm cũng hạ đáng kể, từ đó khối khí này trở nên
nặng hơn và thổi mạnh xuống khu vực đồng bằng theo suờn Tây của dãy Trường
Sơn. Gió mùa Đông Bắc cũng thổi mạnh về phía bờ biển Nam Bộ do gió đông bắc
tạo một vùng áp thấp ở phía Nam và Tây cuối dãy Trường Sơn, do đó tăng cường
thu hút gió biển và kéo gió ngoài khơi thổi vòng qua bán đảo. Mặt khác, khu vực
gió lớn ở khoảng 14 độ vĩ Bắc là kết quả của gió thổi hướng Đông Bắc xuyên qua
các khoảng trống lớn dọc theo các dãy núi.


12


Vào tháng 6 – tháng 8 mỗi năm, gió Tây Nam thổi rất mạnh ở sườn Đông dãy
Trường Sơn, ngược lại với hướng thởi của gió mùa Tây Bắc như đề cập ở trên. Mặt
khác, dọc bờ biển Việt Nam, cũng có thể khu áp thấp tạo bởi mạn khuất gió làm
tăng cường gió biển hình thành do sự hấp thụ nhiệt mạnh mẽ của mặt đất trong đất
liền trong thời gian mùa hè.
Gió mùa khu vực Đông Nam Á được xem là dạng gió biển và gió bờ ở qui mô lớn,
thay đổi hướng thổi theo mùa, do bề mặt đất liền được hun nóng và bốc nhiệt
nhanh hơn trên bề mặt đại dương. Gió tăng tốc một phần là do sự dồn nén của
luồng gió thổi khi chạm sườn núi. Ngoài ra gió còn có thể tăng tốc (enhanced) ở
một số khu vực bởi sóng khí dọc sườn núi “mountain waves” (sự di chuyển của
khối không khí nhiệt ổn định (thermally stable) một khi chúng bị hút lên trên cao
dọc theo sườn núi) , và bởi các khối khí di chuyển xuống sườn núi do chênh lệch
nhiệt độ. Gió mùa đông bắc không chỉ thổi dọc lên các suờn núi mà còn thổi về
hướng các bán đảo phía nam khu vực Đông Nam Á khi nó kết hợp với gió ngoài
khơi và tăng tốc. Do đó khu vực bờ biển Nam và Đông Nam nước ta có một nguồn
gió khá dồi dào.
b. Dự án điện gió Bình Thuận
Với điều kiện địa lý thuận lợi của một địa phương có bờ biển dài, lượng gió nhiều
và phân bổ khá đều quanh năm, tính đến cuối tháng 1 năm 2012 trên địa bàn tỉnh
Bình Thuận đã xây dựng 16 dự án điện gió với tổng công suất dự tính khoảng
1.300 MW. Trong đó có 5 dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư, 9 dự án đã
hoàn thành báo cáo đầu tư trình xin cấp giấy chứng nhận, 2 dự án đang trong giai
đoạn khảo sát lập hồ sơ dự án đầu tư.
Trong số 16 dự án nói trên, Dự án Nhà máy điện gió Tuy Phong, đặt tại xã Bình
Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận do Công ty cổ phần Năng lượng tái tạo
Việt Nam (REVN) đầu tư được triển khai đầu tiên.
Toàn bộ dự án, khi hoàn thành, sẽ có 80 tuabin với tổng công suất 120 MW, sử
dụng công nghệ hiện đại của Cộng hòa liên bang Đức.
Giai đoạn 1 của dự án gồm 20 trụ điện gió (tuabin) chiều cao cột 85 m, đường kính

cánh quạt 77 m, công suất 1,5 MW/tuabin; tức tổng công suất của giai đoạn này là
30 MW. Và mỗi năm dự tính sản xuất khoảng gần 100 triệu kWh điện. Đến cuối
quý 1 năm nay, giai đoạn 1 đã hoàn thành cơ bản; bao gồm các khâu lắp đặt, đưa
vào vận hành và đấu nối với lưới điện quốc gia. Và Nhà máy điện gió Tuy Phong 1
đã chính thức được khánh thành, đi vào hoạt động từ ngày 18/4/2012. Đây cũng là
nhà máy điện gió đầu tiên của cả nước chính thức đi vào hoạt động.
Theo kế hoạch, giai đoạn 2 của dự án chuẩn bị khởi công xây dựng và lắp đặt 60
trụ điện gió (hay tuabin), nâng tổng công suất của toàn bộ Nhà máy Phong điện
Tuy Phong lên 120 MW.


13

Ở tỉnh Bình Thuận, sau Dự án Tuy Phong đã hòa mạng lưới điện quốc gia giai
đoạn 1 và chuẩn bị thi công giai đoạn 2, dự án điện gió ở đảo Phú Quý với 3
tuabin, tổng công suất 6 MW đã lắp đặt xong và thử vận hành an toàn, bình
thường. Nguồn điện gió Phú Quý, khi chính thức hòa vào dòng điện của nhà máy
điện Diesel hiện có tại đảo, thì đảo Phú Quý sẽ có điện 24/24 giờ.
Ngoài ra, cũng ở Bình Thuận, một dự án điện gió tại xã Hòa Thắng, huyện Bắc
Bình cũng trong giai đoạn thi công và một số dự án khác đang chuẩn bị triển khai.
Với các dự án nói trên, rõ ràng, tỉnh Bình Thuận đang đi đầu trên con đường phát
triển điện gió ở Việt Nam.
c.Dự án điện gió Bạc Liêu
Dự án điện gió trên biển đầu tiên nước ta ở tỉnh Bạc Liêu đã hoàn thành giai đoạn
1 với tuabin thứ 10 lắp đặt thành công vào chiều ngày 2/10/2012.
Toàn bộ Nhà máy điện gió Bạc Liêu được đặt dọc theo đê biển Đông, kéo dài từ
phường Nhà Mát đến ranh giới tỉnh Sóc Trăng và chiểm tổng diện tích gần 500 ha.
Ở đây, các tuabin gió được sản xuất tại Mỹ, làm bằng thép đặc biệt không gỉ, cao
80m, đường kính 4m, mỗi tuabin có 3 cánh quạt, mỗi cánh dài 42 m, làm bằng
nhựa đặc biệt, có hệ thống điều khiển giúp cánh quạt tự gập lại khi gặp thời tiết

xấu, bão lớn.
Dự án có vốn đầu tư khoảng 5.200 tỷ đồng do Công ty TNHH Xây dựng - Thương
mại và Du lịch Công Lý (Cà Mau) làm chủ đầu tư. Dự án được khởi công năm
2010 và dự kiến hoàn thành vào năm 2013.
Trong giai đoạn 1 đã hoàn thành lắp đặt 10 cột (hay tuabin), công suất tổng cộng
của giai đoạn này là 16 MW và điện năng sản xuất dự tính khoảng 56 triệu
kWh/năm.
Giai đoạn 2 của dự án sẽ xây lắp tiếp 52 tuabin gió còn lại. Sau khi hoàn thành,
Nhà máy điện gió Bạc Liêu sẽ có tổng số 62 tuabin với tổng công suất trên 99 MW
và điện năng sản xuất ra khoảng 320 triệu kWh/năm.
Nhà máy điện gió Bạc Liêu là một điển hình về việc thu hút doanh nghiệp tư nhân
đầu tư vào ngành điện nói chung và đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo nói
riêng.
Từ kinh nghiệm này, mới đây UBND tỉnh Trà Vinh, Tập đoàn EAB (Đức) và Công
ty CP Thương mại Sản xuất và Dịch vụ tổng hợp Trasesco đã phối hợp thực hiện
dự án đầu tư năng lượng gió tại Duyên Hải – Trà Vinh với 20 tổ máy, tổng công
suất 30 MW, sản xuất bình quân 75 triệu kWh/năm. Một số địa phương khác ở
Nam Bộ cũng đang xây dựng dự án điện gió cho địa phương mình.
Như vậy, Bạc Liêu, với dự án điện gió ven biểu đầu tiên hoàn thành giai đoạn 1,
trở thành tỉnh tiên phong ở Nam bộ hay vùng đồng bằng sông Cửu Long trên con
đường phát triển loại điện năng tái tạo mới này.


14

4.Định hướng sử dụng trong thời gian tới
a. đề xuất một số khu vực xây dựng điện gió cho Việt Nam
Ở Việt Nam, các khu vực có thể phát triển năng lượng gió không trải đều trên toàn
bộ lãnh thổ. Với ảnh hưởng của gió mùa thì chế độ gió cũng khác nhau. Nếu ở phía
bắc đèo Hải Vân thì mùa gió mạnh chủ yếu trùng với mùa gió đông bắc, trong đó

các khu vực giàu tiềm năng nhất là Quảng Ninh, Quảng Bình, và Quảng Trị. Ở phần
phía nam đèo Hải Vân, mùa gió mạnh trùng với mùa gió tây nam, và các vùng tiềm
năng nhất thuộc cao nguyên Tây Nguyên, các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu
Long, và đặc biệt là khu vực ven biển của hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận.
Theo nghiên cứu của NHTG, trên lãnh thổ Việt Nam, hai vùng giàu tiềm năng nhất
để phát triển năng lượng gió là Sơn Hải (Ninh Thuận) và vùng đồi cát ở độ cao 60100m phía tây Hàm Tiến đến Mũi Né (Bình Thuận). Gió vùng này không những có
vận tốc trung bình lớn, còn có một thuận lợi là số lượng các cơn bão khu vực ít và
gió có xu thế ổn định là những điều kiện rất thuận lợi để phát triển năng lượng gió.
Trong những tháng có gió mùa, tỷ lệ gió nam và đông nam lên đến 98% với vận tốc
trung bình 6-7 m/s tức là vận tốc có thể xây dựng các trạm điện gió công suất 3 3,5 MW. Thực tế là người dân khu vực Ninh Thuận cũng đã tự chế tạo một số máy
phát điện gió cỡ nhỏ nhằm mục đích thắp sáng. Ở cả hai khu vực này dân cư thưa
thớt, thời tiết khô nóng, khắc nghiệt, và là những vùng dân tộc đặc biệt khó khăn
của Việt Nam.
Mặc dù có nhiều thuận lợi như đã nêu trên, nhưng khi nói đến năng lượng gió,
chúng ta cần phải lưu ý một số đặc điểm riêng để có thể phát triển nó một cách có
hiệu quả nhất. Nhược điểm lớn nhất của năng lượng gió là sự phụ thuộc vào điều
kiện thời tiết và chế độ gió. Vì vậy khi thiết kế, cần nghiên cứu hết sức nghiêm túc
chế độ gió, địa hình cũng như loại gió không có các dòng rối vốn ảnh hưởng không
tốt đến máy phát. Cũng vì lý do phụ thuộc trên, năng lượng gió tuy ngày càng hữu
dụng nhưng không thể là loại năng lượng chủ lực. Tuy nhiên, khả năng kết hợp giữa
điện gió và thủy điện tích năng lại mở ra cơ hội cho chúng ta phát triển năng lượng
ở các khu vực như Tây Nguyên vốn có lợi thế ở cả hai loại hình này. Một điểm cần
lưu ý nữa là các trạm điện gió sẽ gây ô nhiễm tiếng ồn trong khi vận hành cũng như
phá vỡ cảnh quan tự nhiên và có thể ảnh hưởng đến tín hiệu của các sóng vô tuyến.
Do đó, khi xây dựng các khu điện gió cần tính toán khoảng cách hợp lý đến các khu
dân cư, khu du lịch để không gây những tác động tiêu cực.
Nhằm đáp ứng mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng, trong trung hạn Việt Nam cần
tiếp tục khai thác các nguồn năng lượng truyền thống. Về dài hạn, Việt Nam cần
xây dựng chiến lược và lộ trình phát triển các nguồn năng lượng mới. Trong chiến
lược này, chi phí kinh tế (bao gồm cả chi chí trong và chi chí ngoài về môi trường,

xã hội) cần phải được phân tích một cách kỹ lưỡng, có tính đến những phát triển
mới về mặt công nghệ, cũng như trữ lượng và biến động giá của các nguồn năng


15

lượng thay thế. Trong các nguồn năng lượng mới này, năng lượng gió nổi lên như
một lựa chọn xứng đáng, và vì vậy cần được đánh giá một cách đầy đủ. Việt Nam
có nhiều thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Việc không đầu tư nghiên cứu và
phát triển điện gió sẽ là một sự lãng phí rất lớn trong khi nguy cơ thiếu điện luôn
thường trực, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc
gia. Trong khi đó, hiện nay chiến lược quốc gia về điện dường như mới chỉ quan
tâm tới thủy điện lớn và điện hạt nhân - những nguồn năng lượng có mức đầu tư
ban đầu rất lớn và ẩn chứa nhiều rủi ro về cả mặt môi trường và xã hội.
b.Một số lựa chọn chính sách của Việt Nam
đứng trước thách thức thiếu hụt điện (không nằm ngoài xu thế chung của toàn cầu),
chúng ta cần cân nhắc những biện pháp ứng xử thích hợp. Trong ngắn hạn, việc tiết
kiệm điện trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt đóng vai trò hết sức quan
trọng. Bên cạnh đó, cũng có thể xem xét phương án tăng giá điện như đề xuất hiện
nay của Bộ Công nghiệp. Việc tăng giá điện một mặt có tác dụng điều chỉnh mức
cầu về điện năng, mặt khác giúp tăng tích lũy để mở rộng đầu tư cho ngành điện.
Tuy nhiên, vì việc tăng giá điện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của quảng đại
nhân dân và của hoạt động sản xuất kinh doanh nên giải pháp tăng giá điện cần
được cân nhắc một cách thận trọng. Phương án tăng giá điện phải tính đến tính
công bằng giữa các nhóm dân cư có mức thu nhập khác nhau, trong đó cần hạn chế
đến mức độ tối đa tác động tiêu cực đối với các nhóm dân cư có thu nhập thấp. Bên
cạnh đó, cũng phải lưu ý rằng điện là một yếu tố đầu vào thiết yếu của hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, việc tăng giá điện sẽ có thể ảnh hưởng tới mức lạm
phát vốn đã xấp xỉ ngưỡng 2 con số. Không những thế, nếu nhìn sang các nước
xung quanh thì thấy ngay với mức giá hiện tại, giá điện của Việt Nam đã cao hơn

một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, và Malaysia.
Như vậy, việc tăng thêm giá điện 10-15% trong năm nay và những năm kế tiếp sẽ
ảnh hưởng tiêu cực tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế vốn đã bị giảm liên tục
trong mấy năm trở lại đây.
Trong trung hạn và dài hạn, Việt Nam cần có chiến lược đảm bảo an ninh năng
lượng bằng cách một mặt mở rộng khai thác những nguồn năng lượng truyền
thống; mặt khác, thậm chí còn quan trọng hơn phát triển các nguồn năng lượng
mới, đặc biệt là các nguồn năng lượng sạch và có khả năng tái tạo. Khả năng này
phụ thuộc rất nhiều vào những phát triển của công nghệ trong tương lai cũng như
vào mức giá tương đối của các nguồn năng lượng khác nhau. Cho đến thời điểm
này, chúng ta mới chú trọng đến phương án thứ nhất, tức là tiếp tục khai thác các
nguồn năng lượng truyền thống, chủ yếu là thủy điện. Về kế hoạch phát triển
nguồn năng lượng mới, ngày 3/1/2006 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
''Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình tới năm 2020''.
Theo dự báo của Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia thì vào năm 2020, nếu theo


16

đúng tiến độ thì công suất điện hạt nhân sẽ đạt mức 2000 MW, bằng 7% tổng công
suất. Cũng theo dự báo này, khi ấy nhiệt điện khí sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất (38%),
sau đó là đến thủy điện (29%), nhiệt điện than (17%) và nhập khẩu (9%)
Một điều đáng lưu ý là trong hàng loạt giải pháp phát triển nguồn điện để đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế (như nhập khẩu điện, phát triển thủy điện, hay điện hạt
nhân), dường như Việt Nam còn bỏ quên điện gió, một nguồn điện mà trong mấy
năm trở lại đây có tốc độ phát triển cao nhất trên thị trường điện thế giới, hơn nữa
giá thành ngày càng rẻ và rất thân thiện với môi trường.
c. học tập các nước trên thế giới
Phát triển năng lượng gió được tài trợ tại nhiều nước không phụ thuộc vào đường
lối chính trị, ví dụ như thông qua việc hoàn trả thuế (PTC tại Hoa Kỳ), các mô hình

hạn ngạch hay đấu thầu (Ví dụ như tại Anh, Ý) hay thông qua các hệ thống giá tối
thiểu (Ví dụ như Đức, Tây Ban Nha, Áo, Pháp, Bồ Đào Nha, Hy lạp). Hệ thống giá
tối thiểu ngày càng phổ biến và đã đạt được một giá điện bình quân thấp hơn trước,
khi công suất các nhà máy lắp đặt cao hơn.
Trên nhiều thị trường điện, năng lượng gió phải cạnh tranh với các nhà máy điện
mà một phần đáng kể đã được khấu hao toàn bộ từ lâu, bên cạnh đó công nghệ này
còn tương đối mới. Vì thế mà tại Đức có đền bù giá giảm dần theo thời gian từ
những nhà cung cấp năng lượng thông thường dưới hình thức Luật năng lượng tái
sinh, tạo điều kiện cho ngành công nghiệp trẻ này phát triển. Bộ luật này quy định
giá tối thiểu mà các doanh nghiệp vận hành lưới điện phải trả cho các nhà máy sản
xuất điện từ năng lượng tái sinh. Mức giá được ấn định giảm dần theo thời gian.
Ngược với việc trợ giá (Ví dụ như cho than đá Đức) việc khuyến khích này không
xuất phát từ tiền thuế, các doanh nghiệp vận hành lưới điện có trách nhiệm phải
mua với một giá cao hơn.
Bên cạnh việc phá hoại phong cảnh tự nhiên những người chống năng lượng gió
cũng đưa ra thêm các lý do khác như thiếu khả năng trữ năng lượng và chi phí cao
hơn trong việc mở rộng mạng lưới tải điện cũng như cho năng lượng điều chỉnh.
d.Một viễn cảnh tươi sáng của điện gió
Tổ chức Năng lượng gió Châu Âu đang tiến hành một chiến lược phát triển rầm rộ
nhất cho năng lượng gió với mục tiêu đưa năng lượng gió vào nhóm những nguồn
năng lượng quan trọng nhất. Theo kế hoạch của tổ chức này, mục tiêu đến năm
2020, sản lượng điện gió sẽ đạt 94,8 GW, chiếm 12,1% tổng sản lượng điện năng
của thế giới. Theo kế hoạch này đến năm 2020, tổng công suất của Châu Âu sẽ là
180 GW trong đó có 70 GW được xây dựng ngoài thềm lục địa gấp 72 lần công
suất năm 1995, đủ cung cấp cho 195 triệu dân. Các kế hoạch phát triển các trạm
điện gió ngoài thềm lục địa cũng đang được tiến hành để lợi dụng gió biển và ước
tính sẽ chiếm trên 40% sản lượng điện gió tương lai của Châu Âu . Cũng theo dự
đoán này thì năng lượng gió sẽ tăng dần và vượt qua nhiều nguồn năng lượng



17

truyền thống nhưng tiềm ẩn rủi ro cao như điện hạt nhân và thủy điện lớn, và vào
năm 2030 năng lượng gió sẽ trở thành nguồn năng lượng chiếm tỷ trọng lớn thứ
hai, chỉ đứng sau nhiệt điện .
Hội đồng Năng lượng Gió Thế giới cũng đưa ra những dự báo hết sức khả quan
cho triển vọng phát triển năng lượng điện gió. Theo Hội đồng này, đến năm 2020
sản lượng điện gió sẽ chiếm tới 12% trong tổng sản lượng điện năng của thế giới.
Để đạt được mục tiêu này, thế giới sẽ đầu tư khoảng 100 tỷ USD mỗi năm vào điện
gió, đồng thời tạo ra 2,3 triệu việc làm và giảm được một lượng đáng kể khí CO2
gây hiệu ứng nhà kính. Một thị trường về năng lượng gió sẽ phát triển mạnh mẽ
đưa giá thành lắp đặt cũng như vận hành điện gió xuống mức rẻ nhất, với chi phí
lắp đặt khoảng 600 USD trên một đơn vị kW công suất và giá điện thương phẩm sẽ
dưới 3 USD/kWh.i
Các nghiên cứu về năng lượng gió cũng như những thảo luận hiện nay đã tạo nên
một không khí sôi nổi tại các hội nghị khoa học và trong dư luận xã hội. Năng
lượng gió ngày càng được quan tâm hơn, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển bền
vững về mặt năng lượng, đồng thời bảo đảm an ninh và sự tự chủ về năng lượng
cho các quốc gia. Hơn nữa, điện gió còn tạo nên được một thị trường mới với các
sản phẩm có giá trị gia tăng cao và giúp tạo thêm nhiều việc làm mới cho xã hội.
Các dự báo về tốc độ phát triển của năng lượng gió thường xuyên phải điều chính
để phản ánh chính xác hơn tốc độ tăng trưởng vượt bậc của ngành công nghiệp
điện gió. Chúng ta chắc chắn sẽ thấy được đóng góp tích cực của ngành công
nghiệp điện gió một cách toàn diện vào đời sống kinh tế - chính trị thế giới trong
một tương lai không xa.
Đức và sau đó là Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Đan Mạch và Ấn Độ là những quốc gia
sử dụng năng lượng gió nhiều nhất trên thế giới.
Trong số 20 thị trường lớn nhất trên thế giới, chỉ riêng châu Âu đã có 13 nước với
Đức là nước dẫn đầu về công suất của các nhà máy dùng năng lượng gió với
khoảng cách xa so với các nước còn lại. Tại Đức, Đan Mạch và Tây Ban Nha việc

phát triển năng lượng gió liên tục trong nhiều năm qua được nâng đỡ bằng quyết
tâm chính trị. Nhờ vào đó mà một ngành công nghiệp mới đã phát triển tại 3 quốc
gia này. Công nghệ Đức (bên cạnh các phát triển mới từ Đan Mạch và Tây Ban
Nha) đã được sử dụng trên thị trường nhiều hơn trong những năm vừa qua.
Năm 2007 thế giới đã xây mới được khoảng 20073 MW điện, trong đó Mỹ với
5244 MW, Tây Ban Nha 3522MW, Trung Quốc 3449 MW, 1730 MW ở Ấn Độ và
1667 ở Đức, nâng công suất định mức của các nhà máy sản xuất điện từ gió lên
94.112 MW. Công suất này có thể thay đổi dựa trên sức gió qua các năm, các nước,
các vùng.
Số thứ tự

Quốc gia

Công suất (MW)


18

01

Đức

22.247

02

Mỹ

16.818


03

Tây Ban Nha

15.145

04

Ấn Độ

8.000

05

Trung Quốc

6.050

06

Đan Mạch

3.125

07

Ý

2.726


08

Pháp

2.454

09

Anh

2.389

10

Bồ Đào Nha

2.150

11

Ca na đa

1.846

12

Hà Lan

1.746


13

Nhật

1.538

14

Áo

982

15

Hy Lạp

871

16

Úc

824

17

Ai Len

805


18

Thụy Điển

788

19

Na Uy

333

20

Niu Di Lân

322

Những nước khác 2.953
Thế giới

94.112

Nguồn: World Wind Energy Association, thời điểm: Cuối 2007
Tại Áo hiện nay có 424 tuốc bin gió với công suất tổng cộng là 606 MW trong
mạng lưới điện (số liệu vào cuối năm 2004). Công suất này tương ứng với nhu cầu
tiêu thụ điện trung bình của khoảng 350.000 gia đình. Trọng tâm sử dụng năng
lượng gió tại Áo là 2 tiểu bang Niederösterreich và Burgenland. Trang trại gió cao
nhất thế giới được lắp đặt ở độ cao 1.900 m trên mực nước biển tại tiểu
bang Steiermark vào năm 2002. Trang trại gió này bao gồm 11 tuốc bin gió với

công suất tổng cộng là 19,25 MW.
Trong năm 2004, với 25.000 GWh, lần đầu tiên tại Đức sản xuất điện từ năng
lượng gió đã vượt qua được nguồn cung cấp điện từ năng lượng tái sinh khác được
sử dụng nhiều nhất cho đến thời điểm này là thủy điện với 20.900 GWh.


19

e.Những lợi ích về môi trường và xã hội của điện gió
Năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất với môi trường và ít gây ảnh
hưởng xấu về mặt xã hội. Để xây dựng một nhà máy thủy điện lớn cần phải nghiên
cứu kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra với đập nước. Ngoài ra, việc di dân cũng như
việc mất các vùng đất canh tác truyền thống sẽ đặt gánh nặng lên vai những người
dân xung quanh khu vực đặt nhà máy, và đây cũng là bài toán khó đối với các nhà
hoạch định chính sách. Hơn nữa, các khu vực để có thể quy hoạch các đập nước tại
Việt Nam cũng không còn nhiều.
Song hành với các nhà máy điện hạt nhân là nguy cơ gây ảnh hưởng lâu dài đến
cuộc sống của người dân xung quanh nhà máy. Các bài học về rò rỉ hạt nhân cộng
thêm chi phí đầu tư cho công nghệ, kĩ thuật quá lớn khiến càng ngày càng có nhiều
sự ngần ngại khi sử dụng loại năng lượng này.
Các nhà máy điện chạy nhiên liệu hóa thạch thì luôn là những thủ phạm gây ô
nhiễm nặng nề, ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe người dân. Hơn thế
nguồn nhiên liệu này kém ổn định và giá có xu thế ngày một tăng cao.
Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoài – là những chi phí phát sinh bên cạnh những
chi phí sản xuất truyền thống, thì lợi ích của việc sử dụng năng lượng gió càng trở
nên rõ rệt. So với các nguồn năng lượng gây ô nhiễm (ví dụ như ở nhà máy nhiệt
điện Ninh Bình) hay phải di dời quy mô lớn (các nhà máy thủy điện lớn), khi sử
dụng năng lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại do thất thu hoa mầu hay
tái định cư, và họ cũng không phải chịu thêm chi phí y tế và chăm sóc sức khỏe do
ô nhiễm.

Ngoài ra với đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, năng lượng gió giúp tiết
kiệm chi phí truyền tải. Hơn nữa, việc phát triển năng lượng gió ở cần một lực
lượng lao động là các kỹ sư kỹ thuật vận hành và giám sát lớn hơn các loại hình
khác, vì vậy giúp tạo thêm nhiều việc làm với kỹ năng cao.
Tại các nước Châu Âu, các nhà máy điện gió không cần đầu tư vào đất đai để xây
dựng các trạm tourbin mà thuê ngay đất của nông dân. Giá thuê đất (khoảng 20%
giá thành vận hành thường xuyên) giúp mang lại một nguồn thu nhập ổn định cho
nông dân, trong khi diện tích canh tác bị ảnh hưởng không nhiều.
Cuối cùng, năng lượng gió giúp đa dạng hóa các nguồn năng lượng, là một điều
kiện quan trọng để tránh phụ thuộc vào một hay một số ít nguồn năng lượng chủ
yếu; và chính điều này giúp phân tán rủi ro và tăng cường an ninh năng lượng.

lời kết


20

Xu thế chung trên thế giới là sử dụng nhiều hơn năng lượng gió trong tương lai khi
công nghệ đã “chín” và chi phí xây dựng lắp đặt không còn “đắt”. Để giải quyết
phần nào sự thiếu hụt năng lượng do quá trình phát triển kinh tế bên cạnh việc tiếp
tục khai thác các nguồn năng lượng truyền thống Việt Nam nên từng bước khai
thác năng lượng gió. Để đẩy nhanh quá trình khai thác năng lượng tái tạo như năng
lượng gió, sinh khối, mặt trời thì về tầm vĩ mô chúng ta cần giải quyết các vấn đề
cơ bản sau: - Nhà nước đề ra Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng sạch,
trong đó cần có chính sách ưu tiên về các mặt công nghệ, thiết bị, tài chính, vay
vốn, giá mua bán ... cũng như từng bước rỡ bỏ độc quyền và cho phép tư nhân
tham gia kinh doanh điện. - Ngành điện Việt Nam cần có chính sách thoả đáng về
hợp đồng mua bán điện của các nhà máy điện gió với giá từ 4,5–5,0 cents/kWh phù
hợp với giá điện hiện nay của Việt Nam và tạo điều kiện cho các nhà máy điện gió
tham gia hoà mạng quốc gia. Giải quyết được các điều cơ bản trên đây, sẽ làm tăng

nhanh số lượng các nhà máy điện gió ở Việt Nam. Trong tương lai không xa, các
nhà máy điện gió ở Việt Nam hoàn toàn có khả năng góp phần vào việc cân bằng
năng lượng điện của Việt Nam và trước hết góp phần đảm bảo tỉ lệ 10-15% sử
dụng năng lượng sạch trong tổng năng lượng điện của Việt Nam, mà ngành điện
Việt Nam đã nhất trí ký kết trong hội nghị toàn ngành điện của các nước ASEAN
năm 2005. Về dài hạn, Việt Nam cần xây dựng chiến lược và lộ trình phát triển các
nguồn năng lượng mới. Trong chiến lược này, chi phí kinh tế (gồm cả chi chí nội
và ngoại về môi trường, xã hội) cần Hình 6. Lộ trình phát triển thị trường điện của
Việt Nam .
phải được phân tích một cách kỹ lưỡng, có tính đến những phát triển mới về mặt
công nghệ, cũng như trữ lượng và biến động giá của các nguồn năng lượng thay
thế. Trong các nguồn năng lượng mới này, năng lượng gió nổi lên như một lựa
chọn xứng đáng, và vì vậy cần được đánh giá một cách đầy đủ. Việt Nam có nhiều
thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Việc không đầu tư nghiên cứu và phát triển
điện gió là một lãng phí lớn trong khi nguy cơ thiếu điện luôn thường trực, ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong khi
đó, hiện nay chiến lược quốc gia về điện dường như mới chỉ quan tâm tới nhiệt
điện và thủy điện lớn. Liệu Việt Nam có thể „đi tắt, đón đầu“ trong phát triển năng
lượng gió hay không phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách của nhà nước.
Nếu nhìn ra thế giới thì việc phát triển điện gió đang là một xu thế lớn, thể hiện ở
mức tăng trưởng cao nhất so với các nguồn năng lượng khác. Khác với điện hạt
nhân vốn cần một quy trình kỹ thuật và giám sát hết sức nghiêm ngặt, việc xây lắp
điện gió không đòi hỏi quy trình khắt khe đó. Với kinh nghiệm phát triển điện gió
thành công của Ấn Độ, Trung Quốc và Philippin, và với những lợi thế về mặt địa
lý của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể phát triển năng lượng điện gió để đóng
góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Liệu Việt Nam có thể "đi tắt, đón đầu"


21


trong phát triển nguồn năng lượng hay không phụ thuộc rất nhiều vào các quyết
sách ngày hôm nay.

Tài liệu tham khảo
- /> />


×