Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Pháp luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, quản lý Công ty cổ phần – Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.09 KB, 48 trang )

TÓM LƯỢC
Chương 1 khóa luận nghiên cứu một cách chi tiết về khái niêm, đặc điểm của
Công ty cổ phần cũng như quản lý Công ty cổ phần. Bên cạnh đó, khóa luận cũng chỉ
ra cơ sở quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật, đồng thời phân tích và
làm rõ được mối quan hệ giữa Điều lệ công ty và pháp luật trong điều chỉnh quản lý
Công ty cổ phần. Trong phạm vi chương 1 cũng đã nghiên cứu sơ lược nội dung pháp
luật về quản lý Công ty cổ phần.
Đối với chương 2, khóa luận tập trung vào đánh giá thực trạng pháp luật điều
chỉnh về quản lý CTCP và thực trạng thực hiện pháp luật quản lý CTCP ở các doanh
nghiệp. Đồng thời, trong chương 2 cũng đã có liên hệ thực trạng thực hiện pháp luật
quản lý Công ty cổ phần ở Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội. Qua
việc đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật quản lý Công ty cổ phần, khóa luận đã
rút ra bất cập của hệ thống pháp luật hiện tại và khó khăn trong việc áp dụng, thi hành
các quy định về quản trị nội bộ trong Công ty cổ phần ở các doanh nghiệp hiện nay.
Sau khi phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật quản lý Công ty cổ phần,
trong chương 3, khóa luận đã đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý Công ty
cổ phần ở Việt Nam.

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện từ
phía Ban lãnh đạo và các anh chị em trong Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM
Hà Nội. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Quý công ty vì những giúp đỡ đó.
Trong quá trình hoàn thành bài khóa luận này, tôi có sử dụng rất nhiều kiến thức
đã được học trong suốt bốn năm vừa qua. Tôi xin kính gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy,
Cô giáo đã dạy và truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức bổ ích trong suốt bốn năm tôi
theo học tại trường Đại học Thương mại.
Tôi cũng xin kính gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Thầy giáo, ThS.
Nguyễn Phụng Dương đã tận tâm hướng dẫn và giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành khóa


luận một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, do kiến thức và khả năng nghiên cứu còn có hạn, vì vậy, bài khóa
luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.Tôi rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu từ phía Quý thầy cô và tôi sẽ tiếp thu sửa đổi để kiến thức được
hoàn thiện hơn.
Sau cùng, tôi xin kính chúc thầy cô Khoa Kinh tế - Luật và Thầy giáo, ThS.
Nguyễn Phụng Dương luôn dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và đạt được nhiều thành công
trong sự nghiệp “trồng người” của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
Sinh viên
Trần Thị Hải Yến

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC SƠ ĐỒ HÌNH VẼ
Sơ đồ 1: Mô hình Công ty cổ phần phải có Ban kiểm soát
Sơ đồ 2: Mô hình Công ty cổ phần không có Ban kiểm soát
Sơ đồ 3: Sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM
Hà Nội

4



DANH MỤC VIẾT TẮT
BKS: Ban kiểm soát
CTCP: Công ty cổ phần
CTTNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
ĐHĐCĐ: Đại hội đồng cổ đông
GCNĐKKD: giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
GĐ/TGĐ: Giám đốc/Tổng giám đốc
HĐQT: Hội đồng quản trị
QPPL: quy phạm pháp luật

5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu
thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Để phù hợp với xu thế đó, từ năm 1986 đến
nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng
là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và
phát triển”. Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước
đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ
chức này. Việc gia nhập WTO là một trong những nỗ lực nhằm tiếp cận thị trường
thương mại toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thương mại quốc tế,
tạo tiền đề cho hội nhập và phát triển nền kinh tế. Cũng giống như nhiều quốc gia
khác, khi tham gia WTO, Việt Nam cũng phải tiến hành hoàn thiện hóa một số văn bản
pháp luật như: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại,
Luật Cạnh tranh… nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng và hành lang pháp lý an toàn

cho các doanh nghiệp. Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách thương mại
theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể hiện ở các cam kết đa
phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam kết mở cửa thị trường hàng hoá,
dịch vụ.
Đối với các chủ thể kinh doanh, việc Việt Nam đang tích cực hội nhập với thế giới
cũng đem lại cho họ nhiều cơ hội. Thành lập doanh nghiệp để tiến hành hoạt động
thương mại là một trong những cách thức được tính đến nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Trong số các loại hình doanh nghiệp hiện nay mà pháp luật Việt Nam cho phép thành
lập và hoạt động, tuy mỗi loại đều có những điểm mạnh nhất định, đòi hỏi các nhà kinh
doanh cần nắm bắt để khai thác và vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện
và sở thích của mình; nhưng không thể phủ nhận những lợi thế hơn hẳn của loại hình
doanh nghiệp là Công ty cổ phần so với các loại hình doanh nghiệp khác. Đặc biệt là
trong những lĩnh vực xây dựng đòi hỏi phải có quy mô vốn lớn và kỹ thuật nghiệp vụ
kinh doanh phức tạp như: ngân hàng, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, đầu tư…

6


Pháp luật điều chỉnh loại hình Công ty cổ phần (CTCP) hiện nay là Luật Doanh
nghiệp 2014 (có hiệu lực từ ngày 07/01/2015) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã
có nhiều tiến bộ so với văn bản quy phạm pháp luật trước đây. Tuy nhiên, do mới có
hiệu lực thi hành nên một số doanh nghiệp còn chưa nắm rõ được những điểm thay đổi
giữa luật Doanh nghiệp 2005 và luật Doanh nghiệp 2014, còn bỡ ngỡ và thực thi chưa
đúng trong quá trình thực hiện.
Với những lý do trên, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Pháp luật điều chỉnh về cơ
cấu tổ chức, quản lý Công ty cổ phần – Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần tư vấn
quản lý dự án VPM Hà Nội” làm đề tài khóa luận của mình. Em hi vọng với đề tài này
có thể nghiên cứu được thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về quản trị
Công ty cổ phần, đồng thời tìm ra hướng giải quyết cho những bất cập còn tồn tại đó.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.

Hình thức Công ty cổ phần đang ngày càng phát triển.Thực tế đó đòi hỏi các chủ
thể kinh doanh, các nhà quản trị phải có sự hiểu biết về đặc trưng của hình thức Công
ty cổ phần cũng như hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của Công ty cổ phần. Do
vậy, đã có không ít các công trình nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh hoạt động của
Công ty cổ phần nói chung cũng như pháp luật về quản lý Công ty cổ phần nói riêng.
Do luật Doanh nghiệp 2014 mới có hiệu lực một năm trở lại đây, nên các công
trình nghiên cứu còn ít, chủ yếu là các công trình nghiên cứu đối với luật Doanh
nghiệp 2005. Qua đây ta cũng thấy được những bất cập mà luật cũ còn vướng phải và
được điều chỉnh, bổ sung ở luật mới.
Trong đó có một số công trình nghiên cứu như:
Luận văn “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị Công ty cổ phần” của tác
giả Hoàng Thị Mai, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bài viết ''Luật Doanh Nghiệp 2014 – Cuộc đột phá thể chế lần thứ hai'' của
Phạm Thị Hương trên trang web của Bộ tư pháp ngày 11/12/2014
Về các đề tài nghiên cứu khoa học, có thể kể đến một số đề tài như: “giải pháp
nâng cao năng lực giám sát hoạt động tài chính của doanh nghiệp nhà nước sau cổ
phần hóa” của TS. Nguyễn Tuấn Phương thực hiện từ 2010 – 2012.
Về bài đăng trên tạp chí: Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về
công ty cổ phần theo Luật công ty Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp Việt Nam , Tạp chí

7


khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25(2009), tr. 87-93.
Bài viết ''Cú hích cực lớn từ sửa Luật Doanh Nghiệp? '' của Anh Minh trên trang
web VnEconomy ngày 10/4/2014
Bài khóa luận này của tôi sẽ đi sâu vào vấn đề quản lý Công ty cổ phần theo quy
định của pháp luật Việt Nam. Để làm rõ những vấn đề này, đề tài đã chọn nghiên cứu một
cách cụ thể và chi tiết ở Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội, từ đó đánh
giá thực trạng quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật, tìm ra những vấn đề

còn bất cập và đề xuất một số giải pháp để giải quyết vấn đề đó.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của CTCP, quản trị CTCP
- Nguồn luật điều chỉnh quản trị CTCP. Các quy định của Luật Doanh nghiệp
điều chỉnh về ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ, BKS.
- Đánh giá thực trạng quản trị nội bộ CTCP theo quy định của pháp luật Việt
Nam và thực tiễn thực hiện tại các doanh nghiệp. Liên hệ với công ty cổ phần tư vấn
quản lý dự án VPM Hà Nội.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý CTCP.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu các cơ sở pháp lý điều chỉnh về:
cổ đông, Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ), Hội đồng quản trị (HĐQT), Giám
đốc/Tổng giám đốc (GĐ/TGĐ), Ban kiểm soát (BKS). Bên cạnh đó, khóa luận cũng
tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về các vấn đề trên, phân tích
những bất cập trong quy định của luật và thực tiễn thực hiện.Từ đó đề xuất hướng giải
quyết hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật về quản trị CTCP.
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài: tiếp cận vấn đề từ lý luận đến thực tiễn về
quản trị CTCP, từ đó có căn cứ để xác định thực trạng quản trị CTCP trong thực tiễn,
tìm ra bất cập và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật trong
lĩnh vực trên. Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn đó, khóa luận đặt ra mục đích
nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận điều chỉnh về CTCP, quản lý CTCP
Thứ hai, chỉ ra thực trạng pháp luật về quản lý CTCP tại Việt Nam, nghiên cứu
điển hình ở CTCP tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội.Phân tích các quy định của pháp

8


luật về vấn đề quản lý CTCP và đánh giá tác động của chúng trong thực tiễn.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng, đề xuất một số giải pháp nhẳm hoàn

thiện các quy định của pháp luật về quản lý CTCP.
Từ các mục đích nghiên cứu trên, khóa luận đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến CTCP, quản lý CTCP.
Tìm hiểu các quy định về Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng
giám đốc, Ban kiểm soát.
- Nêu ra thực trạng quản trị CTCP theo quy định của pháp luật Việt Nam và đánh
giá thực trạng pháp luật về quản trị công ty cổ phần. Nghiên cứu điển hình tại Công ty
cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật
quản trị công ty cổ phần
Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Về thời gian: khóa luận sẽ nghiên cứu sơ qua về quản lý CTCP khi thực thi luật
Doanh nghiệp 2005, sau đó sẽ phân tích rõ hơn khi luật Doanh nghiệp 2014 được ban
hành và các văn bản hướng dẫn khác. Đồng thời có sự so sánh giữa luật Doanh nghiệp
2005 với luật Doanh nghiệp 2014
Về không gian: khóa luận tập trung làm rõ các quy định của pháp luật về quản trị
CTCP ở Việt Nam, nghiên cứu điển hình tại Công ty cổ phần VPM Hà Nội
Về nguồn tư liệu: luật Doanh nghiệp 2005, luật Doanh nghiệp 2014, nghị định
96/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật Doanh nghiệp 2014,
… và một số luật khác có liên quan
Có rất nhiều khái niệm cũng như cách tiếp cận về quản lý CTCP. Tuy nhiên,
trong phạm vi bài khóa luận sẽ chỉ tìm hiểu về quản lý CTCP theo quy định của pháp
luật dưới góc độ là quản trị nội bộ của CTCP (quản trị CTCP), tức là cách thức tổ chức
các cơ quan quyền lực trong công ty và mối quan hệ giữa các cơ quan đó.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài khóa luận sử dụng cả dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu sơ cấp được
thu thập từ các quy định trong các văn bản Luật và văn bản dưới Luật, được trích từ
trang web chính thức của Chính phủ và các sách Luật đã được xuất bản. Bên cạnh đó,
trong phần thực trạng, khóa luận có sử dụng dữ liệu thứ cấp là các số liệu từ cuộc Điều


9


tra thực tế về quản trị CTCP do TS. Nguyễn Đình Cung thực hiện vào cuối năm 2007
được trình bày trong cuốn sách “Công ty Vốn, Quản lý và Tranh chấp”. Ngoài ra, các
dữ liệu thứ cấp còn được thu thập được từ các bài luận văn, bài báo cáo, bài viết, tạp
chí có uy tín.
Chương 1 chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp các quy định của
pháp luật về quản trị công ty cổ phần. Đồng thời cũng nghiên cứu các cơ sở quản trị
Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Chương 2 không chỉ sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh quản trị công ty cổ phần, mà còn sử dụng phương pháp phân tích
trên cơ sở các số liệu thu thập được liên quan đến vấn đề quản trị công ty cổ phần. Từ
việc phân tích, thống kê các dữ liệu, số liệu nhằm rút ra thực trạng thực hiện pháp luật
quản trị CTCP.Khóa luận đã sử dụng phương pháp thống kê thường để rút ra thực
trạng thi hành, áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. Ngoài ra, trong chương 2 cũng sử
dụng cả phương pháp so sánh các quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 với Luật
Doanh nghiệp 2014, đồng thời cũng so sánh về quá trình thực hiện pháp luật so với các
quy định của Luật.
Chương 3 sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu định tính để đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quản trị công ty cổ phần.Ngoài ra, trong
chương này cũng sử dụng cả phương pháp so sánh giải pháp đưa ra với những quy
định mới của Luật Doanh nghiệp 2014.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận tốt
nghiệp bao gồm 3 chương:
Chương 1 – Một số vấn đề lý luận cơ bản về công ty cổ phần và nội dung pháp
luật về quản lýcông ty cổ phần.
Chương 2 - Thực trạng pháp luật điều chỉnh về quản lý CTCP
Chương 3 - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lýCTCP.


10


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ NỘI DUNG
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của CTCP
1.1.1. Khái niệm CTCP
CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam được quy định trong
Luật Doanh nghiệp. Do đó, để tìm hiểu khái niệm CTCP trước tiên cần tìm hiểu khái
niệm và đặc điểm về doanh nghiệp nói chung.
Theo khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Như vậy, doanh nghiệp có đặc điểm pháp lý cơ
bản:
Thứ nhất, là tổ chức kinh tế, có tư cách chủ thể pháp lý độc lập;
Thứ hai, thành lập và đăng ký kinh doanh theo thủ tục do pháp luật quy định;
Thứ ba, có nghề nghiệp kinh doanh.
Do đó, CTCP cũng mang đặc điểm chung của doanh nghiệp như đã trình bày ở
trên. Bên cạnh đó, CTCP còn có các đặc điểm riêng để các nhà làm luật có thể xây
dựng định nghĩa về hình thức công ty đối vốn này như sau:
Theo Điều 110 Luật Doanh nghiệp 2014, CTCP được định nghĩa:
“1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật này.

2. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
3. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.”
1.1.2. Đặc điểm của Công ty cổ phần
Thứ nhất, về số lượng thành viên: hầu hết pháp luật của các nước đều quy định

11


số lượng thành viên tối thiểu mà không quy định số lượng thành viên tối đa đối với
CTCP. Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp 2014, thì số lượng thành viên tối thiểu
của CTCP là ba. Đặc điểm này thể hiện đặc trưng của CTCP là loại hình công ty đối
vốn nên có sự liên kết của nhiều thành viên tham gia góp vốn vào CTCP.
Thứ hai, về hình thức góp vốn: vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu,
người mua cổ phiếu gọi là cổ đông, lợi nhuận có được hàng năm từ cổ phần gọi là cổ
tức. Việc góp vốn vào CTCP được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu, mỗi cổ đông có
thể mua thêm một hoặc nhiều cổ phiếu. Đặc điểm này thể hiện đặc trưng cơ bản của
CTCP là loại hình công ty đối vốn, trong quá trình thành lập và hoạt động, các thành
viên công ty không quan tâm đến nhân thân của người góp vốn mà chỉ quan tâm đến
phần vốn góp của họ. Bởi vì đối với loại hình công ty này tư cách thành viên công ty
và các quyền của cổ đông được quyết định bởi số lượng các cổ phiếu của công ty hoặc
loại cổ phần mà họ nắm giữ.
Thứ ba, về huy động vốn: trong quá trình hoạt động, CTCP được quyền phát
hành chứng khoán ra công chúng hoặc chào bán cổ phần riêng lẻ để huy động vốn theo
quy định của pháp luật về phát hành chứng khoán. Luật Doanh nghiệp 2014 quy định
rõ: đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) khi muốn tăng vốn điều lệ thì chỉ
được thực hiện bằng cách hoặc tăng thêm phần vốn góp của các thành viên, hoặc kết
nạp thêm thành viên mới. Trong khi đó, đối với CTCP, bất cứ lúc nào khi đáp ứng đủ
các điều kiện theo luật định thì CTCP cũng có quyền phát hành cổ phiếu mới để kêu

gọi thêm vốn đầu tư từ các cổ đông mới. Do vậy, đối với loại hình CTCP, khả năng
huy động vốn để tăng thêm vốn điều lệ là rất lớn.
Thứ tư, về chuyển nhượng phần vốn góp: trong CTCP, phần vốn góp của các cổ
đông được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ đông muốn chuyển nhượng một
phần hay toàn bộ số cổ phiếu của mình cho các cổ đông khác đều được thực hiện dễ
dàng theo quy định của Luật và Điều lệ của công ty. Trừ trường hợp đối với cổ đông
sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người
khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn ba năm
kể từ ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với các cổ đông
sáng lập. Việc chuyển nhượng phần vốn góp ở CTCP có ưu thế hơn so với CTTNHH,

12


đối với CTTNHH, nếu thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần
vốn góp của mình thì bắt buộc phải chào bán phần vốn góp đó cho các thành viên còn
lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng một điều kiện.
Như vậy, với loại hình CTCP, công ty có thể huy động được nguồn vốn lớn, mức
cổ tức đủ sức hấp dẫn những người có vốn nếu công ty hoạt động kinh doanh hiệu quả,
đồng thời sẽ chia rủi ro cho các thành viên. Tuy vậy, CTCP thường có quy mô kinh
doanh lớn, số lượng thành viên đông nên việc quản lý, điều hành gặp nhiều khó khăn,
phức tạp.Mặt khác, do CTCP được phát hành cổ phiếu huy động vốn công khai trong
xã hội nên kết quả hoạt động kinh doanh của công ty sẽ có ảnh hưởng nhiều đến sự ổn
định và phát triển của xã hội. Mặc dù CTTNHH nhưng để đảm bảo an toàn cho xã hội
và hoạt động của công ty có hiệu quả, nhà nước phải có nhiều ràng buộc chặt chẽ về tổ
chức, hoạt động của loại hình công ty này.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về quản lý CTCP
1.2.1. Khái niệm quản lý CTCP
Quản lý CTCP được hiểu là phương thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong
công ty và mối liên hệ giữa các cơ quan đó. Do có liên quan đến việc bố trí và tổ chức

quyền lực, nên quản lý CTCP còn được gọi là cơ cấu quản lý CTCP. Nhìn chung, trong
các CTCP thường thiết lập ba cơ quan có quyền lực chủ yếu là Đại hội đồng cổ đông,
Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, quản lý CTCP là cách thức tổ chức và phân chia quyền
lực giữa ba cơ quan: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và mối
quan hệ giữa chúng. Tại Việt Nam, khái niệm CTCP cũng khá tương đồng với nhiều
nước khác trên thế giới. Theo Tiến sỹ Phạm Ngọc Côn (2002) cho rằng “Cơ cấu quản
lý doanh nghiệp là sự thiết lập, vận hành của cơ quan quyền lực trong doanh nghiệp và
mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực đó. Một cơ cấu quản lý doanh nghiệp hiệu
quả thể hiện sự hợ tác lâu dài giữa những người có quan hệ lợi ích trên cơ sở cân đối
trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích”.
Từ việc tham khảo các khái niệm nêu trên và nghiên cứu các quy định của Luật
Doanh nghiệp 2014 về cơ cấu tổ chức quản lý CTCP, Quản lý CTCP được trình bày
trong bài khóa luận được định nghĩa là cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực của
công ty gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ, BKS và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ

13


quan đó.
1.2.2. Cơ sở ban hành pháp luật về quản lý CTCP
Trong quá trình hoạt động, công ty không chỉ chịu sự điều chỉnh của văn bản
pháp luật có liên quan mà còn chịu sự điều chỉnh của Điều lệ công ty. Đối với việc
quản trị công ty cổ phần cũng vậy. Văn bản quy phạm pháp luật đưa ra các quy định
chung nhất về quản trị CTCP, còn Điều lệ công ty được coi là sự cụ thể hóa quy định
của Luật vào trong điều kiện thực tế của công ty, do người sáng lập công ty và các cổ
đông thống nhất soạn thảo, nội dung trong Điều lệ công ty không được trái với quy
định của Luật.
1.2.2.1. Điều lệ Công ty cổ phần
Điều lệ có thể hiểu là bản thỏa thuận giữa những người sáng lập công ty với các

cổ đông và giữa các cổ đông với nhau cùng được soạn căn cứ trên những khuôn mẫu
chung của luật pháp để ấn định cách tạo lập, hoạt động và giải thể của doanh nghiệp.
Theo Điều 25 Luật doanh nghiệp 2014 quy định về nội dung Điều lệ công ty gồm:
“Tên, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện… các nội dung khác do
thành viên, cổ đông thỏa thuận nhưng không được trái với quy định của pháp luật”
1.2.2.2. Pháp luật điều chỉnh việc quản lý Công ty cổ phần ở Việt Nam
- Các văn bản Luật và dưới Luật do Nhà nước CHXHCN Việt Nam ban hành
Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2014: là nguồn luật chủ yếu điều chỉnh việc thành
lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của CTCP. Luật Doanh nghiệp 2014 có 213 điều
khoản, trong đó có 61 điều khoản quy định riêng về CTCP.
Các văn bản Luật chuyên ngành: Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật Chứng
khoán 2010, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010…điều chỉnh cụ thể tùy thuộc vào ngành
nghề kinh doanh của công ty. Các luật chuyên ngành này sẽ được áp dụng khi có sự khác
nhau giữa các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và luật này về việc quản lý CTCP.
Nghị định 96/2015/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
doanh nghiệp 2014
Ngoài ra còn có các văn bản dưới Luật, các văn bản dưới Luật sửa đổi, bổ sung,
thay thế cho các văn bản dưới Luật được Quốc hội thông qua sau Nghị định
139/2007/NĐ-CP.
- Các Điều ước quốc tế (ĐƯQT)

14


Trong trường hợp ĐƯQT mà nước CHXHCNVN là thành viên có quy định khác
với quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về vấn đề quản lý CTCP thì áp dụng theo
quy định của ĐƯQT đó.Trong trường hợp này, nếu các cam kết song phương có nội
dung khác với cam kết đa phương thì áp dụng theo nội dung cam kết thuận lợi hơn với
doanh nghiệp và nhà đầu tư.
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa Điều lệ công ty và pháp luật điều chỉnh về quản lý Công

ty cổ phần
Điều lệ công ty và pháp luật điều chỉnh hoạt động của CTCP có mối quan hệ mật
thiết, tương hỗ lẫn nhau.Pháp luật được coi là nền tảng cho việc soạn thảo Điều lệ của
công ty. Điều lệ được soạn thảo dựa theo các khuôn khổ của các quy định pháp luật.
Luật điều chỉnh nhiều nhất trong phạm vi quản lý CTCP là Luật Doanh nghiệp 2014.
Điều lệ của công ty là sự cụ thể hóa Luật Doanh nghiệp vào hoàn cảnh cụ thể của một
doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, khi có sự khác nhau giữa Luật và Điều lệ,
pháp luật cho phép doanh nghiệp được thực hiện theo Điều lệ. Ví dụ về số lượng thành
viên của Ban kiểm soát, Điều 163 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định Ban kiểm soát có
từ ba đến năm thành viên, nếu Điều lệ công ty có quy định khác tuân theo Điều lệ công
ty. Mặc dù vậy, các nội dung của Điều lệ mà trái với quy định của Luật sẽ không được
coi là hợp pháp.
1.2.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh về quản lý Công ty cổ phần
1.2.3.1. Mô hình quản lý Công ty cổ phần
Theo khoản 1 Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định:
“1.Công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một
trong hai mô hình sau đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
a)Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc. Trường hợp CTCP có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở
hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát.
b)Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập
và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực
hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành
công ty.”

15


16



ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
GIÁM ĐỐC/TỔNG GIÁM ĐỐC
BAN KIỂM SOÁT

Sơ đồ 1: Mô hình Công ty cổ phần có Ban kiểm soát
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
GIÁM ĐỐC/TỔNG GIÁM ĐỐC
BAN KIỂM TOÁN

Sơ đồ 2: Mô hình CTCP không có Ban kiểm soát
1.2.3.2. Thẩm quyền của các cơ quan trong mô hình Công ty cổ phần
a. Đại hội đồng cổ đông
Theo khoản 1 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2014: “Đại hội đồng cổ đông gồm
tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ
phần”
Quyền và nghĩa vụ của ĐHĐCĐ
Khoản 2 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của
ĐHĐCĐ gồm:


Quyết định số phận của công ty: thông qua định hướng phát triển của công ty; quyết

17


định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; quyết định tổ chức lại, giải thể công ty.



Quyết định tài chính của công ty: quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng
loại được quyền chào bán, quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần, trừ
trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác; quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có
giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần
nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác; thông qua báo
cáo tài chính hằng năm; quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi
loại.



Quyết định lãnh đạo công ty: bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản
trị, thành viên Ban kiểm soát; xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị,
Ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty.
b. Hội đồng quản trị
Theo khoản 1 Điều 149 Luật Doanh nghiệp 2014: “Hội đồng quản trị là cơ quan
quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông”.
Quyền và nhiệm vụ của HĐQT
Quyền kiến nghị: kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán
của từng loại; trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên ĐHĐCĐ; kiến nghị mức
cổ tức được trả; quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong
quá trình kinh doanh; kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty;
duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp ĐHĐCĐ, triệu tập họp ĐHĐCĐ
hoặc lấy ý kiến để Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định.
Quyền quyết định: quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế
hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; quyết định chào bán cổ phần mới trong phạm
vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo
hình thức khác; quyết định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty; quyết định

mua lại cổ phần; quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và
giới hạn theo quy định của Luật hoặc Điều lệ công ty; quyết định giải pháp phát triển
thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp
đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo
tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công

18


ty, trừ hợp đồng và giao dịch bị hạn chế; quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý
nội bộ công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và
việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác.
Quyền quyết định về nhân sự: bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng,
chấm dứt hợp đồng đối với GĐ/TGĐ và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ
công ty quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý đó;
cử người đại diện theo uỷ quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở
công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những người đó; giám sát,
chỉ đạo GĐ/TGĐ và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng
ngày của công ty.
c. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2014 đã có quy định cụ thể về GĐ/TGĐ. Theo đó,
GĐ/TGĐ được HĐQT bổ nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức, họ có thể là thành viên
của HĐQT hoặc là người khác do HĐQT thuê. GĐ/TGĐ là người điều hành công việc
kinh doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu
trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và
nhiệm vụ được giao. Nhiệm kỳ của GĐ/TGĐ không quá năm năm và có thể được bổ
nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế, GĐ/TGĐ không được đồng thời là
GĐ/TGĐ của doanh nghiệp khác.
Quyền và nhiệm vụ của GĐ/TGĐ: GĐ/TGĐ có hai nhóm quyền chủ yếu là
quyền kiến nghị lên HĐQT và quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc

kinh doanh hàng ngày của công ty mà không cần quyết định của HĐQT.
Quyền kiến nghị lên HĐQT: kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản
lý nội bộ công ty; kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh.
Quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng ngày của
công ty mà không cần quyết định của HĐQT: quyết định các vấn đề liên quan đến
công việc kinh doanh hằng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của Hội
đồng quản trị; tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị; tổ chức thực
hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty; kiến nghị phương án cơ
cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các
chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng

19


quản trị; quyết định lương và phụ cấp (nếu có đối với người lao động trong công ty kể
cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;
tuyển dụng lao động; các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ
công ty và quyết định của Hội đồng quản trị.
d. Ban kiểm soát
Theo khoản 1 Điều 163 Luật Doanh nghiệp 2014 thì BKS do ĐHĐCĐ bầu ra, có
từ ba đến năm thành viên, nhiệm kỳ không quá năm năm và có thể bầu lại với nhiệm
kỳ không hạn chế. BKS phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam.
Quyền và nhiệm vụ của BKS:
BKS có một số quyền và nhiệm vụ chính như: giám sát HĐQT, GĐ/TGĐ trong
việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong thực hiện các
nhiệm vụ được giao; kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn
trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán,
thống kê và lập báo cáo tài chính; thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài
chính hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của
HĐQT; trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hằng

năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT lên ĐHĐCĐ tại
cuộc họp thường niên; xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công
việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết
hoặc theo quyết định của ĐHĐCĐ hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông
sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục sáu tháng hoặc một
tỉ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. Ngoài ra, BKS còn có một số quyền và
nghĩa vụ khác được quy định tại Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2014.
1.2.3.3. Mối quan hệ giữa các cơ quan trong mô hình quản lý Công ty cổ phần
Các cơ quan trong mô hình quản trị CTCP có mối quan hệ qua lại biện chứng với
nhau, vừa có sự bổ sung, hỗ trợ lại vừa có sự kiểm soát lẫn nhau. Đại hội đồng cổ đông là
cơ quan quyết định cao nhất của CTCP, được coi là tập hợp của các chủ sở hữu của công
ty.Hội đồng quản trị là cơ quản quản lý của công ty, do ĐHĐCĐ bầu ra, có toàn quyền
nhân danh công ty để quyết định, thực hiện quyền, nghĩa vụ công ty.GĐ/TGĐ là người
điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, do HĐQT bổ nhiệm.Theo đó,
ĐHĐCĐ sẽ chọn ra HĐQT, HĐQT lại bổ nhiệm GĐ/TGĐ. Trong quá trình hoạt động

20


kinh doanh, có sự phân bổ rõ ràng quyền, nhiệm vụ của từng cơ quan trên. BKS là cơ
quan do ĐHĐCĐ bầu ra nhằm thực hiện nhiệm vụ giám sát HĐQT, GĐ/TGĐ và công
việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Như vậy, trong quá trình hoạt động, HĐQT chịu
sự giám sát của ĐHĐCĐ, BKS; GĐ/TGĐ sẽ chịu sự giám sát của BKS, HĐQT. BKS chịu
trách nhiệm trước ĐHĐCĐ, thực hiện quyền và nhiệm vụ giám sát của mình. Từ đó, có
thể thấy rằng các cơ quan trong CTCP có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời cũng
có sự kiểm soát lẫn nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh.
1.3. Một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật về quản lý CTCP
Cũng giống như nguyên tắc đối với pháp luật nói chung, pháp luật về quản lý
CTCP cũng phải đảm bảo ba nguyên tắc cơ bản: đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và khả
thi. Tính hợp pháp thể hiện ở việc các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) điều chỉnh

quản lý CTCP phải phù hợp với Hiến pháp, Luật và các văn bản QPPL của cơ quan
nhà nước cấp trên. Đối với quản lý CTCP, Luật điều chỉnh trực tiếp là Luật Doanh
nghiệp phải đảm bảo các quy định phải tuân theo đúng Hiến pháp, các Nghị định có
liên quan phải đảm bảo tuân thủ theo quy định của Hiến pháp và Luật Doanh nghiệp
cũng như các văn bản chuyên ngành có liên quan. Tính hợp lý thể hiện sự phù hợp của
nội dung văn bản Luật với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; với điều kiện
kinh tế, văn hóa – xã hội của địa phương và với các công cụ điều chỉnh khác như: đạo
đức, phong tục tập quán; nội dung văn bản QPPL còn phải đảm bảo hài hòa lợi ích của
toàn xã hội. Chính sự phù hợp của văn bản QPPL với các yếu tố nói trên là điều kiện
quan trọng để đảm bảo văn bản được chấp nhậ trong thực tiễn.Một trong những yêu
cầu quan trọng nhất của các văn bản QPPL chính là tính khả thi. Tính khả thi của các
văn bản QPPL thể hiện ở việc Luật phải có khả năng thực hiện được trong điều kiện
kinh tế, xã hội hiện tại, có khả năng đi vào cuộc sống. Để đảm bảo được yêu cầu đó
đòi hỏi các văn bản QPPL không chỉ điều chỉnh vấn đề hiện tại mà còn phải đáp ứng
được tính dự báo cho tương lai và đảm bảo tính ổn định. Do vậy, làm thế nào để ban
hành văn bản QPPL có tính khả thi là vấn đề đặt ra với các cơ quan chức năng.

21


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ QUẢN LÝ CÔNG
TY CỔ PHẦN – THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TƯ VẤN
QUẢN LÝ DỰ ÁN VPM – HÀ NỘI
2.1. Tổng quan tình hình về CTCP tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội và các
nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản lý tại công ty.
2.1.1. Tổng quan tình hình
Công ty cổ phần tư vấn quản lý dự án VPM Hà Nội (VPM) Tiền thân là “ Trung
tâm tư vấn Quản lý chất lượng xây dựng” trực thuộc Công ty cổ phần Tư vấn thiết kế
Vinaconex Xuân Mai. Sau một thời gian xây dựng và phát triển, để phù hợp với tình
hình thực tế, Trung tâm tư vấn quản lý chất lượng xây dựng phát triển thành Công ty

cổ phần Tư vấn dự án Vinaconex (VPM); sau đó được đổi tên thành Công ty cổ phần
Tư vấn quản lý dự án VPM – Hà Nội. Được thành lập theo GCNĐKKD số:
0104138877 cấp giấy phép ngày 31/08/2009 tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà
Nội với số vốn điều lệ là 20.000.000.000 đồng (hai mươi tỷ đồng). Tập Đoàn có trụ sở
chính tại tầng 5, tòa nhà 25T1, Lô N05, KĐT Đông Nam Trần Duy Hưng, Phường
Trung Hòa, Quận Cầu Giấy, TP Hà Nội. Hiện nay, Công ty VPM đang hoạt động các
lĩnh vực như thi công xây lắp các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp; thi công
hạ tầng và phòng cháy chữa cháy; tư vấn giám sát…
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật quản lý tại công ty
Nhân tố chủ quan
- Về phía nhà nước: chính sách của Đảng, Nhà nước, trình độ của người soạn
thảo Luật có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các văn bản Luật cũng như các văn
bản dưới Luật. Nếu người soạn thảo Luật có trình độ cao, hiểu biết về tình hình thực
tiễn của xã hội thì các văn bản Luật được ban hành sẽ có tính khả thi, tạp ra khung
pháp lý điều chỉnh về CTCP. Ngược lại, nếu trình độ của người soạn thảo Luật còn
nhiều hạn chế sẽ dẫn đến việc Luật đó khi được ban hành sẽ cản trở sự phát triển kinh
doanh của các CTCP.
- Về phía thành viên Công ty cổ phần, đặc biệt là những người lãnh đạo công ty
(chủ tịch HĐQT, TGĐ/GĐ). Người lãnh đạo có trình độ cao không chỉ lãnh đạo công
ty kinh doanh có hiệu quả mà còn đảm bảo cho công ty luôn thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật.

22


Nhân tố khách quan
- Bối cảnh kinh tế - xã hội: Việt Nam bắt đầu thực hiện đổi mới từ nửa cuối thập
niên 1980, với mong muốn xóa bỏ dần cơ cấu bao cấp, quan liêu của nền kinh tế kế
hoạch hóa, phát triển nền kinh tế năng động và hiện đại hơn. Một chủ trương lớn của
Chính phủ Việt Nam là hướng đến tự do hóa thương mại và thúc đẩy kinh tế tư nhân.

Đặc biệt là vào thời điểm Việt Nam đang tích cực đàm phán để gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO thì một trong những yêu cầu được đặt ra là phải tạo ra môi
trường pháp lý lành mạnh, đảm bảo cho các chủ thể được tự do kinh doanh. Trước yêu
cầu đó, Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời và hiện nay là Luật Doanh nghiệp 2014 đã tạo
ra một “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp. Hình thức công ty cổ phần là một
trong bốn hình thức doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp, quy định
về Công ty cổ phần được điều chỉnh từ Điều 110 đến Điều 171. Đây là hình thức ngày
càng nhận được nhiều sự quan tâm của các chủ thể kinh doanh.
2.2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về quản lý Công ty cổ phần
2.2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về cổ đông
Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định: “Cổ đông là cá nhân, tổ
chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần”. Cổ đông có các quyền và nghĩa
vụ đối với công ty tương ứng với số cổ phần của mình.Có thể hiểu rằng cổ đông là chủ
sở hữu của công ty. Trong CTCP có thể bao gồm: cổ đông phổ thông và cổ đông ưu
đãi; cổ đông ưu đãi có ba loại: cổ đông ưu đãi biểu quyết, cổ đông ưu đãi hoàn lại và
cổ đông ưu đãi cổ tức. Cổ đông có thể trực tiếp thực hiện quyền quản lý của mình hoặc
thông qua người đại diện ủy quyền. Quyền của cổ đông được thể hiện bằng hình thức
giá trị là cổ phần, được thể hiện bề ngoài là số cổ phiếu.
2.2.1.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh cổ đông sáng lập
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì cổ đông sáng lập là cổ đông sở
hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông thành lập ra
công ty. Cổ đông sáng lập chính là chủ sở hữu cổ phần sau khi công ty được thành lập.
Điểm khác biệt so với luật Doanh nghiệp 2005 đó là tổ chức, cá nhân nhận chuyển
nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập không trở thành cổ đông sáng lập của
công ty.

23


Thực trạng điều chỉnh của pháp luật về số lượng cổ đông sáng lập

Theo điểm b khoản 1 Điều 110 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định CTCP phải có
ít nhất từ ba cổ đông trở lên, bị giải thể khi không còn đủ số cổ đông tối thiểu. Có thể
hiểu mục đích của quy định này là để vốn đầu tư vào CTCP sẽ nhiều hơn, đảm bảo an
toàn trong các giao dịch.Tuy nhiên, quy định này cũng có những sự bất cập nhất định.
Trong nhiều trường hợp, một người có vốn lớn nhưng không muốn chia sẻ ý tưởng
kinh doanh cũng như quyền sở hữu công ty với người khác, nhưng lại không được
thành lập CTCP do vi phạm quy định của Luật. Ngoài ra, quy định CTCP bị giải thể
khi không còn đủ số lượng cổ đông tối thiểu trong vòng sáu tháng cũng không thực sự
hợp lý. Nhiều trường hợp công ty vẫn hoạt động kinh doanh có lãi, đóng góp cho xã
hội khối lượng của cải vật chất lớn, tạo nhiều công ăn việc làm nhưng lại bị giải thể vì
không có đủ số cổ đông tối thiểu theo quy định của Luật. Thực tế này gây ra sự lãng
phí rất lớn cho xã hội, mặt khác có thể làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp.
Như vậy, quy định về số lượng cổ đông cần phải được xem xét và giải quyết cho
phù hợp với nhu cầu của người dân và tình hình thực tế của xã hội.
Thực trạng điều chỉnh của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của cổ đông sáng lập
Cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết trong vòng 3
năm đầu tiên kể từ ngày được cấp GCNĐKKD. Tuy vậy, cổ đông sáng lập bị hạn chế
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn ba năm kể từ ngày được
cấp GCNĐKKD (chỉ được tự do chuyển nhượng giữa các cổ đông sáng lập, chuyển
nhượng cho đối tượng khác nếu được ĐHĐCĐ chấp thuận và người nhận chuyển
nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập). Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau
đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh
toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong kể từ thời điểm đăng ký doanh nghiệp. Trong
thực tế, nghĩa vụ cổ đông sáng lập phải góp đủ và đúng số cổ phần đã đăng ký mua vẫn
chưa được thực hiện nghiêm túc. Tình trạng các cổ đông sáng lập không mua đủ số cổ
phần đã đăng ký là khá phổ biến. Theo khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005: “Vốn
điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn
nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty”. Theo như khái niệm trên, vốn điều lệ là giá
trị danh nghĩa của tổng số cổ phần được quyền phát hành của công ty và là một trong
những nội dung đăng ký kinh doanh của công ty.Tuy vậy, trên thực tế ở một số lớn các


24


CTCP, vốn điều lệ khai báo và đăng ký là giá trị danh nghĩa của tất cả số cổ phần đã bán
và số cổ phần được quyền chào bán (nhưng chưa phát hành).Vi phạm trên đã gây ra
nhiều hệ quả không tốt đối với công ty, cổ đông và các bên liên quan. Hạn chế này được
khắc phục khi Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định rõ ràng hơn tại khoản 1 Điều 111
Luật Doanh nghiệp 2014. Theo đó, vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh
giá cổ phần đã bán các loại. Vốn điều lệ của CTCP tại thời điểm đăng ký thành lập
doanh nghiệp là tổng giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và được
ghi trong Điều lệ công ty.
2.2.1.2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về quyền của cổ đông
Quyền của cổ đông là tổng hợp của hai loại quyền cơ bản: quyền liên quan đến
quản trị điều hành công ty (quyền dự họp ĐHĐCĐ, biểu quyết, quyền bổ, miễn nhiệm
thành viên HĐQT và kiểm soát viên, quyền tiếp cận thông tin, quyền khởi kiện) và
quyền tài sản (quyền nhận cổ tức, ưu tiên nhận mua cổ phần mới, tự do chuyển
nhượng cổ phần phổ thông, quyền yêu cầu phân chia tài sản còn lại). Trong phạm vi
nghiên cứu của bài khóa luận sẽ chỉ tìm hiểu về các quyền liên quan đến quản trị điều
hành công ty của cổ đông.
Quyền dự họp ĐHĐCĐ
Đây là quyền quan trọng nhất của cổ đông, là phương thức thể hiện tư cách của
cổđông. Khoản 1 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định ĐHĐCĐ chỉ gồm cổ
đông có quyền biểu quyết (tức là chỉ gồm cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết và
cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông. Như vậy, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và
cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại theo quy định tại khoản 3 Điều 117 và Điều
118 thì không có quyền dự họp ĐHĐCĐ. Quy định về việc cổ đông sở hữu cổ phần ưu
đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại thì không có được quyền biếu quyết trong
ĐHĐCĐ là khá hợp lý. Bởi vì cổ đông sở hữu hai loại cổ phần ưu đãi trên chỉ đơn
thuần là tham gia vốn, khi công ty làm ăn hiệu quả chia lợi nhuận thì họ là người được

chia trước hết theo tỷ lệ % mà ban đầu cam kết với họ, lợi nhuận còn lại mới chia các
cổ đông phổ thông. Khi công ty làm ăn thua lỗ thì ngược lại quá trình trên, dùng số cổ
phần phổ thông để chi trả trước hết. Do đó đặc thù là họ không muốn và không cần
đến quyền chi phối công ty.
Mặc dù pháp luật đã có quy định các cổ đông phổ thông có quyền dự họp

25


×