Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

HOẠT ĐỘNG CHO VAY DOANH NGHIỆP NHỎ và vừa tại NGÂN HÀNG THƯƠNG mại cổ PHẦN đầu tư và PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH sở GIAO DỊCH 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.39 KB, 57 trang )

CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA
1.1.

Cơ sở lý luận về cho vay đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng

thương mại
1.1.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2005 : “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản, có quyền
và nghĩa vụ dân sự, hoạt động theo chế độ hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về toàn
bộ hoạt động kinh tế va chịu sự quản lý của Nhà nước bởi Luật Doanh nghiệp và các quy
định khác của pháp luật. Nói cách khác, doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành
lập và tổ chức sản xuất ra sản phẩm để sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ nhằm
thỏa mãn nhu cầu của thị trường và kết quả thu về là lợi nhuận, tích lũy được vốn để tiếp
tục tái đầu tư phát triển kinh doanh ngày càng cao hơn.
Loại hình DNNVV phát triển khá phổ biến ở các nước đang phát triển, nhất là các nước
trong khu vực ASEAN. Ở Việt Nam, nhóm doanh nghiệp này có vị thế quan trọng trong
quá trình thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Theo Điều 3 của Nghị định số 90/2201/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp
phát triển DNNVV thì DNNVV được định nghĩa : “ DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không
quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người.”
Theo Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 06 năm 2009 về
trợ giúp phát triển DNNVV, thì : “ DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật, được chia thành ba cấp : siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô



tổng nguồn vốn ( tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm ( tổng nguồn vốn là tiêu
chí ưu tiên) .”
Cụ thể như sau :
Bảng 1.1: Phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy mô về vốn và số lao động
Quy mô

Doanh
nghiệp

Doanh nghiệp nhỏ
siêu

nhỏ
Số lao động

Khu vực

(người)

Doanh nghiệp vừa

Tổng

Số lao động Tổng

nguồn vốn (người)

nguồn


(tỷ VNĐ)

vốn

Số

lao

động
(tỷ (người)

VNĐ)
Nông, lâm nghiệp & thủy
sản
Công

nghiệp



xây

dựng
Thương mại và dịch vụ

<10

<20


10-200

20 - 100

200-300

<10

<20

10-200

20 - 100

200-300

<10

<10

10-50

10-50

50-100

1.1.1.2. Đặc điểm của DNNVV
- Về vốn :

DNNVV có nguồn vốn nhỏ, thường là những doanh nghiệp khởi sự thuộc khu vực

kinh tế tư nhân, việc khởi sự kinh doanh và mở rộng quy mô đầu tư, đổi mới công
nghệ, thiết bị được thực hiện chủ yếu bằng một phần vốn tự có và tín dụng khác
như vay, mượn bạn bè, người thân hay từ các tổ chức tài chính khác trong xã hội.
DNNVV thường hướng vào những lĩnh vực phục vụ trực tiếp đời sống, những sản
phẩm có sức mua cao, thị trường tiêu thụ lớn, nên huy động được các nguồn lực xã
hội, các nguồn vốn còn tiềm ẩn trong dân.
DNNVV có vốn đầu tư ban đầu ít nên chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thường ngắn dẫn đến khả năng thu hồi vốn nhanh tạo điều kiện cho doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả. Với quy mô vừa và nhỏ các doanh nghiệp này rất linh


hoạt, dễ thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của thị trường, thích hợp với điều
kiện sử dụng các trình độ kỹ thuật khác nhau như thủ công, cơ khí và bán cơ khí
để sản xuất ra những sản phẩm thích ứng với yêu cầu của nhiều tầng lớp dân cư có
thu nhập khác nhau.
Dễ khởi nghiệp, phát triển rộng khắp ở cả thành thị và nông thôn, thông thường
để thành lập một doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần vốn đầu tư ban đầu không lớn,
mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng vừa phải. Đặc điểm này làm cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa năng động, phát triển ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề;
tạo điều kiện cho nền kinh tế khai thác mọi tiềm năng, tạo ra một thị trường cạnh
tranh lành mạnh hơn.
-

Về lao động:
Phần lớn các DNNVV sử dụng nhiều lao động giản đơn, quy mô lao động nhỏ,
trình độ tay nghề chưa cao, đa số là sử dụng lao động hộ gia đình, thuê và tuyển
dụng ở các tỉnh. Lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn.
Trình độ quản lý và tay nghề của người lao động còn hạn chế. Đội ngũ quản lý còn
thiếu trình độ, kỹ năng quản lý, sử dụng kinh nghiệm là chủ yếu, chưa có chuyên
môn. Tuy Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, trình độ học vấn tương đối cao

so với các nước có cùng trình độ phát triển, nhưng chủ yếu là lao động làm việc
giản đơn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề thấp, năng suất lao động không cao.
Số lượng DNNVV có chủ doanh nghiệp giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng
lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo
bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng
quản trị kinh doanh. Mặt khác, DNNVV ít có khả năng thu hút những nhà quản lý
và lao động có trình độ, tay nghề cao do khó có thể trả lương cao và có các chính
sách đãi ngộ hấp dẫn để thu hút và giữ chân những nhà quản lý cũng như những
người lao động giỏi.

-

Về công nghệ và máy móc thiết bị :


Công nghệ và máy móc thiết bị của các DNNVV thường lạc hậu do chi phí đầu tư
công nghệ mới và kỹ thuật hiện đại cao nên thường vượt quá khả năng của các
DNNVV với qui mô vốn hạn chế. Trình độ công nghệ, kỹ thuật lạc hậu so với
mức trung bình của thế giới, hơn nữa tốc độ đổi mới lại chậm. Hạn chế về năng
lực cán bộ và công tác nghiên cứu trong doanh nghiệp, nghiên cứu để ứng dụng
sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có những sáng kiến đổi mới công
nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này
tạo nên sự khác biệt về sản phẩm để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tồn tại
-

trên thị trường.
Về năng lực cạnh tranh:
Năng lực kinh doanh còn hạn chế do quy mô vốn nhỏ nên các DNNVV không có
điều kiện đầu tư để nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công nghệ tiên

tiến, hiện đại. Việc sử dụng các công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm
không cao, tính độc đáo không cao, giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản phẩm nói
chung thấp, tính cạnh tranh trên thị trường kém. DNNVV cũng gặp nhiều khó
khăn trong việc tìm kiếm, thâm nhập thị trường và phân phối sản phẩm do thiếu
thông tin về thị trường. Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt đối với thị
trường nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do các DNNVV thường là những
doanh nghiệp mới hình thành, công tác tiếp thị còn kém hiệu quả và cũng chưa có
nhiều khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các doanh
nghiệp này thường phục vụ cho nhu cầu của địa phương, việc mở rộng ra các thị
trường mới là rất khó khăn đã hạn chế năng lực cạnh tranh của các DNNVV.

-

Về năng lực quản trị :
Một đặc điểm của DNNVV nước ta hiện nay là sản xuất kinh doanh theo cách tự
phát, tự điều hành, quản lý còn mang tính gia đình. Quản trị nội bộ của các
DNNVV còn yếu, nhất là quản lý tài chính, ý thực chấp hành các chế độ chính
sách chưa cao, còn lúng túng trong việc liên kết, nhất là kiên kết trong cùng một
hội ngành nghề. Khả năng liên kết của các DNNVV còn hạn chế do tư tưởng


mạnh ai nấy làm, và do chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu DN lớn. Trong
khi đó ở nhiều nước DNNVV chính là đơn vị cung cấp nguyên phụ liệu cho các
DN lớn, tạo thành chuỗi cung ứng hiệu quả.
Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế

1.1.1.3.
-

Các DNNVV cung cấp một lượng sản phảm hàng hóa dịch vụ đáng kể cho nền

kinh tế, các DNNVV hoạt động trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau
trong nền kinh tế, cung cấp nhiều chủng loại cũng như số lượng hàng hóa, sản
phẩm đáng kể cho thị trường trong nước và tiến ra thị trường nước ngoài

-

Các DNNVV trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao
động. DNNVV qua đó góp phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội

-

Hoạt động của các DNNVV góp phần làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả
kinh tế cao. Với bộ máy quản lý nhỏ, gọn DNNVV sẽ dế dàng kinh doanh, xâm
nhập vào hầu hết các ngõ ngách của thị trường mà doang nghiệp lớn khó có thể
làm được, đồng thời là mạng lưới tiêu thụ cho những doanh nghiệp lớn.
Với quy mô vốn và lao động không lớn, các DNNVV dễ dàng được thành lập,
chuyển đổi về mặt hàng sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy, các doanh nghiệp
này đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hóa và cung cấp hàng hóa dịch
vụ bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, đồng thời là mạng lưới tiêu thụ hàng hóa
cho doanh nghiệp lớn, góp phần tích cực trong khâu phân phối hàng hóa, đảm bảo
nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội và bình ổn giá cả giữa các vùng và các địa
phương.
Các DNNVV đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú
và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn khó làm được. DNNVV đã góp phần tạo môi
trường kinh doanh, tự do cạnh tranh và giảm độc quyền, đẩy nhanh tiến trình hội
nhập quốc tế; phát huy được tiềm lực trong nước trong điều kiện nền kinh tế có
xuất phát điểm với nguồn vốn thấp, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, trình độ kỹ


năng lao động còn yếu, góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng,

-

miền trong một quốc gia.
Các DNNVV có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác
tiềm năng, thế mạnh của từng vùng.
Phát triển các DNNVV sẽ giúp các địa phương khai thác thế mạnh về đất đai, tài

-

nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa phương.
Các DNNVV góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và
phân công lao động giữa các vùng, địa phương. Sự phát triển của DNNVV có thể
góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong một
nước, thu hút ngày càng nhiều lao động ở nông thôn, chủ yếu tập trung vào ngành
phi nông nghiệp, công nghiệp và đã giúp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa
phương, cơ cấu ngành, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của quốc gia.

1.1.2. Dịch vụ cho vay đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Dịch vụ ngân hàng
 Khái niệm :

Hiện nay chưa có định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tính đa dạng, phức tapk, vô
hình của các loại hình dịch vụ làm cho việc thống nhất khái niệm dịch vụ trở nên
khó khăn. Không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, mỗi quốc gia đều có những
cách hiểu về dịch vụ khác nhau, chính vì vậy trong hiệp định về thương mại dịch
vụ ( GATS) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng không đưa ra khái
niêm về dịch vụ mà thay vào đó là sự liệt kê dịch vụ thành 12 ngành lớn gồm 155
phân ngành. Còn trong từ điển bách khoa Việt Nam giải thích : dịch vụ là hoạt
động phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt.
Trên thế giới, vấn đề dịch vụ ngân hàng được hiểu theo nghĩa rộng, tức là toàn bộ

hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối… của ngân hàng đối với doanh
nghiệp và công chúng.
Ở Việt Nam, trong Luật các TCTD năm 1997, cụm từ “ dịch vụ ngân hàng” cũng
đề cập tại Khoản 1 và Khoản 7 Điều 20 nhưng không có định nghĩa. Cụ thể, “
Khoản 1. Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng”, “ Khoản 7. Hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung


thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng
dịch vụ thanh toán”
Theo giáo trình Quản trị tác nghiệp Ngân hàng Thương mại của Trường Đại học
-

Thương mại, dịch vụ ngân hàng được khái niệm như sau
Theo nghĩa rộng : dịch vụ ngâ hàng bao gồm toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín
dụng, thanh toán , ngoại hối của ngân hàng. Quan điểm này phù hợp với cách phân
ngành dịch vụ ngân hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam – Hoa Kỳ cũng như cách phân loại của nhiều nước phát triển

-

trên thế giới.
Theo nghĩa hẹp : dịch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động không thuộc
phạm vi kinh doanh tiền tệ và các nghiệp vụ ngân hàng theo chức năng trung gian
tài chính ( huy động tiền gửi, cho vay ). Như vậy, dịch vụ ngân hàng chi bao gồm
những hoạt động ngoại bảng , dịch vụ thu phí như chuyển tiền, bảo lãnh, thanh
toán quốc tế…
Trong phạm vi bài khóa luận, dịch vụ ngân hàng được hiểu theo nghĩa rộng , phù
hợp với quan niệm phổ biến trên thế giới hiện nay.

 Đặc điểm:

Giống như các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ ngân hàng cũng mang những đặc trưng
cơ bản sau


Tính vô hình
Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt sản phẩm dịch vụ ngân hàng với các sản
phẩm của các ngành sản xuất khác. Cũng giống như các dịch vụ khác, dịch vụ
ngân hàng cũng không có hình thái vật chất cụ thể. Khách hàng tiếp nhận và tiêu
dùng dịch vụ ngân hàng thông qua hoạt động giao tiếp, tiếp nhận thông tin và kết
quả là nhu cầu được đáp ứng. Cũng có một đặc điểm đặc biệt là khách hàng chỉ có
thể đánh giá được chất lượng dịch vụ sau khi đã mua và sử dụng chúng. Dịch vụ
ngân hàng cũng có điểm khác hàng hóa vật chất ở chỗ không có sản phẩm dở



dang, không lưu trữ được.
Tính đồng thời
Dịch vụ ngân hàng có đặc điểm này là do việc cung ứng và tiêu dùng dịch vụ luôn
xảy ra đồng thời, không tách rời nhau. Dịch vụ ngân hàng chỉ được cung ứng khi


khách hàng có nhu cầu sử dụng đáo ứng một số điều kiện nhất định của nhà cung
cấp là ngân hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng tới việc xác định giá cả dịch vụ nhằm
đảm bảo lợi ích của cả hai bên. Các ngân hàng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của khách hàng thì sẽ càng thu được khoảng cách giữa việc cung ứng và tiêu dùng
dịch vụ ngân hàng. Kết quả là ngân hàng sẽ ngày càng có nhiều khách hàng hơn



và kèm theo là thu nhập của ngân hàng tăng lên.
Tính không ổn định và khó xác định khối lượng
Là một loại hình dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân hàng do đó sẽ chịu rất nhiều tác
động từ các yếu tố của môi trường kinh doanh. Trong điều kiệm nền kinh tế phát
triển theo xu hướng hội nhập, thì sự biến động của các yếu tố thuộc môi trường
kinh doanh càng lớn và khó có thể lường trước. Chất lượng của các dịch vụ ngân
hàng cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cả về yếu tố khách quan như trình độ
thụ hưởng dịch vụ của khách hàng, thói quen, tập quán…đến các yếu tố chủ quan
như uy tín, vị thế của ngân hàng cung cấp dịch vụ, trình độ cán bộ, chính sách
marketing… Do vậy, có thể nói dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ có tính
không ổn định và khó xác định được khối lượng chính xác.
 Các dịch vụ chính của ngân hàng thương mại

Tùy theo chiến lược kinh doanh, mỗi ngân hàng có thể cung cấp số lượng dịch vụ
khác nhau, nhưng nhìn chung các NHTM đều cung cấp hai nhóm dịch vụ, đó là :
dịch vụ truyền thống và dịch vụ ngân hàng mới phát triển trong những năm gần
đây
• Các dịch vụ truyền thống



Trao đổi ngoại tệ
Chiết khấu thương phiếu

và cho vay thương mại
 Nhận tiền gửi
 Dịch vụ thanh toán






Bảo quản vật có giá
Tài trợ các hoạt động của

Chính phủ
 Cung cấp dịch vụ ủy thác

Dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây


Cho vay tiêu dùng



Tư vấn tài chính









Quản lý tiền
Dịch vụ cho thuê thiết bị
Cho vay tài trợ dự án
Bán các dịch vụ bảo hiểm
Cung cấp kế hoạch hưu trí

Cung cấp dịch vụ môi giới

đầu tư chứng khoán
 Cung cấp dịch vụ tương hỗ
và trợ cấp



Cung cấp dịch vụ ngân
hàng đầu tư và ngân hàng



bán buôn
Các dịch vụ ngân hàng
hiện đại : dịch vụ tư vấn tài
chính cá nhân và dịch vụ
ngân hàng trực tuyến


1.1.2.2. Dịch vụ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa




Theo QĐ 1627/2001 và 127/2005/QĐ-NHNN : “Cho vay là một hình thức cấp tín

dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích và một thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi”. Dịch vụ cho vay của ngân hàng giúp cho khách hàng có vốn để mở rộng

sản xuất kinh doanh hoặc thực hiện các dự án lớn, phương án sản xuất kinh doanh.
• Theo đó, dịch vụ cho vay đối với DNNVV là hình thức cho vay mà theo đó
NHTM cho DNNVV sử dụng một khoản tiền để dùng vào mục đích và thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi
1.1.2.3. Các hình thức cho vay đối với DNNVV
• Dịch vụ cho vay là một trong những dịch vụ kinh doanh của yếu, mang lại phần

thu nhập lớn cho ngân hàng. Dịch vụ cho vay thực hiện tốt thì ngân hàng sẽ vững
mạnh và phát triển, ngược lại thì ngân hàng sẽ đi đến chỗ phá sản. Cùng với sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế với nhiều loại hình kinh tế đa dạng và phức tạp
thì dịch vụ cho vay cũng ngày càng phát triển, phong phú đa dạng về hình thức,
thể loại, phương thức. Các dịch vụ cho vay đối với DNNVV bao gồm
• Dịch vụ cho vay từng lần
• Dịch vụ cho vay từng lần là dịch vụ cho vay mà mỗi lần vay vốn người vay và tổ
chức tín dụng đều làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Từng
khoản vay là nột hợp đồng tín dụng và gắn với một phương án sử dụng vốn cụ thể.
Dịch vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, do vậy ngân hàng có thể kiểm soát
từng món vay tách biệt.
• Dịch vụ cho vay theo hạn mức tín dụng
• Đây là dịch vụ cho vay mà ngân hàng và khách hàng xác định và thỏa thuận một

hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định, thông thường không
quá 12 tháng. Khác với dịch cho vay từng lần, trong dịch vụ này ngân hàng sẽ
không định kỳ hạn nợ cho từng món tiền vay mà chỉ khống chế theo hạn mức tín
dụng có nghĩa là vào một thời điểm nào đó nếu dư nợ vay của khách hàng lên tới
mức tối đa cho phép thì khi đó ngân hàng sẽ không phát tiền vay cho khách hàng.
Ưu điểm của dịch vụ này là thủ tục cho vay đơn giản, khách hàng chủ động được


nguồn vốn vay. Tuy nhiên, do các lần vay không tách bạch thành các kỳ hạn nợ cụ

thể nên ngân hàng khó kiểm soát được hiệu quả sử dụng từng lần vay.
Dịch vụ cho vay với hình thức chiết khấu giấy tờ có giá



Chiết khấu giấy tờ có giá là một dịch vụ cho vay có thời hạn ngắn hạn,



trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu các giấy tờ có giá chưa đến hạn
cho ngân hàng để nhận một khoản tiền bằng mức chiết khấu của giấy tờ có giá trừ
đi lãi chiết khấu.


Dịch vụ cho vay theo hạn mức thấu chi

Dịch vụ cho vay theo hạn mức thấu chi là dịch vụ theo đó ngân hàng cho
phép người vay được chi vượt số tiền có trên số dư tài khoản thanh toán của mình
đén một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là
hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản cùa mình, ngân hàng
sẽ thu nợ gốc và lãi. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, có thể cấp cho khách
hàng là doanh nghiệp và cá nhân, thủ tục đơn giản. Phương thức này giúp cho



khách hàng chủ động trong quan hệ thanh toán.
Dịch vụ cho vay theo dự án đầu tư


Trong dịch vụ cho vay này, ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực


hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư
phục vụ đời sống. Để tiến hành cho vay, ngân hàng sẽ căn cứ vào hồ sơ vay vốn để
tiến hành thẩm định dự án đầu tư, nếu chấp thuận cho vay ngân hàng sẽ ký hợp
đồng tín dụng. Không chấp thuận cho vay ngân hàng sẽ có giấy gửi tới khách hàng
nêu rõ lý do không cho vay.


Dịch vụ cho vay trả góp


Đây là dịch vụ cho vay nhằm giúp người vay có điều kiện để mua sắm máy

móc thiết bị. Theo đó ngân hàng và khách hàng sẽ xác định và thỏa thuận số tiền
lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong
thời hạn cho vay. Phương thức cho vay này thường áp dụng đối với người vay có


phương án trả nợ gốc và lãi vay khả thi bằng các khoản thu nhập chắc chắn, ổn
định.


Dịch vụ cho vay hợp vốn


Dịch vụ cho vay hợp vốn là dịch vụ trong đó một nhóm các ngân hàng cùng

vay đối với một dự án hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong cho vay
hợp vốn, một ngân hàng là đầu mối dàn xếp, phối hợp với các ngân hàng khác.
Việc cho vay được thực hiện theo chế độ đồng tài trợ và quy chế tín dụng của các

tổ chức tín dụng do Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành.
-

Các dịch vụ cho vay khác


Ngoài những dịch cho vay đã nêu ở trên, các ngân hàng còn áp dụng một số

dịch vụ cho vay như: dịch vụ cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng
thẻ tín dụng, dịch vụ cho vay ủy thác…
1.1.2.4. Vai trò của dịch vụ cho vay đối với DNNVV


Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các DNNVV là một

tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng vốn vay ngân
hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng
vốn của mình. Vốn vay ngân hàng đầu tư cho các DNNVV đóng vai trò rất quan
trọng,nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó
tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện
các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Để thấy được vai trò của
hoạt động cho vay ngân hàng trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, ta xét
một số vai trò sau:


Góp phần đảm bảo cho hoạt động của các DNNVV được liên tục.





Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải

tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để
tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không một doanh
nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn
vay của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ
bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần
thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đựơc liên tục.


Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNVV


Khi sử dụng vốn vay, các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng

phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các điều khoản
của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi
các doanh nghiệp muốn có vốn vay của ngân hàng phải có phương án sản xuất
khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm cách sử
dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi
nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Trong quá trình cho vay, ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi
giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.


Góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DNNVV


Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào dùng vốn tự có để sản


xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối
ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với cácDNNVV do hạn chế về vốn nên việc sử
dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp vì nếu sử dụng thì giá vốn
sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Để hiệu quả thì doanh nghiệp
phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay
nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.


Góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNVV




Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại

và đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh.
Đặc biệt đối với các DNNVV, do có một số hạn chế nhất định, việc chiếm lĩnh
ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là
một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là tăng
cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị kỹ
thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn đầu
tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì
phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển
không còn nữa. Như vậy có thể đáp úng kịp thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chỉ có thể tìm đến vốn vay ngânh hàng. Chỉ có vốn vay ngân hàng mới có thể
giúp doanh nghiệp thưc hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển sản
xuất kinh doanh.
1.2. Cơ sở lý luận về chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1. Khái niệm chất lượng dịch vụ cho vay

• Dịch vụ cho vay là một trong những dịch vụ mang lại doanh thu chủ yếu cho các

NHTM, do đó, chất lượng dịch vụ cho vay luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu


ở các ngân hàng.
Chất lượng dịch vụ cho vay của DNNVV được hiểu là sự đáp ứng về số lượng và
chất lượng đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng và đảm bảo các yếu tố an toàn
và lợi nhuận đối với ngân hàng. Như vậy, để hiểu dược khái niệm chất lượng dịch
vụ cho vay, chúng ta cần tiếp cận trên 3 giác độ, đó là : ngân hàng và khách hàng




Dưới mỗi góc độ, chất lượng cho vay lại được thể hiện một cách khác nhau.
Đối với ngân hàng
Chất lượng dịch vụ cho vay được thể hiện qua mức độ an toàn và sinh lời của các
khoản cho vay cấp cho khách hàng. Chất lượng dịch vụ cho vay tốt được phản ánh
thông qua độ an toàn cao, ngân hàng không đứng trước nguy cơ bị mất vốn, bên
cạnh đó, khách hàng còn thanh toán lãi cho ngân hàng, tức là đảm bảo tính sinh
lời, giúp ngân hàng có thể ổn định và phát triển. Chất lượng dịch vụ cho vay tốt
được phản ánh thông qua tốc độ tăng trưởng cho vay cao, tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn


thấp và nằm trong phạm vi quy định, cơ cấu cho vay hợp lý, lợi nhuận từ hoạt
động cho vay cao.
• Đối với khách hàng
• Chất lượng dịch vụ cho vay được thể hiện ở sự đáp ứng nhu cầu vốn của khách
hàng với một lãi suất hợp lí, thủ tục đơn giản, nhanh gọn, thuận tiện, hình thức và
thời hạn cho vay hợp lí, phù hợp với tình hình, tiến độ sản xuất kinh doanh. Trong

điều kiện hiện nay, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng là rất gay gắt, chính vì vậy,
xét trên giác độ khách hàng, ngân hàng nào có chất lượng dịch vụ cho vay tốt hơn
sẽ thu hút được đông đảo các doanh nghiệp và cá nhân đến vay vốn, từ đó mới có
thể tồn tại và phát triển được.
Nh



ư vậy, chất lượng dịch vụ cho vay có thể được nhìn nhận từ hai giác độ nói trên.
Chất lượng cho vay phải thỏa mãn đồng thời cả hai mục tiêu của ngân hàng và
khách hàng .Nhưng có thể nhận thấy rõ ràng là các mục tiêu này mâu thuẫn, xung
đột lẫn nhau. Ngân hàng muốn nâng cao lợi nhuân thì mức lãi suất phải cao, khoản
cho vay phải được hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi. Nhưng đối với khách hàng,
họ muốn tối thiểu hóa chi phí nên mức lãi suất phải thấp, tiến độ giải ngân và trả
nợ phải phù hợp với tiến độ sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, chất lượng dịch vụ
cho vay tốt là phải dung hòa được hai mục tiêu xét trên giác độ ngân hàng và
khách hàng.Có như vậy, dịch vụ cho vay mới đảm bảo cho ngân hàng ổn định,
phát triển bền vững, tạo được niềm tin trong lòng khách hàng, thoả mãn tốt nhu
cầu khách hàng, và đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội ổn định và phát
triển bền vững.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và

vừa của ngân hàng thương mại


Việc nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay đối với các DNNVV đón vai trò

quan trọng đối với cả bản thân doanh nghiệp, ngân hàng cũng như toàn xã hội. Để



thấy được sự cần thiết của nâng cao chất lượng dịch cho vay ta hãy xem xét ý
nghĩa và vai trò của việc nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNVV


Đối với DNNVV
• Đối với doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng, chất lượng dịch vụ cho
vay cao tức là khoản vay chính đáng của doanh nghiệp được đáp ứng một cách
kịp thời, nhanh chóng, quá trình giải ngân phù hợp với yêu cầu kinh doanh, chi
phí vốn vay thấp, thủ tục nhanh gọn và hiệu quả sử dụng vốn cao.
• Khi nhận được vốn tài trợ phù hợp của ngân hàng, DNNVV có thể đầu tư theo
mục đích vay vốn nhằm cải thiện công nghệ, mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, nâng cao năng suất…từ đó đem lại thu nhập cao hơn cho doanh nghiệp.
Do đó, các DNNVV luôn muốn chọn cho doanh nghiệp một ngân hàng có chất

lượng cho vay tốt.
• Đối với NHTM
• Dịch vụ cho vay là một trong những hoạt động sinh lời quan trọng nhất của các
NHTM. Khi ngân hàng tìm cách nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay tức là ngân
hàng tìm cách mở rộng dịch vụ cho vay một cách đảm bảo, để có thể vừa mở rộng
vừa thu hồi lãi và gốc đúng hạn. Nghĩa là nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay sẽ
làm tăng doanh thu cho ngân hàng. Nhờ đó, ngân hàng có thể tiếp tục mở rộng tín
dụng cũng như cá dịch vụ khác.
• Nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay cũng giúp tăng tuy tín của ngân hàng, từ đó
thu hút được khách hàng mới, tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đó
cũng là mục tiêu phát triển bền vững của các NHTM, cạnh tranh bằng cách nâng
cao chất lượng dịch vụ. Do đó, nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay là xu thế phát



triển tất yếu của các NHTM.

Đối với nền kinh tế
Khi các NHTM nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay, tức là mở rộng cho vay đã
đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Những khoản cho vay chất lượng tốt này lại
tạo ra lợi nhuận cho xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Hoạt động
nâng cao dịch vụ chất lượng cho vay đã góp phần thực hiện các mục tiêu của Nhà

nước, góp phần đưa kinh tế ngày càng phát triển vững mạnh hơn.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay đối với DNNVV


Chất lượng dịch vụ cho vay đối với DNNVV là một khái niệm vừa cụ thể



( thông qua các chi tiêu định lượng có thê tính toán được như kết quả kinh doanh,
nợ quá hạn…) lại vừa trừu tượng ( thể hiện ở khả năng thu hút khách hàng, đóng
góp vào nền kinh tế…). Từ đó, để đánh giá chất lượng dịch vụ cho vay của
NHTM đối với các DNNVV, người ta chia làm hai nhóm chỉ tiêu : nhóm chỉ tiêu
định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng.
1.3.1. Chỉ tiêu định tính



Khó có thể đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể cho các tiêu chuẩn định tính. Do

đó, tùy vào mỗi ngân hàn khác nhau sẽ tự xác định tiêu chí cho các chỉ tiêu định
tính. Có thể kể đến một số chỉ tiêu sau:


Tuân thủ theo cơ sở pháp lý, nguyên tắc và quy trìn tín dụng



Dịch vụ cho vay có chất lượng phải tuân thủ các quy định pháp luật của

Nhà nước: Luật các tổ chức tín dụng, các quy chế cho vay, các văn bản của Ngân
hàng Nhà nước và các văn bản có liên quan.


Khi thực hiện dich vụ cho vay, phải luôn đảm bảo tuân thủ các quy trình

cho vay, nguyên tắc cho vay vì nó giúp phòng ngừa rủi ro, đánh giá chất lượng
cho vay. Dịch vụ cho vay của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm
đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa
trong quy định của Ngân hàng Nhà nước và các NHTM. Có thể kể đến ba nguyên
tắc cơ bản


Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi với thời gian xác định đã thỏa
thuận trong hợp đồng cho vay.



Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục địch đã thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng



Ngân hàng chỉ được tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả.





Nếu ngân hàng thực hiện đúng theo quy trình cho vay thì ngân hàng có thể

đánh giá đúng tình hình tài chính của khách hàng, từ đó, giúp đưa ra quyết định
tài trợ hợp lý, đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro cho ngân hàng.


Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với yêu
cầu cạnh tranh, phát triển kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ cụ thể


Chỉ tiêu trên được thể hiện trong chính sách tín dụng của ngân hàng. Chính

sách tín dụng cho ta biết về cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, hướng dẫn chung
cho cán bộ, nhân viên ngân hàng tăng cường chuyên môn và tạo sự thống nhất.
Chính sự tín dụng của ngân hàng cũng cho biết được chiến lược phát triển tín
dụng của ngân hàng.


Mức độ thỏa mãn nhu cầu tìa trợ của khách hàng và chi phí cho vay
• Chất lượng cho vay của ngân hàng với khách hàng được cho là tốt khi mà ngân

hàng có khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách
hàng. Để đảm bảo yêu cầu trên, ngân hàng cần có hệ thống đánh giá, dự báo,
phân tích nhu cầu của khách hàng thật chính xác, từ đó nâng cao chất lượng cho
vay. Đồng thời, việc đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý của khách hàng một cách nhanh
chóng giúp làm tăng thêm uy tín của ngân hàng.



Đóng góp của dịch vụ cho vay của ngân hàng vào sự phát triển kinh tế - xã hội
• Thông qua cho vay đối với DNNVV thì các ngân hàng đã góp phần vào sự phát

triển chung của kinh tế - xã hội, tăng việc làm, thúc đẩy sản xuất… Tuy nhiên,
đây là một chi tiêu khó có thể đánh giá chính xác.
1.3.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng


Vì các chỉ tiêu định tính rất khó xác định hiệu quả thực hiện, nên người ta

thường sử dụng các chỉ tiêu định tính làm các chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất


lượng của dịch vụ cho vay. Đây là các chỉ tiêu rất quan trọng với các NHTM,
thông qua các chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xác định một cách tương đối chính
xác về chất lượng dịch vụ cho vay đối với DNNVV của ngân hàng. Do đó, việc
tính toán cần đảm bảo sự chính xác và đầy đủ
Nhóm chỉ tiêu phân tích quy mô, cơ cấu khoản vay DNNVV

1.3.2.1.



 Quy mô dịch vụ cho vay DNNVV
Doanh số cho vay

Là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá một cách khái quát và có hệ thống đối với

những khoản vay tại một thời điểm. Khi xác định doanh số cho vay, chưa có sự
đánh giá cụ thể về chất lượng và phần ròng của những khoản vay trong một thời

kỳ nhất định. Nhưng đây là chỉ tiêu cho biết khả năng luân chuyển sử dụng vốn
của một ngân hàng. Quy mô đầu tư và cấp vốn tín dụng của ngân hàng đó với
nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ.
• Doanh số thu nợ

Là chỉ tiêu phản ánh số tiền ngân hàng thu hồi được của các khoản cho vay
trong một thời kỳ xác định. Chỉ tiêu này chiếm tỷ trọng càng lớn so với doanh số
phát vay thì hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng càng cao, ngược lại ngân
hàng sẽ phải đối diện với nguy cơ rủi ro vỡ nợ cao hơn.
• Dư nợ cho vay


Tổng dư nợ cho vay là chỉ tiêu tuyệt đối, thể hiện được mối quan hệ tín

dụng giữa ngân hàng với khách hàng, đồng thời là chỉ tiêu phản ánh phần vốn
đầu tư hiện đang còn lại tại một thời điểm của ngân hàng sau khi đã cho vay
nhưng chưa thu về. Đồng thời chỉ tiêu dư nợ cho vay cũng phản ánh mối quan hệ
với doanh số cho vay theo công thức: Dư nợ đầu kỳ + Doanh số cho vay –
Doanh số thu nợ = Dư nợ cuối kỳ) với khả năng đáp ứng nguồn vốn của các
NHTM đối với nhu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế.
 Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay


Chỉ tiêu này cho biết so với kỳ trước thì dư nợ cho vay DNNVV kỳ này



tăng trưởng bao nhiêu %. Ngân hàng có tốc độ tăng trưởng dư nợ cao sẽ mang lại
lợi nhuận cao cho ngân hàng, nhưng khi xem xét cần đặt chỉ tiêu này trong tương
quan với các chỉ tiêu đánh giá rủi ro để đưa ra nhận xét chính xác về thực trạng

cho vay của ngân hàng.



 Tỷ trọng dư nợ DNNVV




Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ cho vay DNNVV trong tổng

dư nợ cho vay của một ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau, cho phép nghiên
cứu biến động quy mô, khối lượng cho vay DNNVV


Chỉ tiêu này cũng có thể dùng so sánh giữa các ngân hàng khác nhau để

thấy được thế mạnh của ngân hàng này so với thế mạnh của ngân hàng khác
trong dịch vụ cho vay DNNVV. Tuy nhiên, có thể coi đây như một chỉ tiêu định
lượng để có thể thấy rõ bản chất, vai trò của dịch vụ cho vay DNNVV trong một
ngân hàng.
1.3.2.2. Nhóm chỉ tiêu phân tích chất lượng dịch vụ cho vay DNNVV
 Tỷ lệ nợ quá hạn





Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoả


thuận trên hợp đồng. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng mất vốn của ngân hàng. Tỷ
lệ nợ quá hạn càng cao thì khả năng mất vốn càng cao, chất lượng tín dụng thấp
 Tỷ lệ nợ xấu




Theo Quyết định 493/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005 của

Ngân hàng Nhà nước đưa ra định nghĩa thì:.


Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới chuẩn),

nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).




Rõ ràng tỷ lệ này càng cao, thì tín dụng có hiệu quả càng thấp. Nợ xấu có

nguy cơ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng và nếu có quá nhiều nợ xấu sẽ có thể
làm cho ngân hàng phá sản. Các ngân hàng đang cố gắng giảm đến mức tối đa
các khoản nợ xấu để làm tăng hiệu quả của dịch vụ cho vay DNNVV
 Tỷ lệ nợ không thể thu hồi DNNVV




Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng cho vay DNNVV thì có bao


nhiêu đồng không thể thu hồi được vốn.


Hệ số này ở mức 0% là tốt nhất, ở mức <1% là bình thường, ở mức

>1% là có vấn đề, ngân hàng cần chú trọng xem xét nguyên nhân để tìm biện
pháp khắc phục.
1.3.2.3. Chỉ tiêu lợi nhuận từ dịch vụ cho vay DNNVV
• Tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ cho vay đối với DNNVV


• Chỉ tiêu này cho phép thấy rõ hơn vị trí của dịch vụ cho vay DNNVV trong hoạt

động của ngân hàng. Thu từ dịch vụ cho vay DNNVVcó hiệu quả cao sẽ đóng góp lớn
vào thu nhập ngân hàng. Nếu dịch vụ cho vay DNNVV có hiệu quả không tốt thì thu
không được nợ gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của ngân hàng, nên sẽ kéo theo lợi
nhuận giảm tương ứng.


1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ cho vay DNNVV
1.4.1. Nhân tố chủ quan
 Chính sách tín dụng của ngân hàng đối với DNNVV


C

hính sách tín dụng là một tập hợp các biện pháp mang tính đặc thù của mỗi
ngân hàng để định hướng cho hoạt động tín dụng.



M

ỗi một ngân hàng đều có một chính sách tín dụng riêng cho mình. Chính sách
tín dụng quyết định sự thành bại của mỗi ngân hàng. Nó bao gồm hệ thống các
quy định về hạn mức, lãi suất, thời hạn, đối tượng khách hàng, các quy định,
ràng buộc đối với khách hàng, quy trình thẩm định, giải ngân, giám sát sau khi
cấp tín dụng, quy định về tài sản đảm bảo…Chính vì vậy, nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng tín dụng. Một ngân hàng có chính sách tín dụng hợp lí và
đúng đắn sẽ tạo được niềm tin và sự hấp dẫn đối với khách hàng. Một chính
sách tín dụng đúng hướng đòi hỏi phải tuân thủ đúng pháp luật, phù hợp với
điều kiện cụ thể của mỗi ngân hàng, khai thác được thế mạnh của mỗi ngân
hàng trên từng lĩnh vực, tạo ra sự cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tài
chính, đảm bảo tính an toàn và sinh lời cho sự phát triển của ngân hàng. Chính
sách tín dụng là nền móng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trên cơ sở
nền móng vững chắc ấy, hoạt động tín dụng mới được xây dựng và phát triển
đúng hướng. Đây cũng chính là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng. Chính
sách tín dụng đúng đắn sẽ giúp cho cán bộ tín dụng có phương hướng triển khai
công việc một cách thuận lợi, hiệu quả, nhanh chóng, hạn chế rủi ro, tiết kiệm
công sức cũng như chi phí.
 Công tác tổ chức ngân hàng


Cũng như bất cứ các hoạt động khác trong ngân hàng, dịch vụ cho vay muốn
đạt được kết quả tốt cũng đòi hỏi công tác tổ chức của ngân hàng phải tốt, có sự
phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa các bộ phận, phòng ban, từ các cấp lãnh
đạo xuống đến từng nhân viên. Dịch vụ cho vay cần có sự phối hợp chặt chẽ từ


bộ phận thẩm định, đến các bộ phận có thẩm quyền xét duyệt của ngân hàng.

Cần có một sự phối hợp chăt chẽ, ăn ý, uyển chuyển giữa các bộ phận từ đó
chất lượng dịch vụ cho vay mới có thể được nâng cao.
 Chất lượng khâu thẩm định tín dụng của ngân hàng


Quá trình thẩm định tín dụng là quá trình ngân hàng phân tích đánh giá năng lực
khách hàng trên các phương diện năng lực tài chính của khách hàng, tính khả
thi của phương án kinh doanh, dự án đầu tư, quan hệ sở hữu, giá trị của tài sản
đảm bảo, khả năng chi trả nợ đầy đủ đúng hạn của khách hàng. Đây là khâu
quan trọng nhất trong quá trình xét duyệt, ra quyết định cung cấp dịch vụ cho
vay. Trong quá trình thẩm định, ngân hàng sẽ chọn lọc ra những cơ hội đầu tư
tốt, hiệu quả, đảm bảo tính sinh lời và an toàn cho ngân hàng. Nếu quá trình
thẩm định mắc phải những sai sót thì hậu quả xảy ra là khôn lường. Quá trình
thẩm định muốn có hiệu quả, nó lại phụ thuộc vào các nhân tố thông tin tín
dụng đầy đủ, chính xác, năng lực thẩm định, tư cách đạo đức của cán bộ tín
dụng, quy trình thẩm định được xây dựng khoa học, bao quát, xem xét đến mọi
khía cạnh của vấn đề. Kết thúc quá trình thẩm định, ngân hàng sẽ quyết định
mức cấp tín dụng, thời hạn, phương án trả nợ, lãi suất. Chất lượng thẩm định
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Chất lượng thẩm định tốt thì mới đảm bảo
chất lượng tín dụng và ngược lại.
 Cơ sở vật chất, trình độ công nghệ kĩ thuật của ngân hàng


Đây là một nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng dịch vụ cho vay của ngân
hàng. Trong thời đại hiện nay, công nghệ đóng một vai trò quyết định. Cơ sở
vật chất khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến chính xác, gọn nhẹ không chỉ
tạo hình ảnh đẹp trong mắt khách hàng mà còn hỗ trợ rất lớn trong các khâu của
hoạt động tín dụng. Các giao dịch cũng như trao đổi, liên hệ thông tin giữa ngân



hàng và khách hàng trở nên nhanh gọn, tiết kiệm chi phí, thời gian, công tác lưu
trữ, tìm kiếm các thông tin của khách hàng cũng trở nên rất nhanh gọn. Nó tạo
điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng trong công việc của mình góp phần tiết
kiệm thời gian, công sức và tiền bạc.
 Thông tin tín dụng
• Trong dịch vụ cho vay của ngân hàng, thông tin đóng một vai trò quan trọng,

đặc biệt trong công tác thẩm định tín dụng. Cán bộ thu thập những nguồn thông
tin để phục vụ cho quá trình thẩm định, đánh giá khách hàng của mình. Để tăng
tính xác thực phục vụ cho việc đánh giá khách hàng, thông tin được thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau. Đó là các giấy tờ sổ sách, các báo cáo tài chính, hợp
đồng thương mại, hồ sơ dự án, các hóa đơn, chứng từ do phía khách hàng và
các đối tác của khách hàng cung cấp. Bên cạnh đó, thông tin tín dụng còn được
cán bộ tín dụng thu thập trong quá trình đi thị sát thực tế doanh nghiệp, để tăng
tính sát thực cho thông tin. Hiện nay, một kênh thông tin hỗ trợ rất lớn đối với
cán bộ tín dụng là thông tín từ trung tâm thông tin tín dụng CIC (Central of
information credit). Trung tâm CIC sẽ cung cấp cho ngân hàng các thông tin về
khách hàng, cụ thể như quan hệ tín dụng của khách hàng đối với các ngân hàng,
dư nợ tín dụng, tình hình trả nợ. Đây là một kênh thông tin khá hiệu quả, và hữu
ích hiện nay. Việc chủ động thu thập, xử lí, phân tích đánh giá thông tin tín
dụng có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình thẩm định tín dụng. Nếu thông tin
sai lệch hay cán bộ tín dụng không có khả năng phân tích thông tin thì tất yếu,
quyết định cấp tín dụng sẽ không chính xác và gây ra những thiệt hại cho ngân
hàng. Chính vì vậy, thông tin tín dụng là một trong những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ cho vay. Chất lượng dịch vụ cho vay tốt đòi
hỏi thông phải được thu thập nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời kết hợp với việc xử
lí chính xác.
 Chất lượng cán bộ ngân hàng





Cũng như rất nhiều những lĩnh vực khác, trong dịch vụ cho vay của ngân hàng,
con người là nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất. Con người ở đây bao gồm
đội ngũ lãnh đạo ngân hàng và các cán bộ, nhân viên ngân hàng. Xét đến nhân
tố con người, chúng ta đề cập đến các khía cạnh trình độ, kinh nghiệm, năng
lực, nhận thức và tư cách đạo đức của đội ngũ lãnh đạo, nhân viên ngân hàng.


Đội ngũ lãnh đạo có năng lực, kinh nghiệm sẽ ra những quyết định chỉ đạo sáng
suốt, phù hợp với tình hình. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ tín dụng được trang bị
đầy đủ kiến thức, có năng lực tốt sẽ giúp cho quá trình thẩm định đạt kết quả tốt,
từ đó ra những quyết định đúng đắn trong việc cung cấp dịch vụ cho vay tới
khách hàng. Có nhiều trường hợp, ngân hàng phải chịu thiệt thòi, thua lỗ do khả
năng thẩm định dự án của cán bộ tín dụng có nhiều hạn chế. Tuy nhiên, kiến
thức, kinh nghiệm còn chưa đủ. Bên cạnh việc trang bị kiến thức, đào tạo năng
lực cho cán bộ, các ngân hàng không thể bỏ qua việc trau dồi tư cách đạo đức
cho đội ngũ lãnh đạo cũng như đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng. Thực tế cho
thấy, có rất nhiều trường hợp, khách hàng câu kết với cán bộ tín dụng để lừa đảo
ngân hàng. Chính vì vậy, vấn đề tư cách đạo đức cần được xem trọng, thậm chí
hơn cả năng lực, kinh nghiệm. Một cán bộ tín dụng kém về năng lực kinh
nghiệm có thể trau dồi, học hỏi theo thời gian, nhưng một cán bộ không có tư
cách đạo đức có thể là một mối nguy hiểm thường trực đối với ngân hàng.
1.4.2. Các nhân tố thuộc về khách hàng


B

ên cạnh các nhân tố chủ quan, nhân tố khách quan cũng có tầm ảnh hưởng lớn
đến chất lượng dịch vụ cho vay đối với DNNVV. Chất lượng dịch vụ cho vay

không chỉ chịu ảnh hưởng từ phía ngân hàng mà còn chịu tác động nhiều chiều
từ phía DNNVV


×