Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng – Thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng TMCP Phương Đông, Phòng giao dịch đặc thù Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.14 KB, 51 trang )

TÓM LƯỢC
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao
so với khu vực. Với mức độ tăng trưởng như hiện nay, nhu cầu vốn cho nền kinh tế là
hết sức lớn. Thị trường chứng khoán Việt Nam mới được hình thành và chưa thật sự
trở thành kênh cung cấp vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Thực tế cho thấy phần lớn các
doanh nghiệp Việt Nam năng lực tài chính còn yếu kém, hoạt động chủ yếu dựa trên
nguồn vốn vay ngân hàng. Do đó, tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay là một
kênh cung cấp vốn quan trọng của nền kinh tế.
Trong quá trình cho vay, các Ngân hàng thương mại phải có trách nhiệm với
khoản tiền cho vay, đảm bảo thu hồi được cả vốn và lãi nên việc áp dụng các biện
pháp bảo đảm là tất yếu tại các ngân hàng. Đối với hoạt động tín dụng, tài sản bảo đảm
được xem như “phao cứu sinh” nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, đảm bảo ngân
hàng có thể thu hồi một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi khi khách hàng không trả được
nợ.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông đã qua hơn 19 năm hoạt động và
phát triển, cũng đã dần khẳng định được vị thế và uy tín trên thị trường tài chính tiền tệ
Việt Nam với nhiều thành tựu vượt bậc.Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động vẫn có
không ít những vướng mắc và khó khăn. Khi đến thực tập tại phòng giao dịch Đông
Đô, bên cạnh những thành công đã đạt được nhiều năm qua thì việc xử lý tài sản bảo
đảm để thu hồi nợ gặp nhiều vướng mắc và cán bộ tín dụng không khỏi lúng túng
trong quá trình thu hồi, hoàn thiện hợp đồng bảo đảm cũng như xử lý tài sản bảo đảm.
Do đó, việc xây dựng khung pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, rõ ràng và đảm bảo khả
năng “cưỡng chế” thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng rất cần thiết. Bởi vậy, em đã
chọn đề tài: " Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng – Thực tiễn thực
hiện tại Ngân hàng TMCP Phương Đông, Phòng giao dịch đặc thù Đông Đô " để
làm đề tài nghiên cứu của mình.

1

1



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này, tác giả đã nhận được sự hướng
dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của doanh nghiệp và giáo viên hướng dẫn.
Trước hết tác giả xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Ths.Hoàng Thanh Giang đã dành
nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp.
Tác giả chân thành cảm ơn tới ban lãnh đạo và toàn thể nhân viên Phòng giao
dịch đặc thù Đông Đô đã nhiệt tình giúp đỡ để tôi hoàn thành việc nghiên cứu và khảo
sát thực tế tại công ty.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời biết ơn sâu sắc nhất đến gia đình cùng bạn bè đã
luôn động viên và giúp đỡ nhóm tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều để hoàn thiện khóa luận bằng tất cả niềm đam mê và
năng lực của mình, tuy nhiên do hạn chế về thời gian và kiến thức nên đề tài không thể
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự thông cảm và những đóng góp quý
báu của các thầy cô và các bạn sinh viên.
Xin chân thành cảm ơn!

2

2


MỤC LỤC

3

3



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

4

NHTM

Ngân hàng thương mại

TMCP

Thương mại cổ phần

PGD

Phòng giao dịch

TSBĐ

Tài sản bảo đảm

VAMC

Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam

BLDS

Bộ luật dân sự

TCTD


Tổ chức tín dụng

4


LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận
Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất trong các hoạt động của
ngân hàng. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ
các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: Quản lý yếu kém,
cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình
trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Chính vì vậy một trong số các nguyên
tắc cơ bản của hoạt động cho vay, ngoài việc thẩm định đánh giá khách hàng và tính
hiệu quả của dự án đầu tư là cho vay có tài sản bảo đảm. Nguyên tắc có tài sản bảo
đảm trong cho vay không những nâng cao ý thức trách nhiệm sử dụng có hiệu quả vốn
vay, ý thức trả nợ đúng hạn của khách hàng mà còn đề phòng khi khách hàng xảy ra
rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng
Công tác bảo đảm tiền vay bằng tài sản đóng một vai trò rất quan trọng trong
hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng nhưng hiện nay, việc thực hiện vẫn còn một số
khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác này tại các NHTM nói chung
cần phải được thực hiện như một biện pháp tạo đà để đẩy nhanh tiến trình lành mạnh
hoá hoạt động tài chính của các ngân hàng.
Chính vì lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm
trong ngân hàng – Thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng TMCP Phương Đông, Phòng
giao dịch đặc thù Đông Đô” để nghiên cứu.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Trong luận án tiến sĩ kinh tế, với đề tài “Định giá bất động sản thế chấp tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam” (bảo vệ năm 2011), tác giả Ngô Thị Phương Thảo;
Luận văn cao học của tác giả Lưu Thị Hồng Hạnh với đề tài “Thực tiễn cho vay có bảo

đảm bằng tài sản đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân
Đội” (bảo vệ năm 2011); Đề tài :“Bảo đảm tiền vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ tác giả
Lương Minh Trí, bảo vệ tại Đại học Đà nẵng năm 2011. Luận văn thạc sỹ luật học của
tác giả Trương Thị Kim Dung với đề tài “Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng Ngân hàng” (bảo vệ năm 1996). Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trần
Thị Thu Thủy với đề tài “Chế định bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng – Thực
trạng và giải pháp” (bảo vệ năm 1998).
Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu mới dừng lại ở việc đánh giá, tổng kết
thực tiễn chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống các cơ sở lý luận về
bảo đảm tiền vay. Mặt khác, những công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ tập trung
làm rõ vấn đề về cho vay có bảo đảm bằng tài sản đối với khách hàng cá nhân, đa số
5


các đề tài tập trung nghiên cứu về những khía cạnh pháp lý của vấn đề bảo đảm tiền
vay. Tuy nhiên, trong thực tế cho vay có thể có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có
tài sản bảo đảm bằng tài sản; khách hàng vay có thể là khách hàng cá nhân hoặc khách
hàng doanh nghiệp... Một số vấn đề các đề tài trước chưa tập trung nghiên đó là:
Những các tiêu chí đánh giá kết quả hoàn thiện công tác bảo đảm tiền vay, xác định
những nhóm nhân tố ảnh hưởng đến công tác bảo đảm tiền vay…Hơn nữa, hầu hết các
công trình nghiên cứu đã được thực hiện khá lâu, đến nay bối cảnh kinh tế - xã hội đã
có những thay đổi nhất định, nhất là kể từ khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) và trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, tác
động không ít đến khu vực tài chính - ngân hàng của Việt Nam.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Với những kiến thức đã được học tại trường Đại học Thương mại, đồng thời qua
thời gian tham gia thực tập và tìm hiểu tại Phòng giao dịch Đông Đô – Ngân hàng
TMCP Phương Đông, em nhận thấy phòng giao dịch đã đạt được nhiều thành tựu, tuy
nhiên hoạt động xử lý tài sản bảo đảm còn một số hạn chế, cần phải có những giải

pháp hiệu quả hơn. Do đó, dựa trên nền tảng kiến thức đã được học tại trường và tìm
hiểu thực tế, em quyết định lựa chọn đề tài "Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong
ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại PGD Đông Đô" là đề tài khóa luận tốt nghiệp
của mình.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định hiện
hành của pháp luật điều chỉnh việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, mối quan hệ của
các quy định này trong tổng thể hệ thống pháp luật và sự tác động của hệ thống pháp
luật đối với thực tiễn hoạt động xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng
Mục tiêu nghiên cứu : Mục tiêu của đề tài là dựa trên thực tế thực hiện của PGD
Đông Đô để làm rõ hơn thực trạng xử lý tài sản bảo đảm tại các Ngân hàng thương mại
hiện nay để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu : Em không đi sâu vào tìm hiểu tất cả các vấn đề về việc xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay mà tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp lý, cơ sở lý luận,
thực tiễn và nội dung của các quy định pháp luật về việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
của các tổ chức tín dụng. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này để đưa ra những khuyến
nghị cụ thể trong việc hoàn thiện đồng bộ khung pháp luật về bảo đảm tiền vay trong
lĩnh vực tín dụng ngân hàng.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong việc nghiên cứu và thực hiện Luận
văn gồm: phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những
6


vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài. Đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử: Xem xét hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong quá
khứ, hiện tại để rút ra các mặt được và chưa được trong công tác bảo đảm tiền vay
bằng tài sản . Từ đó, đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay
tại Phòng giao dịch.

Phương pháp nghiên cứu cụ thể : Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng
tổng hợp các phương pháp phân tích diễn giải, thống kê mô tả, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, tư duy logic, phân tích hệ thống, …, kết hợp giữa lý luận với
thực tiển để giải quyết các vấn đề liên quan của luận văn.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài Lời nói đầu, lời cám ơn, mục lục, danh mục từ viết tắt,…thì nội dung Luận
văn được chia làm 3 chương :
Chương 1 : Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh xử lý tài sản bảo đảm
trong ngân hàng.
Chương 2 : Thực trạng pháp luật điều chỉnh về xử lý tài sản bảo đảm trong ngân
hàng và thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng TMCP Phương Đông, Phòng giao dịch đặc
thù Đông Đô.
Chương 3 :Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lý tài sản bảo đảm trong
ngân hàng.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH XỬ LÝ
TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG NGÂN HÀNG
1.1.
Một số khái niệm cơ bản liên quan đến pháp luật điều chỉnh về xử lý tài sản bảo
đảm trong ngân hàng.
1.1.1. Khái niệm về giao dịch bảo đảm.
Giao dịch bảo đảm là một thiết chế ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia có hệ thống
pháp luật phát triển trên thế giới. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy
thiết chế này được xây dựng đã tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động tín
dụng nói chung và sự phát triển của nền kinh tế nói riêng; góp phần không nhỏ vào sự
ổn định của các quan hệ dân sự, kinh tế, tránh các tranh chấp phát sinh từ việc không

thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không đúng nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ.
Việc xác lập các giao dịch bảo đảm luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các
bên tham gia giao dịch, đặc biệt là quyền lợi của bên có quyền trong giao dịch này. Áp
dụng biện pháp bảo đảm, bên có quyền không chỉ có quyền theo hợp đồng buộc bên có
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, mà còn có quyền xử lý tài sản mà bên có nghĩa vụ dùng
để bảo đảm.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 323 Bộ luật dân sự 2005 quy định khái niệm về
giao dịch bảo đảm đó là :“Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định về thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại
khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này”
Từ đó, Giao dịch bảo đảm là giao dịch dự phòng do các bên chủ thể thỏa
thuận để bảo đảm lợi ích của bên có quyền bằng cách cho phép bên có quyền được xử
lý những tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ để khấu trừ giá trị nghĩa vụ trong
trường hợp nghĩa vụ đó bị vi phạm.
1.1.2. Khái niệm cho vay và các hình thức cho vay của tổ chức tín dụng.
Cho vay là hoạt động kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài người
có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo nghĩa
chung nhất được hiểu là việc một người thỏa thuận để cho người khác được quyền sử
dụng tài sản của mình (vật cùng loại) trong một thời gian nhất định với điều kiện có
hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình với người đó.
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi
nhuận. Doanh thu từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trử,
chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí
rủi ro đầu tư.

8


Xét về mặt lý thuyết, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng có thể được phân
loại dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau và mỗi cách phân loại đều đem lại những ý

nghĩa, tác dụng nhất định. Do đó, các hình thức cho vay của tổ chức tín dụng được
phân loại :
Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng có thể
được phân chia thành hai loại :
Cho vay ngắn hạn : Là hình thức cho vay trong thời hạn sử dụng vốn vay do các
bên thỏa thuận là đến một năm. Hình thức cho vay này nhằm tài trợ cho tài sản lưu
động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất.
Cho vay trung và dài hạn : Là hình thức cho vay trong đó thời hạn sử dụng vốn
vay do các bên thỏa thuận là từ trên một năm trở lên. Hình thức cho vay này thường
được sử dụng để thỏa mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định của khách hàng trong kinh
doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu như : sinh hoạt, tiêu dùng, mua sắm nhà ở, phương tiện
đi lại,…
Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay, hoạt động cho vay của tổ chức
tín dụng có thể phân chia thành hai loại :
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản : Đây là những khoản cho vay mà bên cạnh
việc cho khách hàng vay vốn, Ngân hàng còn nắm giữ tài sản của người vay với mục
đích xử lý tài sản đó để thu hồi vốn vay khi người đi vay vi phạm hợp đồng tín dụng.
Quá trình cung ứng vốn của Ngân hàng thương mại, không kể dưới hình thức nào đều
làm tăng khối lượng tiền vào nền kinh tế, làm tăng khối lượng hàng hoá trên thị
trường. Ngoài ra khi thực hiện việc cho vay Ngân hàng không trực tiếp quản lý nguồn
vốn của mình vì thế có rất nhiều rủi ro xảy ra, nguy cơ không thu hồi đủ vốn vay là rất
cao vì thế các Ngân hàng khi cho vay thường yêu cầu người vay phải có tài sản bảo
đảm cho khoản vay.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản : Là khoản cho vay mà Ngân hàng
không nắm giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là
điều kiện ràng buộc khác khi ký hợp đồng tín dụng. Những điều kiện này có thể là:
người đi vay không được giao dịch với Ngân hàng nào khác, hoạt động kinh doanh của
người đi vay phải được Ngân hàng quản lý. Có như vậy Ngân hàng mới quản lý được
tình hình tài chính của người đi vay.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng với

khách hàng được chia thành hai loại :
Cho vay kinh doanh : Mục đích của loại cho vay này là Ngân hàng cho các doanh
nghiệp vay để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình, nhằm mở rộng sản xuất hay
đáp ứng một nhu cầu nào đó về tiền của doanh nghiệp. Dựa vào đặc điểm của từng
9


ngành mà Ngân hàng sẽ thiết lập các điều kiện cho vay, phương thức cho vay, cách
thức trả nợ dựa trên nguồn thu tiền bán hàng của doanh nghiệp. Có thể phân chia loại
hình này theo tiêu thức cho vay doanh nghiệp sản xuất và cho vay thương mại hay có
thể cho vay theo các ngành nghề kinh tế: Cho vay ngành công nghiệp, ngành nông
nghiệp, cho vay ngành dịch vụ.
Cho vay tiêu dùng : Là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền vay sẽ
được bên vay sử dụng vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua
sắm đồ gia dụng, phương tiện đi lại,…
Căn cứ vào phương thức cho vay, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng với
khách hàng được chia thành các loại sau :
Cho vay từng lần : Phương thức cho vay từng lần áp dụng đối với khách hàng có
nhu cầu vay vốn từng lần. Mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện
thủ tục vay vốn cần thiết và kí hợp đồng tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng : Cho vay theo hạn mức tín dụng là cách thức
cho vay bằng cách ngân hàng xác định cho khách hàng của mình một hạn mức tín
dụng trong khoảng thời gian nhất định.
Cho vay theo dự án đầu tư : Phương thức này được áp dụng đối với khách hàng
vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các
dự án đấu tư phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn : Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của
tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành văn bản hướng dẫn và
các thoả thuận giữa các tổ chức tham gia đồng tài trợ.
Cho vay trả góp : Phương thức này khi cho vay, Ngân hàng Nhà nước nơi cho

vay và khách hàng cùng thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được
chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ trong thời hạn cho vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng : Khi cho vay theo phương này thì
ngân hàng cho vay và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng: hạn mức tín
dụng dự phòng thời hạn hiệu lực của tín dụng dự phòng: ngân hàng cho vay cam kết
đáp ứng nguồn vốn cho khách hàng bằng Việt Nam đồng hoặc ngoại tệ.
Cho vay theo hạn mức thấu chi : Là việc cho vay mà Ngân hàng nhà nước Việt
Nam thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt quá số tiền có trên
tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của chính phủ và Ngân
hàng nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán.

10


1.1.3. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản.

Khi tiến hành cho vay, ngân hàng thường ưu tiên cho những khách hàng truyền
thống có uy tín hoặc những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, phương án
sản xuất kinh doanh hiệu quả hoặc theo chỉ định của chính phủ. Uy tín của khách hàng
trên quan điểm của ngân hàng được cấu thành bởi các yếu tố như quan hệ lâu dài, trả
nợ sòng phẳng. Hiệu quả của các dự án cũng được các ngân hàng đặc biệt quan tâm.
Đây là những tài sản bảo đảm vô tình có tính an toàn khá cao đối với ngân hàng.
Tuy nhiên rủi ro trong hoạt động cho vay không thể đoán trước được vì nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố chứ không chỉ phụ thuộc vào khách hàng. Lúc đó việc xử lý
những rủi ro này lại trở nên dễ dàng hơn với những khách hàng được cho vay với hình
thức có tài sản bảo đảm có thực.
Do đó, Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.
Nhìn chung các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản có đặc điểm đó là :

Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là sự thỏa thuận của các
bên tham gia quan hệ tín dụng. Để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trong các bên
khi tham gia giao dịch, các bên khi tham gia giao dịch đều có sự thỏa thuận bằng hợp
đồng để đảm bảo rằng việc thực hiện giao dịch này đều dựa trên nguyên tắc tự nguyện
của pháp luật. Các biện pháp bảo đảm bằng tài sản là hoàn toàn không bị bắt buộc và
phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, các bên
thỏa thuận để bảo đảm quyền lợi của mình không bị xâm phạm khi một bên vi phạm
hợp đồng tín dụng.
Thứ hai, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là các biện pháp dự
phòng. Tính dự phòng của các biện pháp bảo đảm thể hiện ở chỗ tài sản bảo đảm chỉ
được đem ra xem xét và giải quyết khi người đi vay không thực hiện được hoặc không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với bên cho vay. Tính dự phòng này giúp kích
thích người đi vay nâng cao nghĩa vụ trả nợ của mình. Tài sản của họ sẽ không bị xử
lý nếu họ thực hiện đúng theo thỏa thuận đã nêu trong hợp đồng bảo đảm tiền vay, hợp
đồng tín dụng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật dân sự 2005 có 7 biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, trên thực tế các biện pháp : cầm cố tài sản, thế
chấp bằng tài sản của khách hàng, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm tiền
vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay, là các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
được ngân hàng áp dụng. Các hình thức bảo đảm tài sản hiện thường được các ngân
hàng áp dụng đó là :

11


Cầm cố tài sản.
Là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
quân sự (Điều 326 Bộ luật dân sự 2005).
Việc chuyển giao tài sản bảo đảm trong cầm cố là chuyển giao thực tế, do đó chỉ

được coi là hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tài sản bảo đảm khi bên nhận cầm cố
hoặc người thứ ba được bên nhận cầm cố ủy quyền đã giữ tài sản. Như vậy, tài sản
cầm cố có thể do bên nhận cầm cố trực tiếp giữ tài sản hoặc ủy quyền cho người thứ
ba giữ tài sản (Điều 16 Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
Thế chấp tài sản.
Là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế
chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp (khoản 1 Điều 342 Bộ
luật dân sự 2005).
Hợp đồng cầm cố tài sản và thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, ghi rõ
giá trị tài sản và thời hạn bảo đảm.
Có hai điểm khác biệt quan trọng giữa hai biện pháp cầm cố và thế chấp đó là :
Thứ nhất, đó là việc chuyển giao tài sản bảo đảm : nếu áp dụng biện pháp cầm cố
thì tài sản phải được chuyển giao cho bên nhận cầm cố giữ. BLDS 2005 không căn cứ
vào việc phân biệt tài sản bảo đảm là động sản hay bất động sản để quy định hình thức
hợp đồng bảo đảm là cầm cố hay thế chấp, mà căn cứ vào tiêu chí là khả năng dịch
chuyển của tài sản. Nếu là cầm cố tài sản thì phải chuyển giao tài sản từ bên cầm cố
sang bên nhận cầm cố. Còn nếu là thế chấp tài sản thì không phải chuyển giao tài sản
từ bên thế chấp sang cho bên nhận thế chấp mà bên thế chấp chỉ phải chuyển giao các
giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng của mình đối với tài sản cho bên nhận thế
chấp mà bên thế chấp chỉ phải giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng của
mình đối với tài sản cho bên nhận thế chấp.
Thứ hai, người thứ ba giữ tài sản cầm cố và người thứ ba giữ tài sản thế chấp :
Trong trường hợp thế chấp, việc người thứ ba giữ tài sản thế chấp phải do cả hai bên
thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận và thống nhất ý kiến, đồng thời người này có
các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 352 và Điều 353 BLDS 2005. Còn
trường hợp cầm cố, việc người thứ ba giữ tài sản hoàn toàn do ý chí của bên nhận cầm
cố thông qua việc ủy quyền. Thực chất, quan hệ giữa bên nhận cầm cố và người thứ ba
giữ tài sản cầm cố là quan hệ độc lập mang tính chất của hợp đồng gửi giữ tài sản. Do
đó, ngay cả khi người thứ ba giữ tài sản thì bên nhận cầm cố vẫn phải chịu trách nhiệm


12


trước bên cầm cố về việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại điều 332 BLDS
2005 và các nghĩa vụ khác mà các bên đã thỏa thuận.
Bảo lãnh.
Là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau
đây gọi là bên nhận bảo lãnh), sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây
gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo
lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình (Điều 361 BLDS 2005).
Thông qua biện pháp bảo lãnh, chủ nợ (bên có quyền) có được một con nợ dự bị
(bên có nghĩa vụ), bên cạnh con nợ chính. Trong quan hệ tín dụng, khách hàng vay trở
thành con nợ của ngân hàng thông qua hợp đồng cho vay, đó là con nợ chính. Còn
người bảo lãnh cho khách hàng vay sẽ phải thực hiện nghĩa vụ như con nợ, nếu con nợ
không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình dựa trên cam kết bảo lãnh, đó chính là con
nợ dự bị.
Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một quan hệ độc lập, có thể
phát sinh từ thỏa thuận giữa hai bên (đặc biệt là trong trường hợp bảo lãnh có thù lao)
hoặc phát sinh quyền yêu cầu hoàn trả của bên bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Bên bảo lãnh phải có tài sản lớn
hơn tài sản mà họ đứng ra bảo lãnh.
1.1.4. Khái niệm, đặc điểm của xử lý tài sản bảo đảm.
Mọi khách hàng vay vốn tại ngân hàng có nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn hoặc trả
nợ trước hạn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong trường hợp không thực hiện
nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì tài sản đã được thỏa thuận trước đó
đã được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại ngân hàng sẽ được xử lý để thu hồi
nợ.

Xử lý tài sản bảo đảm là việc các ngân hàng và các tổ chức tín dụng thực hiện
các biện pháp đối với tài sản bảo đảm tiền vay của khách hàng để thu nợ.
Xử lý tài sản bảo đảm không chỉ đơn thuần là biện pháp để thu hồi nợ vay cho
ngân hàng, mà còn giúp cho ngân hàng giảm được chi phí do việc bảo quản, bảo
dưỡng các tài sản bảo đảm trong khi các tài sản này đã ngừng hoạt động để đưa vào
diện xử lý, thu hồi nợ. Việc bán các tài sản bảo đảm trên sẽ giúp cho ngân hàng thu hồi
được nợ và tránh rơi vào tình trạng rủi ro phá sản do không có khả năng thanh toán các
khoản tiền gửi của khách hàng khi đến hạn. Xử lý tài sản bảo đảm là một biện pháp
nhằm đẩy mạnh quá trình lành mạng hóa hoạt động tài chính đối với các ngân hàng
Việc xử lý tài sản bảo đảm có những đặc điểm đó là :
13


Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nhằm mục đích thu hồi khoản nợ của tổ chức tín
dụng đã cho khách hàng vay khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ.
Khi ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay tiền, họ biết rằng có
thể sẽ có những rủi ro bất ngờ xảy ra cho khách hàng của mình và dẫn đến việc thu hồi
nợ của mình gặp nhiều khó khăn, có thể là không thể thu hồi lại vốn đã cho vay ban
đầu. Chính vì vậy tài sản bảo đảm được sử dụng để bảo đảm tại các ngâm hàng có thể
thu hồi khoản vay đã cấp cho khách hàng.
Việc xử lý tài sản bảo đảm không phải là mục đích mà các ngân hàng và tổ chức
tín dụng hướng tới khi họ cho khách hàng vay tiền. Chỉ khi bên bảo đảm vi phạm
nghĩa vụ với bên nhận bảo đảm thì xử lý tài sản bảo đảm mới được xét đến nhằm mục
đích thu hồi nợ. Xử lý tài sản bảo đảm cần được thực hiện một cách nhanh chóng để tổ
chức tín dụng có thể bảo đảm khả năng thanh toán, khả năng chi trả và cấp tín dụng
cho nền kinh tế.
Chủ thể của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đa dạng và được trao quyền
mạnh mẽ hơn trong việc xử lý tài sản bảo đảm thông thường.
Việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp trong các giao dịch dân sự thường thông qua
việc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá nếu các bên không có thỏa thuận

khác. Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng thì
việc xử lý tài sản bảo đảm đòi hỏi phải nhanh chóng bởi nó là nguồn cung ứng vốn
năng động cho nền kinh tế. Ngân hàng và các tổ chức tín dụng được thành lập với
những điều kiện cấp phép chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, chịu
sự giám sát thường xuyên trong hoạt động nghiệp vụ, kể cả việc cho vay và bảo đảm
tiền vay. Chính vì vậy, ngân hàng và các tổ chức tín dụng là chủ thể được trao quyền
tương đối lớn so với các chủ thể có chức năng xử lý tài sản bảo đảm trong giao dịch
dân sự, kinh tế khác.
Mặt khác trên thực tế hiện nay, lượng khách hàng của ngân hàng và các tổ chức
tín dụng là rất lớn và không ngừng tăng lên. Việc vi phạm hợp đồng tín dụng có khả
năng xảy ra cao. Vì vậy, nếu ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng áp dụng hoàn
toàn việc xử lý tài sản bảo đảm theo con đường thông thường, thông qua cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thì việc huy động và quay vòng vốn của các tổ chức tín dụng sẽ bị
chậm trễ, dẫn đến tắc nghẽn trong hoạt dộng huy động vốn của tổ chức tín dụng. Việc
cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng quyền hạn cụ thể, đặc biệt và lớn hơn so với các
chủ thể có chức năng xử lý tài sản bảo đảm trong giao dịch dân sự, kinh tế khác là
hoàn toàn hợp lý. Tất nhiên, những trường hợp xử lý tài sản bảo đảm mà pháp luật có
quy định cụ thể riêng biệt thì cá tổ chức tín dụng vẫn phải tuân theo quy định của pháp
luật, không được tự ý xử lý tài sản bảo đảm theo ý chí riêng của một bên.
14


Thời điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ.
Về nguyên tắc, việc xử lý tài sản trong giao dịch dân sự được phát sinh khi đến
hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ vi phạm cam kết. Trước thời hạn đó, nếu
các bên không có thỏa thuận thì bên có quyền không được xử lý tài sản bảo đảm. Tuy
nhiên, trong quan hệ tín dụng ngân hàng, nghĩa vụ được bảo đảm rộng hơn, bao gồm
nghĩa cụ trả nợ vay khi đến hạn, nghĩa vụ sử dụng vốn của khách hàng và nghĩa vụ
thực hiện các cam kết khác. Vì vậy, trong bảo đảm tiền vay thì thời điểm phát sinh xử
lý tài sản bảo đảm sẽ xảy ra khi đến hạn trả nợ mà khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ

trả nợ hoặc khi khách hàng vay vi phạm các cam kết khác về việc sử dụng vốn với các
tổ chức tín dụng thì việc xử lý tài sản không cần phải đợi đến thời điểm khoản nợ đến
hạn trả nợ.
Tóm lại, với các đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đã đặt ra yêu
cầu về việc xây dựng cơ chế điều chỉnh, cơ chế hỗ trợ xử lý tài sản bảo đảm trong lĩnh
vực tín dụng ngân hàng vừa đảm bảo nguyên tắc cơ bản chung của giao dịch bảo đảm,
vừa phù hợp với các đặc điểm riêng của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
1.2.
Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về hoạt động xử lý tài sản bảo
đảm trong ngân hàng
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về hoạt động xử lý tài sản bảo đảm trong ngân
hàng.
Hoạt động xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng được thực hiện dựa trên các
căn cứ pháp lý mà Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Các văn bản luật điều chỉnh về xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng đó là: Bộ
luật Dân sự 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ
họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Quốc hội ban hành ngày 16 tháng 6 năm 2010;
Luật các tổ chức tín dụng 2010, Quốc hội ban hành ngày 16 tháng 6 năm 2010.
Các văn bảo dưới luật điều chỉnh về xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng đó là:
Văn bản hợp nhất 8019/VBHN-BTP về giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp ban hành
ngày 10 tháng 12 năm 2013;
Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN giữa Bộ Tư pháp,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước về hướng dẫn một số vấn đề xử
lý tài sản bảo đảm, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 6 tháng 6 năm 2014;
Thông tư số 05/2011/TT-BTP hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp
thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án
theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại trung tâm đăng ký giao dịch,
15



tài sản của cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ tư pháp, Bộ Tư pháp ban
hành ngày 16 tháng 2 năm 2011;
Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, Chính phủ ban hành ngày 29
tháng 12 năm 2006; Nghị định 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản, Chính phủ ban
hành ngày 4 tháng 3 năm 2010;
Nghị định số 11/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm; Chính phủ ban hành ngày 22 tháng 2 năm
2012;
Nghị định số 53/2013/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty
Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam, Chính phủ ban hành ngày 18 tháng
5 năm 2013;
Nghị định 83/2010/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm, Chính phủ ban hành
ngày 23 tháng 7 năm 2010;
Quyết định 42/QĐ-HĐQL ban hành quy chế về bảo đảm tiền vay của ngân hàng
phát triển Việt Nam, Hội đồng quản lý phát triển Việt Nam ban hành ngày 17 tháng 9
năm 2007.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng hiện nay
quy định về thủ tục xử lý tài sản bảo đảm đó là :
Xử lý tài sản cho vay là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình cho vay của
các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Theo quy định tại Điều 47 Nghị
định 163/2006/NĐ-CP, thời điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay được hiểu là khi đến
hạn trả nợ mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đối
với bên cho vay thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản bảo đảm đã thỏa thuận trong
hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tín dụng.
Các tổ chức tín dụng có thể xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trước kỳ hạn trong
trường hợp khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Khách hàng
là doanh nghiệp bị phá sản hoặc bị phát hiện việc cung cấp thông tin sai sự thật, vi

phạm cam kết sử dụng vốn và các cam kết khác tại hợp đồng tín dụng.
Thủ tục cần thiết để thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay bao gồm :
Bước thứ nhất, bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản cho bên bảo
đảm về việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trước khi tiến hành xử lý tài sản.
Nội dung văn bảo phải ghi rõ lý do xử lý tài sản bảo đảm, loại tài sản, phương
thức xử lý tài sản bảo đảm, giá trị nghĩa vụ được bảo đảm tại thời điểm tiến hành xử lý
tài sản bảo đảm, thời hạn và địa điểm chuyển giao tài sản.

16


Cùng lúc đó, các ngân hàng cũng ấn định thời điểm xử lý tài sản bảo đảm trong
thông báo xử lý tài sản bảo đảm, nhưng không được sớm hơn 15 ngày kể từ ngày đăng
ký thông báo yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm.
Đối với giao dịch bảo đảm chưa hoạt động, thì thời hạn nêu trên được tính từ ngày
ngân hàng gửi thông báo xử lý tài sản bảo đảm cho bên bảo đảm. Trong trường hợp tài
sản bảo đảm có nguy cơ dễ hư hỏng thì ngân hàng được xử lý tài sản ngay sau khi
thông báo xử lý tài sản bảo đảm.
Bên bảo đảm phối hợp với ngân hàng thực hiện các biện pháp chuẩn bị cho việc
xử lý tài sản bảo đảm như bàn giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng, bàn giao giấy tờ có
liên quan đến tài sản bảo đảm theo yêu cầu của ngân hàng (trong trường hợp bên bảo
đảm hoặc bên thứ ba giữ giấy tờ, tài sản bảo đảm), tạo điều kiện cho bên mua xem tài
sản và thực hiện các biện pháp cần thiết khác để xử lý tài sản bảo đảm.
Bước hai, lập biên bản xử lý tài sản bảo đảm.
Biên bảo xử lý tài sản bảo đảm phải ghi rõ việc bàn giao, tiếp nhận tài sản bảo
đảm, phương thức xử lý tài sản bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của các bên và các thỏa
thuận khác (nếu có).
Về nguyên tắc, tổ chức tín dụng và bên bảo đảm phải thỏa thuận về giá trị xử lý
tài sản bảo đảm tại thời điểm xử lý tài sản bảo đảm và lập biên bảo thỏa thuận việc
định giá tài sản. Trường hợp các bên không thỏa thuận được về giá xử lý tài sản bảo

đảm thì trước khi tổ chức tín dụng quyết định giá xử lý tài sản bảo đảm, tổ chức tín
dụng thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định giá hoặc tham khảo giá đã
được tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định giá thực tế tại địa phương vào thời
điểm xử lý, giá quy định của nhà nước (nếu có) và các yếu tố khác về giá.
Bước ba, ngân hàng lựa chọn phương thức xử lý tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp các bên thỏa thuận thực hiện phương thức bán tài sản bảo đảm
tiền vay thì bên được bán có thể là khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh bán, ngân hàng
bán, hai bên phối hợp cùng bán, ủy quyền cho bên thứ ba bán. Bên được bán tài sản
bảo đảm có thể trực tiếp bán cho người mua, ủy quyền cho Trung tâm bán đấu giá tài
sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản thực hiện việc bán tài sản bảo đảm tiền vay.
Tùy theo từng điều kiện cụ thể, các ngân hàng có quyền thực hiện xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay như theo các hình thức trực tiếp bán cho người mua hoặc ủy quyền
việc bán đấu giá tài sản cho Trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu
giá tài sản theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản hoặc ủy quyền, chuyển
giao cho tổ chức có chức năng được mua bán tài sản để bán.

17


Bước bốn, thanh toán nợ từ việc xử lý tài sản bảo đảm.
Theo quy định hiện nay, việc thanh toán thu nợ phải được tiến hành theo thứ tự.
Đầu tiên là thanh toán cho các chi phí bảo quản, quản lý, định giá, quảng cáo bán tài
sản, bán tài sản, tiền hoa hồng, chi phí, lệ phí bán đấu giá và các chi phí cần thiết, hợp
lý khác liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm. Tiếp đó, là thanh toán các khoản thuế và
các khoản phí nộp ngân sách nhà nước (nếu có). Sau cùng mới đến thanh toán cho các
khoản nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn tính đến ngày bên bảo đảm hoặc bên giữ tài sản giao
tài sản cho ngân hàng để xử lý.
Bước năm, xóa đăng ký xử lý tài sản bảo đảm.
Sau khi đã xử lý tài sản bảo đảm thế chấp để thu hồi nợ, ngân hàng tiến hành xóa
đăng ký xử lý tài sản. Nếu giao dịch bảo đảm đã được đăng ký tại cơ quan đăng ký thì

ngân hàng phải yêu cầu xóa đăng ký giao dịch bảo đảm.
Nội dung pháp luật còn quy định về các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Biện
pháp xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện trước hết theo thỏa thuận đã quy định trong
hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tín dụng mà bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm đã ký
kết. Nếu không có thỏa thuận về biện pháp xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm
có thể lựa chọn các biện pháp sau :
Bán tài sản bảo đảm.
Bán tài sản bảo đảm là biện pháp thông dụng thường được ngân hàng và các
TCTD sử dụng. Thực tế, các khoản vay của khách hàng từ ngân hàng và các TCTD
phổ biến là tiền mặt. Vì vậy, mục đích của ngân hàng và các TCTD là thu lại chính
khoản tiền đã cho vay và lãi suất. Tài sản bảo đảm tiền vay có thể không hữu dụng cho
ngân hàng nhưng họ luôn cần tiền để duy trì hoạt động cung cấp vốn của mình. Đồng
thời biện pháp bán tài sản bảo đảm cũng bảo đảm được tính khách quan bởi nó xác
đính chính xác nhất giá trị thực của tài sản bảo đảm tại thời điểm bán trên thị trường,
giúp các bên giải quyết nợ một cách nhanh chóng, thuận tiện.
Bán tài sản bảo đảm là việc bên nhận bảo đảm hoặc bên bán bảo đảm, hoặc các
bên phối hợp để bán tài sản trực tiếp cho người mua hoặc ủy quyền cho bên thứ ba bán
tài sản bảo đảm cho người mua. Bên thứ ba này phải là tổ chức có tư cách pháp nhân
và được thực hiện quyền thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp
luật.
Các chủ thể được bán tài sản bảo đảm bao gồm :
• Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp
luật nếu không xử lý được tài sản bảo đảm theo thỏa thuận (trừ trường hợp tài sản bảo
đảm là quyền sử dụng đất và các tài sản khác mà pháp luật quy định phải được tổ chức
bán đấu giá). Trong trường hợp này, bên nhận bảo đảm phải thông báo công khai về
18


việc bán đấu giá tài sản bảo đảm trên các phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp
ký kết hợp đồng bán tài sản bảo đảm.

• Khách hàng bên vay (bên bảo đảm) hoặc bên bảo lãnh hoặc các bên cùng phối hợp bán
tài sản bảo đảm theo thỏa thuận.
• Bên thứ ba bán tài sản bảo đảm theo ủy quyền của bên nhận bảo đảm hoặc ủy quyền
của bên bảo đảm (khách hàng vay), bên bảo lãnh. Thủ tục về việc bán tài sản bảo đảm
thông qua trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá được quy định
tại Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định về bán đấu giá tài sản.
Bên bán tài sản và bên mua tài sản phải thành lập hợp đồng mua bán bằng văn
bản. Bên bán tài sản được trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng và làm
các thủ tục chuyển nhượng tài sản.
Nhờ đặc tính chính xác và nhanh gọn, thuận tiện của mình, biện pháp bán tài sản
bảo đảm thường được ngân hàng và các TCTD áp dụng.
Phương thức nhận chính tài sản bảo đảm tiền vay để thay thế cho việc thực hiện
nghĩa vụ được bảo đảm.
Ngoài biện pháp thông dụng là bán tài sản bảo đảm, ngân hàng và các TCTD còn
áp dụng biện pháp nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm.
Biện pháp nhận chính tài sản bảo đảm tiền vay để thay thế cho việc thực hiện
nghĩa vụ được bảo đảm là việc bên nhận bảo đảm trực tiếp nhận tài sản bảo đảm, lấy
giá trị tài sản bảo đảm được định giá khi xử lý làm cơ sở để thanh toán nợ gốc, lãi vay,
lãi quá hạn của bên bảo đảm sau khi trừ đi các chi phí khác và tiếp nhận chính tài sản
đó.
Trên thực tế chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa hai biện pháp bán tài sản bảo đảm
và nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Pháp luật
hiện hành chưa có văn bản pháp lý quy định cụ thể về các thức vận dụng biện pháp
này. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân thì việc nhận chính tài sản bảo đảm để thay
thế việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm cũng chính là một biến thể của biện pháp bán tài
sản bảo đảm. Điểm khác biệt chính nằm ở người mua. Trường hợp nhận chính tài sản
bảo đảm để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm thì người mua chính là bên nhận
bảo đảm. Trường hợp bán tài sản bảo đảm thì người mua không phải là bên nhận bảo
đảm.

Tùy từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể mà ngân hàng và các TCTD sẽ áp dụng
biện pháp xử lý tài sản bảo đảm phù hợp, bảo đảm quyền lợi của mình cũng như của
bên bảo đảm.

19


1.3.

Phương thức nhận tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp bên thứ ba có nghĩa
vụ trả tiền hoặc tài sản cho khách hàng vay, bên bảo lãnh.
Khi khách hàng vay không trả được nợ hoặc bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản
không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, ngân hàng có quyền chuyển giao quyền thu hồi lại
hoặc ủy quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm. Bên thứ ba là tổ chức có tư cách
pháp nhân và được thực hiện quyền thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm theo quy
định của pháp luật. Các ngân hàng hoặc bên bảo dảm phải thông báo cho bên thứ ba
biết việc ngân hàng nhận được các khoản tiền, tài sản nêu trên, đồng thời yêu cầu bên
thứ bao giao các khoản tiền, tài sản đó cho các ngân hàng. Việc giao các khoản tiền,
tài sản cho ngân hàng phải thực hiện theo đúng thời hạn, địa điểm được ấn định trong
thông báo xử lý tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp được ngân hàng chuyển giao quyền thu hồi nợ, bên thứ ba có
quyền thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm như ngân
hàng. Trường hợp được ngân hàng ủy quyền xử lý tài sản, thì bên thứ ba được xử lý tài
sản bảo đảm trong phạm vi được ủy quyền.
Các ngân hàng sẽ lập biên bản nhận các khoản tiền, tài sản giữa ngân hàng, bên
bảo đảm và bên thứ ba. Biên bản nhận các khoản tiền, tài sản phải ghi rõ việc bàn giao,
tiếp nhận các khoản tiền, tài sản, việc định giá tài sản và thanh toán nợ từ việc xử lý tài
sản. Trong trường hợp bên thứ ba không giao các khoản tiền, tài sản nói trên theo yêu
cầu của ngân hàng thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
áp dụng thủ tục buộc bên thứ ba phải giao tài sản hoặc khởi kiện ra tòa.

Các nguyên tắc pháp luật điều chỉnh hoạt động xử lý tài sản bảo đảm trong ngân
hàng.
Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng được
thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau :
1.3.1. Nguyên tắc thỏa thuận.
Bản chất của quan hệ bảo đảm tiền vay là một quan hệ hợp đồng nên quan hệ bảo
đảm tiền vay cũng được hình thành trên cơ sở thỏa thuận. Đó là sự thỏa thuận giữa
TCTD và khách hàng vay về các biện pháp bảo đảm tiền vay và các phương thức xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng
tín dụng hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Nguyên tắc thỏa thuận được thể hiện ở các điểm sau :
Thỏa thuận về việc xử lý tài sản được thiết lập tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo
đảm tiền vay. Đây là cơ sở pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Thỏa thuận được thiết lập tại thời điểm xử lý tài sản. Điều đó có nghĩa là tại thời
điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay các bên vẫn có thể thỏa thuận khác với thỏa thuận
20


ban đầu hoặc bổ sung mới, hoặc thậm chí có thể thay thế tài sản bảo đảm nếu các bên
có thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm nhưng không
có thỏa thuận cụ thể về việc xử lý tài sản bảo đảm thì về nguyên tắc các TCTD vẫn có
quyền xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Trong trường
hợp này, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, tài sản bảo đảm sẽ được
xử lý thông qua bên thứ ba (có thể là tòa án hoặc trọng tài).
1.3.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch.
Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trước hết phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của các TCTD vì các TCTD có một vai trò quan trọng trong hoạt động huy động
vốn cho nền kinh tế quốc dân. Khách hàng vay khi cần lượng vốn lớn nằm ngoài khả
năng của mình thì mới đến ngân hàng và các TCTD để thỏa thuận một khoản vay.

Điều này khiến khách hàng vay thường lâm vào thế bị động bởi họ là người cần tiền,
còn ngân hàng và các TCTD lại là bên có quyền quyết định khoản vay. Các TCTD sẽ
dễ dàng đưa ra các yêu cầu không hợp lý và bất lợi cho khách hàng vay. Ngược lại,
nếu ngân hàng không có các biện pháp bảo đảm thì bản thân ngân hàng sẽ gặp nhiều
rủi ro bởi có khả năng rơi vào tình trạng mất vốn. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm tiền vay góp phần bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cả bên đi vay và bên cho vay.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay cần có quy trình cụ
thể, chặt chẽ hoặc xử lý tài sản thông qua bên thứ ba (có thể là trọng tài hoặc tòa án).
Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm khi xử lý cũng cần được pháp luật quy định nhằm
bảo đảm mức giá xử lý tài sản hợp lý, đồng thời tôn trọng sự thỏa thuận, cho phép bên
được tham gia quá trình xử lý tài sản.
1.3.3. Nguyên tắc công khai, minh bạch.
Nguyên tắc này vừa bảo đảm không mất vốn và thu nợ tối đa của TCTD, vừa bảo
vệ quyền lợi chính đáng của bên bảo đảm có tài sản bị đưa ra xử lý thông qua phương
thức bán công khai, có sự tham gia của bên thứ ba hoặc giao cho bên thứ ba xử lý tài
sản.
1.3.4. Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng.
Đây là một nguyên tắc cần thiết trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để đảm bảo
khả năng thanh toán, chi trả của TCTD, đồng thời hạn chế triệt để thiệt hại cho TCTD
và khách hàng vay do tài sản bảo đảm bị xuống cấp, hư hỏng, mất giá, không luân
chuyển được nguồn vốn và khách hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản vay tại ngân
hàng.

21


Tóm lại, việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng cần
phải tuân thủ các nguyên tắc trên. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm tiền vay.


22


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
TRONG NGÂN HÀNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI NGÂN HÀNG
TMCP PHƯƠNG ĐÔNG, PHÒNG GIAO DỊCH ĐẶC THÙ ĐÔNG ĐÔ
2.1.
Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xử lý tài sản bảo
đảm trong ngân hàng.
2.1.1. Tổng quan tình hình xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng.
Theo công bố của Ngân hàng Nhà nước tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế
tính đến 30/6/2015 đã lên tới trên 4,283 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 7,86% so với cuối
năm 2014. Trong khi đó, số liệu nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, tính đến
30/6/2015 chiếm 3,72% ( khoảng 160.000 tỷ đồng) tổng dư nợ, giảm nhẹ so với mức
3,81% cuối tháng 3/2015, nhưng tăng so với tỷ lệ 3,49% tháng 1/2015.
Tháng 1 và 2 của năm 2015, nợ xấu theo báo cáo của các tổ chức tín dụng có
tăng lên lần lượt là 3,49% và 3,59%, tăng cao nhất là tháng cuối quý I với mức 3,81%
nhưng về bản chất, nợ xấu đang có xu hướng giảm đi khi so sánh với tỷ lệ nợ xấu theo
giám sát của Ngân hàng Nhà nước với tỷ lệ nợ xấu lần lượt 4,55% vào tháng 1/2015,
lên 4,75% vào tháng 2/2015 và 3,81% vào tháng 3/2015. Tính đến 30/11, 99,6% nợ
xấu đã được giải quyết và tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống được đưa về mức 2,72%.
Như vậy, so với cuối tháng 9/2012 - thời điểm Ngân hàng Nhà nước bắt đầu tra
soát một cách đầy đủ nợ xấu để lập đề án xử lý thì quy mô nợ xấu hiện nay đã giảm rất
mạnh, còn gần 160.000 tỷ đồng so với gần 465.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, một phần nợ xấu của hệ thống đã được bán lại cho Công ty Quản lý
tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Quy mô bán lại lũy kế đến cuối tháng
6/2015 là khoảng 158.000 tỷ đồng. Riêng trong năm 2014, các ngân hàng đã bán nợ
xấu cho VAMC gần 200.000 tỷ đồng.

Theo như thống kê của Ngân hàng Nhà nước, nguồn vốn huy động tăng trưởng
ổn định tạo gối đệm thanh khoản an toàn cho các ngân hàng triển khai các chương
trình tín dụng. Các TCTD đẩy mạnh thực hiện các giải pháp tăng trưởng tín dụng có
trọng tâm, trọng điểm, đưa ra nhiều chương trình tín dụng ưu đãi... Nhờ các giải pháp
tín dụng linh hoạt, hiệu quả, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã có mức tăng tốt ngay từ
những tháng đầu năm. Một trong những điểm nhấn trong hoạt động của ngành ngân
hàng trong 6 tháng đầu năm đó là công tác xử lý nợ xấu. NHNN thường xuyên giám
sát hoạt động của các TCTD, đồng thời có các văn bản khuyến cáo, cảnh báo các
TCTD có tỷ lệ nợ quá hạn lớn, tỷ lệ nợ xấu cao, thu nhập nhỏ hơn chi phí và yêu cầu
xây dựng biện pháp chấn chỉnh, khắc phục.

23


Đặc biệt, trong năm 2015 với nhiệm vụ Đảng, Quốc hội giao cho toàn Ngành đưa
nợ xấu về dưới mức 3%, ngay từ đầu năm, ngành ngân hàng đã rốt ráo triển khai nhiều
giải pháp đồng bộ tiếp tục rà soát, thực hiện tổ chức, sắp xếp lại bộ phận xử lý nợ
chuyên trách theo đặc điểm khách hàng, khả năng tái cấu trúc khoản vay hoặc tiến
hành khởi kiện, xử lý TSBĐ...
Tổng nợ xấu mà 13 Ngân hàng TMCP có trụ sở chính tại Hà Nội được NHNN
giao xử lý hoàn thành trước 30/9/2015 (trừ GPBank) là: 30.778 tỷ đồng. Song, theo
tiết lộ của lãnh đạo NHNN chi nhánh Hà Nội, tính đến 30/6/2015, tổng số nợ xấu đã
xử lý là 24.705 tỷ đồng, đạt 80% kế hoạch được giao.
Mặc dù, tỷ lệ nợ quá hạn của các TCTD trên địa bàn đã giảm nhưng theo đánh
giá của lãnh đạo NHNN chi nhánh Hà Nội thì con số này vẫn ở mức cao, tính đến
30/6/2015 chiếm 5,06% trong tổng dư nợ. Và một trong những vấn đề khó khăn nhất
đối với các NH trong quá trình xử lý nợ xấu đó là xử lý, thu hồi TSBĐ. NHNN chi
nhánh Hà Nội cho biết, năm 2014 tỷ lệ nợ xấu có bảo đảm bằng tài sản chiếm tỷ lệ khá
cao tới 91% trên tổng nợ xấu. Vì lẽ đó, nếu khâu xử lý TSBĐ bị vướng mắc chắc chắn
tác động đến tốc độ xử lý nợ xấu của các ngân hàng.

Thời gian qua, đã có một số văn bản pháp luật quy định hỗ trợ ngân hàng giải
quyết được nhiều vướng mắc trong quá trình xử lý TSBĐ để thu hồi nợ, vẫn còn tồn
tại nhiều bất cập, vướng mắc chưa được giải quyết triệt để.
Rất nhiều ngân hàng gặp khó khăn trong việc xử lý khoản vay thế chấp bằng bất
động sản. Dù trong hợp đồng giữa ngân hàng với khách hàng đã được công chứng có
điều kiện rõ ràng, ngân hàng toàn quyền xử lý tài sản khi khách hàng không trả được
nợ. Nhưng thực tế, ngân hàng không thể thực hiện thu giữ TSBĐ nếu họ bỏ trốn hoặc
không có mặt tại địa điểm có TSBĐ, do vẫn còn tồn tại các tài sản khác của khách
hàng tại TSBĐ. Việc giải quyết các tài sản khác đang tồn tại cùng tài sản đó có thể gây
ra tranh chấp khi chủ tài sản kêu thất thoát tài sản.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật cũng chưa có các quy định cụ thể về việc
Ủy ban nhân dân và cơ quan Công an thực thi chức năng liên quan hỗ trợ công tác xử
lý TSBĐ nên các ngân hàng rất khó thực hiện quyền thu giữ tài sản. Vì thực tế, bên
bảo đảm thường bất hợp tác, tìm cách chây ì, trì hoãn không chuyển giao TSBĐ.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xử lý tài sản bảo đảm trong ngân hàng.
Các nhân tố chủ quan.
Ngân hàng là người trực tiếp ra quyết định cho vay, chủ động áp dụng hình thức
bảo lãnh tiền vay cũng như xử lý các tài sản bảo đảm của khách hàng nên ngân hàng
có thể coi là nhân tố mang tính quyết định và có ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác

24


xử lý tài sản bảo đảm. Chính vì thế các nhân tố liên quan đến ngân hàng là những nhân
tố chủ quan ảnh hưởng rất lớn đến công tác xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể :
Chất lượng nhân sự của ngân hàng.
Để có thể định giá, xử lý tài sản bảo đảm một cách thành công và có hiệu quả thì
năng lực, trình độ cán bộ tín dụng là điều cần phải xem xét đến đầu tiên. Chỉ có những
cán bộ tín dụng có năng lực và trình độ chuyên môn mới biết được đâu là những khách
hàng có uy tín, có khả năng trả nợ; đâu là những dự án đầu tư mang lại hiệu quả kinh

tế cao. Từ đó, các ngân hàng mới có thể đưa ra quyết định cho vay hay không, nếu
cho vay thì với số tiền là bao nhiêu, lãi suất, thời hạn cho vay và các điều kiện khác.
Đặc biệt là đối với những khoản có tài sản bảo đảm thì càng đòi hỏi năng lực và
trình độ của cán bộ tín dụng càng phải cao. Hơn nữa, nếu cám bộ tín dụng có khả năng
phân tích tình hình biến động của thị trường sẽ giúp cho việc định giá tài sản bảo đảm
được chính xác, không gây ảnh hưởng cho ngân hàng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ.
Bên cạnh chuyên môn giỏi thì đạo đức của cán bộ tín dụng cũng là một nhân tố
ảnh hưởng quan trọng đến công tác xử lý tài sản bảo đảm. Đây là vấn đề cần được
quan tâm bởi vì môi trường làm việc của ngân hàng luôn tiếp xúc với tiền nên dễ làm
con người ta sa ngã, dẫn đến tình trạng móc ngoắc giữa cán bộ tín dụng và khách hàng
để rút tiền của ngân hàng.
Nếu cán bộ tín dụng đánh giá không đúng giá trị thực của tài sản bảo đảm, cho
khách hàng vay một số tiền lớn hơn so với giá trị thật của tài sản bảo đảm thì sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến công tác xử lý tài sản bảo đảm sau này nếu khoản nợ đó
không có khả năng được hoàn trả. Do vậy, cán bộ tín dụng cần có đầy đủ năng lực
cũng như đạo đức thì mới đem lại hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
Thông tin về tài sản bảo đảm.
Thực tế chứng minh rằng, việc tập hợp những dữ liệu thông tin đầy đủ chính xác
của khách hàng vay và phân tích khoa học những thông tin đó sẽ tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả công tác tín dụng, bảo đảm an toàn nợ vay cũng như xử lý tài sản để thu
hồi nợ vay trong trường hợp bất khả kháng. Những thông tin chính xác giúp ích rất
nhiều đến việc cho vay có an toàn hay không, dến quản lý khoản vay và tình ình thu
nợ cũng như xử lý nợ vay.Các ngân hàng cũng cần phải có hệ thống thu thập thông tin
nhanh chóng và chính xác. Trong đó, việc thu thập thông tin về tài sản bảo đảm có ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác xử lý tài sản bảo đảm.
Các loại tài sản bảo đảm thường rất đa dạng, phức tạp về chất lượng và giá cả.Vì
vậy, việc thu thập thông tin về tài sarnbaro đảm một cách đầy đủ sẽ giúp cán bộ tín
dụng có thể đánh giá chính xác về chúng để từ đó ra quyết định cho vay một cách hợp
25



×