Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Nghiên cứu tình hình bảo tồn và phát triển làng nghề sản xuất tương truyền thống tại huyện nam đàn, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 113 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu trong bài báo cáo này hoàn toàn trung
thực và kết quả nghiên cứu chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho quá trình thực hiện báo cáo đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong báo cáo này được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2010
Sinh viên

Nguyễn Thị Bắc

LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tôi đã được
sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể và cá nhân. Nhân đây tôi xin
bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến:
Tập thể các thầy, cô giáo trong Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn đã
tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới thầy giáo PGS.TS Mai Thanh Cúc - người
đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn UBND huyện Nam Đàn, Phòng nông nghiệp
huyện Nam Đàn đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu
tại cơ sở, bà con trong hai xã Hùng Tiến,, xã Vân Diên, và thị trấn Nam Đàn đã
giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập thông tin để nghiên cứu để hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình và bạn bè đã chia sẻ, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của
mình.
Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu của các
tập thể và cá nhân đã dành cho tôi.



Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bắc

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CC
CNH

Cơ cấu
Công nghiệp hóa


CNXD

Công nghiệp xây dựng

GTSX

Giá trị sản xuất

GDTX

Giáo dục thường xuyên

GDVH

Gia đình văn hóa

HĐH


Hiện đại hóa

HTX

Hợp tác xã

KHCN

Khoa học công nghệ

MT

Môi trường

SL

Số lượng

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thong


UBND

Uỷ ban nhân dân

XDCB

Xây dựng cơ bản

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Hiện nay, cùng với quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì làng nghề truyền thống tương Nam Đàn đang bị mai một dần,


bị thay thế dần để phù hợp với xu hướng thương mại, thị trường. Chất lượng
tương hiện đang có dấu hiệu giảm dần, những nét riêng và vị ngon đang dần bị
mất đi. Điều đó đồng nghĩa với việc mất đi các giá trị văn hoá truyền thống của
ông cha để lại, là sự xuất hiện của hàng loạt các vấn đề bất cập về việc làm, thu
nhập, tệ nạn xã hội…Vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nghiên cứu tình
hình bảo tồn và phát triển làng nghề sản xuất tương truyền thống tại huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”
Mục tiêu nghiên cứu chung của đề tài là nghiên cứu thực trạng bảo tồn và
phát triển làng nghề tương Nam Đàn, các yếu tố ảnh hưởng đến bảo tồn và phát
triển làng nghề, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm bảo tồn và phát
triển làng nghề sản xuất tương Nam Đàn.
Đề tài được thực hiện tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An với đối tượng
nghiên cứu là các hộ sản xuất trong làng nghề tương Nam Đàn, các bên liên đến
việc bảo tồn và phát triển làng nghề tương.
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích như thống kê mô tả, thống kê
so sánh, công cụ của PRA như lược sử hình thành hội, ma trận SWOT, sơ đồ

VENN; thu thập các số liệu thứ cấp trên các sách, báo cáo, tạp chí…kết hợp với
phương pháp phỏng vấn trực tiếp 60 hộ nông dân ở hai xã Hùng Tiến , Vân Diên
và mọtt thị trấn trên địa bàn huyện qua mẫu bảng hỏi soạn sẵn, các mục tiêu đã
được thực hiện trên nền tảng là các nghiên cứu về lý luận, thực tiễn tại huyện
Nam Đàn.
Qua quá trình tìm hiểu, tôi đã thu được một số kết quả sau:
Tương là sản phẩm truyền thống của người dân huyện Nam Đàn. Có đến
95 % người dân sử dụng tương trong các bữa ăn. Làng nghề làm tương Nam
Đàn giữ một vai trò quan trọng trong nông thôn, trước hết là nhằm giải quyết
mục tiêu kinh tế sử dụng đầu vào có sẵn, tạo công ăn việc làm tăng thu nhập cho
người lao động, thu hút lao động ở địa phương và lân cận, thu hút vốn cho sản
xuất làng nghề, góp phần chuyển dịch cơ cấu nông thôn, nâng cao thu nhập dân


cư, thu hẹp khoảng cách đời sống giữa thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp
và công nghiệp, hạn chế di dân thúc đẩy cơ sở hạ tầng nông thôn, giũ gìn văn
hóa bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, tình hình bảo tồn và phát triển làng nghề tương Nam
Đàn hiện nay bên cạnh những kết quả đạt được như giữ đúng quy trình sản xuất,
phục tráng lại được nguồn nguyên liệu là giống đậu tương địa phương, quy mô
sản xuất tăng lên đáng kể… thì còn có một số tồn tại, khó khăn thách thức cần
giải quyết. Như mặt bằng của các hộ nơi sản xuất vừa là nơi ở vừa là nơi sản
xuất. Nguyên liệu đầu vào chủ yếu là đậu tương xuân gốc Nam Đàn con thiếu
trầm trọng mặc dù tỉnh và huyện cũng đã có nhiều dự án phục tráng lại loại
giống quý này. Trong khi thị trường tiêu thụ vẫn chưa thực sự ổn định, năng lực
quản lý và cơ cấu tổ chức của hội làng nghề còn hạn chế. Ô nhiễm môi trường
do làng nghề để lạị chưa khắc phục được triệt để.
Vì vậy, phương hướng bảo tồn và phát triển làng nghề trong thời gian tới
là khôi phục và duy trì ở mức độ nhất định làng nghề sản phẩm truyền thống
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, đẩy mạnh phát triển làng nghề mà sản phẩm

của nó đang có nhu cầu lớn trên thị trường, chú ý bảo tồn một số công nghệ và
quy trình sản xuất và chế biến, bảo tồn giống đậu tương địa phương xuân gốc
Nam Đàn.
Bảo tồn và phát triển làng nghề tương Nam Đàn phải trên quan điểm
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chương
trình, mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Để bảo tồn và phát triển làng nghề tương Nam Đàn có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến bảo tồn và phát triển làng nghề như : cơ chế chính sách và kết cấu hạ
tầng, yếu tố thị trường, sự phát triển của nghành nông nghiệp và nguyên liệu đầu
vào, yếu tố nguồn nhân lực và truyền thống làm nghề, yếu tố về vốn và kỹ thuật
công nghệ, và một số yếu tố khác….các yếu tố trên tác động không đơn lẻ mà


ảnh hưởng liên kết chặt chẽ với nhau, cùng ảnh hưởng đến sự bảo tồn và phát
triển của làng nghề làm tương.
Bảo tồn và phát triển làng nghề tương Nam Đàn cần có sự tham gia của
các bên có liên quan đến bảo tồn và phát triển làng nghề như: Nhà nước, chính
quyền địa phương, các hộ sản xuất của làng nghề, các tổ chức xã hội như hội
nông dân, hội phụ nữ….
Để thúc đẩy và bảo tồn và phát triển làng nghề tương, trên phương diện vĩ
mô cần phải thực thi đồng bộ nhiều chính sách và giải pháp nhằm khuyến khích,
hỗ trợ, giúp đỡ, tạo môi trường thuận lợi cho sự khôi phục và phát triển của làng
nghề làm tương trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến các giải pháp như giải pháp về thị
trường, giải pháp về kỹ thuật và công nghệ, giải pháp về vốn, giải pháp về nhân
lực và truyền thống làm nghề, giải pháp về kết cấu hạ tầng, giải pháp về môi
trường…
Nghiên cứu về bảo tồn và phát triển làng nghề nói chung và làng nghề
làm tương nói riêng diễn ra như thế nào trong thời gian tới cần có một công trình
nghiên cứu công phu hơn nữa. Cần phải mở rộng đầu tư phát triển sản xuất

tương hàng hóa nhiều hơn nữa, tăng nhanh sản lượng và doanh thu cho người
sản xuất. Nên gom các hộ sản xuất tương hàng hóa lại theo hướng tập trung để
dễ dàng đầu tư phát triển và quản lý chất lượng đầu ra sản phẩm. Cần nghiên
cứu xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm qua việc mở hội chợ trên các
phương tiện trên thông tin đại chúng nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
khắp nước, và cần tới những nghiên cứu sâu hơn về sản phẩm tương Nam Đàn
để đánh giá về vệ sinh an toàn thực phẩm, đưa ra được quy trình chuẩn đạt chất
lượng cao nhất. Xây dựng các phương án khả thi hơn nữa để đưa sản phẩm
tương từ sản xuất nhỏ lẻ manh mún thành sản xuất có quy mô lớn hơn.


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường, mọi lĩnh vực hoạt động được khơi
dậy có đóng góp tích cực vào mức tăng trưởng của nền kinh tế. Trong dòng chảy
chung đó có sự phát triển của hoạt động nghành nghề ở khu vực nông thôn, nơi
có gần 80% dân số đang sinh sống.
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, hầu hết dân cư sống ở vùng nông
thôn đều có hoạt động thêm nghành nghề phụ, với mục đích ban đầu sản xuất ra
phục vụ cho nhu cầu trong đời sống của hộ gia đình mang tính chất tự cung tự
cấp. Nhưng qua một quá trình dài phát triển do có sự khác nhau về tay nghề và
kinh nghiệm tích luỹ được ở từng địa phương nhất định đã có sự chuyên môn
hoá và các sản phẩm làm ra bắt đầu đưa ra thị trường trao đổi như những loại
hàng hoá.
Trên thế giới cũng như Việt Nam đang tồn tại rất nhiều làng nghề truyền
thống. Làng nghề giữ một vai trò rất quan trọng trong nông thôn, trước hết nhằm
giải quyết các mục tiêu kinh tế sử dụng đầu vào có sẵn, tạo công ăn việc làm
tăng thu nhập cho người lao động, thu hút lao động ở địa phương và các vùng
lân cận, thu hút vốn cho sản xuất ở làng nghề, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông thôn, nâng cao thu nhập dân cư, thu hẹp khoảng cách đời sống giữa
thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp và công nghiệp, hạn chế di dân thúc
đẩy phát triển hạ tầng nông thôn giữ gìn văn hóa bản sắc dân tộc. Nhưng cũng
có rất nhiều làng nghề bị mất đi theo thời gian, sự mất đi của các nghề truyền
thống đồng nghĩa với việc mất đi các giá trị văn hóa truyền thống .
Nam Đàn nằm ở vị trí thuận lợi. Trên một huyết mạch giao thông lớn của
tỉnh, không xa thành phố Vinh – Trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của
Nghệ An và Cửa Lò – một điểm du lịch nổi tiếng. Đây không chỉ là mảnh đất


địa linh nhân kiệt nổi tiếng với các danh nhân lịch sử, một điểm dừng chân
không thể bỏ qua của du khách trong các chuyến xuyên Việt từ Bắc ra, từ Nam
vào và còn được biết đến với nghề làm tương truyền thống. Loại tương mà
người dân sản xuất ở đây xem là đặc sản có từ lâu, tồn tại và được lưu truyền từ
đời này qua đời khác. Nó đã bắt đầu trở thành một loại mặt hàng được ưa
chuộng bởi những hương vị đặc biệt với những người dân Nam Đàn nói riêng và
người dân trong cả nước đã một lần dùng đến nó nói chung.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đó thì làng nghề truyền thống này đang bị mai một dần, bị thay
thế dần để phù hợp với xu hướng thương mại, thị trường. Chất lượng tương
hiện đang có dấu hiệu giảm dần, những nét riêng và vị ngon đang dần bị mất đi.
Điều đó đồng nghĩa với việc mất đi các giá trị văn hoá truyền thống của ông cha
để lại, là sự xuất hiện của hàng loạt các vấn đề bất cập về việc làm, thu nhập, tệ
nạn xã hội,……. Vấn đề đặt ra là tại sao phải bảo tồn nghề làm tương tại huyện
Nam Đàn ? Tại sao lại đặt vấn đề phát triển sản xuất tương ở đây, tương Nam
Đàn đã được bảo tồn và phát triển như thế nào ? Những vấn đề gì đặt ra để bảo
tồn và phát triển được loại đặc sản truyền thống này?
Từ ý nghĩa thực tiễn đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nghiên cứu
tình hình bảo tồn và phát triển làng nghề sản xuất tương truyền thống tại
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An”.



1.2 Mục đích nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung:
Nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát triển làng nghề tương Nam Đàn,
các yếu tố ảnh hưởng đến bảo tồn và phát triển làng nghề, từ đó đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm bảo tồn và phát triển làng nghề tương Nam Đàn.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
• Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về vấn đề bảo tồn
và phát triển làng nghề truyền thống.
• Đánh giá thực trạng bảo tồn và phát triển làng nghề tương Nam Đàn, và
các yếu tố ảnh hưởng đến bảo tồn và phát triển làng nghề tương Nam Đàn.
• Đề xuất các định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm bảo tồn và phát triển
làng nghề tương truyền thống trong thời gian tới tại huyện Nam Đàn,tỉnh Nghệ
An.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các hộ sản xuất trong làng nghề tương Nam Đàn, các bên liên quan đến
việc bảo tồn và phát triển làng nghề tương.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
• Phạm vi nội dung : Nghiên cứu về bảo tồn và phát triển làng nghề tương
theo góc nhìn của nhà quản lý


Phạm vi không gian: Các hộ gia đình sản xuất tương trên địa bàn 2

Xã Hùng Tiến, Vân Diên, và Thị Trấn Nam Đàn trên địa bàn huyện Nam Đàn.
• Thời gian : Lấy số liệu qua 3 năm: 2007, 2008, 2009. Thời gian nghiên
cứu: 20/2/2010 đến 1/5/2010



PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Một số lí luận cơ bản về làng nghề, làng nghề truyền thống tương
2.1.1.1 Khái niệm về làng nghề
Cho đến nay có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm làng nghề, theo giáo
sư Trần Quốc Vượng thì: làng nghề là làng tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu
nông và chăn nuôi nhỏ song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một
tầng lớp thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp có phường, có ông
trùm, ông phó cả…Cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình
công nghệ nhất định sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng
thủ công, những mặt hàng đã có tính mỹ nghệ trở thành sản phẩm hàng hóa và
có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng xung quanh và tiến tới mở rộng ra
cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài. Những làng nghề ấy ít nhiều đã nổi
danh từ lâu “ Dân biết mặt, nước biết tên, tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao
tục ngữ ” trở thành văn hóa dân gian [14 ]
Theo tác giả Bùi Văn Vượng thì “Làng nghề truyền thống là làng cổ
truyền thủ công, ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ
công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề
nông nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản
xuất hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình…” [12]
Làng nghề là những làng sống bằng hoặc chủ yếu bằng nghề thủ công ở
nông thôn Việt Nam [2].
Vậy khái niệm làng nghề có thể bao gồm những nội dung sau: “ Làng
nghề là một thiết chế kinh tế-xã hội ở nông thôn được cấu thành bởi hai yếu tố
làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao gồm
nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết
về kinh tế, xã hội và văn hóa [23].



Theo quy định tạm thời của cục chế biến nông lâm sản và ngành nghề
nông thôn (cơ quan trực thuộc bộ nông nghiệp giao nhiệm vụ quản lý nhà nước
về lĩnh vực này) thì :
Làng nghề là làng ở nông thôn có nghành nghề phi nông nghiệp phát triển
tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc nguồn thu nhập quan trọng của người
dân trong làng. Về mặt định lượng, làng nghề là làng có từ 35- 40 % số hộ trở
lên có tham gia hoạt động nghành nghề và có thể sống bằng chính nguồn thu
nhập từ nghành nghề và giá trij sản lượng của nghành nghề chiếm trên 50 %
tổng giá trị sản lượng của địa phương. Vì vậy , khái niệm làng nghề cần được
hiểu là những làng ở nông thôn có nghành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế
về số hộ, số lao động và thu nhập so với nghề nông.
2.1.1.2 Khái niệm về làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống trước hết làlàng nghề được tồn tại và phát triển
lâu đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ công truyền
thống, là nơi quy tụ các nghệ nhân và đội ngũ các lành nghề, là nơi có nhiều hộ
gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ
nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt là các
thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc [13].
2.1.1.3 Khái niệm về làng nghề tương Nam Đàn
Từ hàng ngàn năm nay nhân dân ta đã dùng đậu tương để chế biến ra
nhiều loại thức ăn mà phổ biến là tương.Tương là một loại nước chấm khá phổ
biến ở Việt Nam và nhiều người Đông Nam Á cũng ăn tương. Tương được làm
từ các nguyên liệu thực vật giàu đạm, đặc biệt là từ đậu tương nên giá trị dinh
dưỡng của nó rất cao, vừa ngon vừa rẻ. Các cụ thường nói “ Tương cà là gia
bản”.
Làm tương Nam Đàn đòi hỏi phải có sự công phu và tỉ mỉ không phải ai
cũng có thể thành công, một chum tương ngon đúng hương vị của tương Nam
Đàn thường chỉ do người già sinh ra và lớn lên ở Nam Đàn mới có thể làm được.



Tương đạt yêu cầu là tương có 3 lớp trên là đậu nổi lên, giữa là nước và cuối
cùng là mốc. Một điều thú vị là người dân Nam Đàn thường chỉ làm tương vào
tháng sáu âm lịch hàng năm. Cũng giống như nước mắm tương có thể để rất lâu
dùng ăn cho cả năm mà không sợ hỏng. Chính vì thế, với những người dân quê
đạm bạc tương là món ăn mặn dùng để dành rất tốt. Tương dùng để ăn với cơm
thay cho thức ăn mặn là một các phổ biến của người dân, Tuy nhiên, khi kết hợp
với những món ăn khác cũng làm thành những món ăn rất thú vị.
Nam Đàn là một trong ba vùng làm tương ngon nổi tiếng cùng với tương
Bần (Hưng Yên) và tương Cự Đà (Hà Tây). Bất kỳ gia đình nào ở Nam Đàn
cũng biết làm tương. Ngoài việc dùng tương trong bữa ăn hàng ngày, tương còn
được dùng để biếu bạn bè gần xa và bán ra thị trường. Tuy nhiên, những người
thành thạo, có bí quyết làm ra những chum tương ngon hiện nay không còn
nhiều.
Khác với những loại tương khác, tương Nam Đàn là loại tương mảnh, hạt
đỗ khi thành tương thì chỉ vỡ thành từng mảnh chứ không nát. Tương Nam Đàn
có màu vàng sánh, vị ngọt. Về quy trình chế biến tương Nam Đàn không khác
nhiều lắm so với các loại tương cùng loại. Cái khác chính là việc chọn nguyên
liệu và sự tỉ mỉ trong chế biến của người làm tương ở Nam Đàn. Điểm đặc biệt
chính của tương Nam Đàn, ngoài thứ tương làm bằng mốc nếp, còn có loại
tương làm bằng mốc ngô bắp. Tương ngon ngọt là tương làm bằng mốc nếp,
nhiều đậu, phơi được nắng. Chất lượng tương ngoài được đánh giá bằng các chỉ
tiêu sinh hóa tức là đánh giá về mặt dinh dưỡng thì nó còn được đánh giá bằng
cảm quang thông qua việc nếm thử để cảm nhận được mùi vị, độ ngọt hay độ
chua. Từ đó có thể đánh giá được chất lượng của tương, và đây cũng là một
phương pháp giúp đưa tương đến gần với mọi người dân hơn, cho biết mức độ
chấp nhận của người dân về loại tương đó. Bởi vì tuy tương có thành phần dinh
dưỡng cao nhưng chưa chắc đã phù hợp với người tiêu dùng.


2.1.1.4 Đặc điểm và điều kiện hình thành của làng nghề

2.1.1.4.1 Đặc điểm của làng nghề
Cùng với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và quá trình phát
triển đô thị, làng nghề cũng không ngừng biến đổi. Làng nghề có những đặc
điểm sau:
a. Đặc điểm nổi bật nhất của làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ
với nông nghiệp
Các nghành nghề thủ công nghiệp tách dần khỏi nông nghiệp nhưng
không rời khỏi nông thôn. Sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ
công nghiệp trong làng nghề đan xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước hết và
đồng thời là người nông dân. Các gia đình nông dân vừa làm ruộng vừa làm
nghề sản xuất thủ công nghiệp. Sự ra đời của làng nghề đầu tiên là do nhu cầu
giải quyết lao động phụ, lao động dư thừa nhàn rỗi giữa các mùa vụ và đáp ứng
nhu cấu it ỏi về hàng tiêu dùng của từng gia đình và từng làng xã. Trong làng
nghề, người nông dân thường tự sản xuất đáp ứng phần lớn nhu cầu ít ỏi của
mình về hàng tiêu dùng.
b. Công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong làng nghề, đặc biệt là làng nghề
truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, cộng với thói quen của người sản xuất
tiểu nông nên công nghệ chậm được cải tiến và thay thế
Để tồn tại, sản xuất trong làng nghề phải có sự kết hợp công nghệ hiện đại
ở những công đoạn nhất định với kinh nghiệm, kỹ thuật sản xuất thủ công theo
hướng tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo. Đối với những làng
nghề truyền thống, công nghệ có sự cải tiến, xong vẫn mang yếu tố truyền
thống. Đặc điểm này tồn tại trong suốt quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn kể cả khi quá trình này hình thành.
c. Đại bộ phận nguyên liệu của làng nghề thường là tại chỗ hoặc vùng lân cận
Làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ có sẵn nguồn
nguyên liệu tại chỗ, trên địa bàn địa phương. Đặc biêt, nghề truyền thống sản


xuất những sản phẩm tiêu dùng ( làm tương…), nguyên liệu thường có tại chỗ,

trên địa bàn, địa phương.
d. Phần đông lao động trong làng nghề là lao động thủ công, nhờ vào kỹ thuật
khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay và đầy tính sáng tạo của những người thợ,
của các nghệ nhân. Phương pháp dạy nghề chủ yếu được thực hiện theo phương
thức truyền nghề
Lao động trong làng nghề đặc biệt là làng nghề truyền thống, chủ yếu là
lao động thủ công nhờ vào kỹ thuật khéo léo. Trước kia, do trình độ khoa học và
công nghệ chưa phát triển thì hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều
là lao động thủ công giản đơn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, việc ứng dụng khoa học - công nghệ mới và nhiều công đoạn trong
sản xuất làng nghề, đã giảm bớt lực lượng lao động giản đơn. Tuy nhiên một số
công đoạn trong quá trình sản xuất vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ công
tinh xảo. Hầu hết dù các làng nghề dù được hình thành từ con đường nào đi nữa
thì chúng đều có các nghệ nhân làm nòng cốt và là người thầy hướng dẫn đến
phát triển làng nghề.
Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề trong các
gia đình từ đời này qua đời khác và chỉ khuôn tại từng làng. Các kinh nghiệm
sản xuất thường được bảo tồn trong từng gia đình, ít được phổ biến ra ngoài.
Trong những năm đổi mới với việc phát triển mạnh kinh tế tư nhân và hộ gia
đình cá thể trong làng nghề đã khôi phục phương thức dạy nghề theo lối truyền
nghề đã có nhiều thay đổi mang tính đa dạng và phong phú hơn và các bí quyết
nghề nghiệp không còn giữ được bí mật như trước.
e. Sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề truyền thông sản phẩm mang tính
riêng có của làng nghề, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
Sản phẩm thủ công của làng nghề được hình thành là do sự kết hợp giữa
lao động khéo léo của thủ công với kinh nghiệm được tích lũy qua nhiều thế hệ
và trải qua thời gian, tích lũy thành bí quyết nghề nghiệp - điều kiện tạo nên sắc


thái riêng của sản phẩm. Công nghệ sản xuất sản phẩm thủ công trong làng nghề
khó có thể thay đổi bằng công nghệ hiện đại ở một số công đoạn nên người thợ

vẫn dùng kỹ thuật thủ công để tạo nên tính truyền thống cho sản phẩm. Nếu
không có hoạt động sản xuất thủ công của các nghệ nhân thì sản phẩm của làng
nghề không mang tính đặc trưng.
g. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề hầu hết mang tính địa phương,
tại chỗ, nhỏ hẹp
Sự ra đời của làng nghề, đặc biệt đối với làng nghề sản xuất tương, là xuất
phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ của địa phương. Thị
trường làng nghề về cơ bản vẫn là thị trường địa phương, là tỉnh hay liên tỉnh.
Vì vậy. khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường thì làng
nghề sản xuất tương Nam Đàn và nhiều hộ sản xuất trong làng nghề đã đứng
trước những khó khăn không nhỏ.
h. Hình thức tổ chức sản xuất trong làng nghề chủ yếu ở quy mô hộ gia đình,
một số đã có sự phát triển hình thành những tổ chức khác nhau
Với hình thức này hầu như tất cả các thành viên trong hộ đều được huy
động vào làm những công việc khác nhau. Người chủ gia đình thường đồng thời
là người thợ cả, người quản lý mà trong số họ có không ít nghệ nhân. Tổ chức
sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình đảm bảo được sự gắn bó giữa quyền lợi và
trách nhiệm, huy động được mọi lực lượng có khả năng lao động tham gia sản
xuất – kinh doanh, tận dụng được thời gian và nhu cầu đầu tư thấp. Đây là hình
thức tổ chức thích hợp với quy mô sản xuất nhỏ. Từ khi thực hiện phát triển theo
cơ chế thị trường, nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư về mọi mặt để thành lập
doanh nghiệp nhằm đáp ứng yếu tố sản xuất [8].


2.1.1.4.2 Điều kiện để hình thành làng nghề
Sự tồn tại và phát triển của làng nghề cần có nhưng điều kiện cơ bản nhất
định sau:
Một là, gần đường giao thông. Hầu hết những làng nghề cổ truyền đều
nằm trên những đầu mối giao thông quan trọng, đặc biệt là những đầu mối giao
thông thủy, bộ. Nằm ở vị trí này cho phép làng nghề có thể kết hợp sử dụng các

loại phương tiện vận chuyển khác nhau để chở nguyên vật liệu về và chở sản
phẩm đi tiêu thụ hoặc có điều kiện thu hút các thương nhân đến buôn bán sản
phẩm của làng nghề.
Hai là, gần nguồn nguyên liệu. Hầu như không có làng nghề nào mà lại
không gắn bó chặt chẽ với một trong những nguồn nguyên liệu chủ yếu phục vụ
cho sản xuất của làng nghề. Phần lớn làng nghề hình thành nghề chính của mình
xuất phát từ nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương hoặc ở vùng lân cận
Ba là, gần nơi tiêu thụ sản phẩm hoặc thị trường chính. Làng nghề nói
chung đều được đặt gần nơi tiêu thụ mà thường là các nơi tập trung dân cư với
mật độ khá cao, gần chợ búa, bến sông bãi chợ, và đặc biệt là rất gần các trung
tâm thương mại.
Bốn là, sức ép về kinh tế. Nhiều khi đây lại là nguyên nhân trực tiếp thúc
đẩy sự hình thành và phát triển của các làng nghề. Biểu hiện rõ nhất là sự hình
thành và phát triển của những làng nghề ở những nơi ít ruộng đất, mật độ dân số
cao, đất chặt người đông thêm vào đó có khi còn là do chất đất hoặc khí hậu
không phù hợp, làm cho nghề nông khó có điều kiện phát triển để đảm bảo thu
nhập và đời sống cho cư dân trong làng. Sức ép kinh tế đó, buộc cư dân của làng
phải tìm các nghành nghề phi nông nghiệp để đảm bảo cuộc sống hàng ngày
càng thịnh vượng hơn. Hầu hết các làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển
mạnh mẽ đến ngày nay đều có mật độ dân số cao, diện tích đất nông nghiệp trên
đầu người thấp


Năm là, lao động và tập quán sản xuất ở từng vùng. Điều kiện này cũng
ảnh hưởng nhất định tới sự hình thành và phát triển của làng nghề. Nếu không
có những tâm huyết với nghề, có nhiều quan hệ gắn bó với nghề và có những
khả năng ứng phó với các tình huống xấu, bất lợi thì làng nghề cũng khó có thể
tồn tại một cách bền vững. Những kỹ năng kỹ xảo của người thợ, những phong
tục tập quán, những luật lệ, quy chế của làng, của các dòng họ, phường hội….là
những nhân tố không kém phần quan trọng làm cho làng nghề đó tồn tại bền

vững và phát triển nhất. Chúng tạo thành những chất keo gắn kết làm cho làng
nghề tồn tại và phát triển bền vững [8].
2.1.1.5 Ý nghĩa về phát triển làng nghề
Trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước, Đảng ta đã đặt mục
tiêu CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn lên hàng đầu. Điều đó được thể hiện rõ
trong nội dung CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn ở Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII, đó là:
- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp phục vụ CNH.
- Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá vào sản
xuất nông nghiệp.
- Phát triển chế biến nông, lâm, thuỷ, hải sản với công nghệ ngày càng
cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
- Phát triển các ngành nghề và làng nghề truyền thống và các ngành nghề
mới bao gồm cả tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi
nông nghiệp, các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội theo đồng bộ và hiện đại, xây
dựng nông thôn mới giàu có và văn minh
Chủ trương phát triển kinh tế trong đó có chủ trương phát triển làng nghề
được cụ thể hoá hơn ở Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX: “ Tiếp tục
phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới


bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; đẩy
mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi
mới cơ chế cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích; giải
quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các
ngành đa dạng, chú trọng công nghệ chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các
làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực

công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và cư dân ở nông thôn” [14 ].
Đối với ngành nghề nông thôn, nhiệm vụ của nó đã được nhấn mạnh hơn
trong phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001
– 2005: “Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về
nông thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ
thuật, trao đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn..., tăng nhanh việc làm cho khu
vực phi nông nghiệp” [2].
Từ đó ta thấy được phát triển làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng cả về
kinh tế và xã hội.
a. Ý nghĩa về kinh tế
Trong quá trình vận động và phát triển, các làng nghề để có ý nghĩa quan
trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, đó là tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thu
hẹp tỷ trọng của nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu
nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Trong phát
triển nông nghiệp thì các làng nghề đã cung cấp tư liệu sản xuất (công cụ sản
xuất: cuốc, cày...) và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp. Ví dụ
như khi ngành chế biến phát triển yêu cầu nguyên liệu từ nông nghiệp phải
nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng cao hơn. Do vậy, trong nông nghiệp hình


thành những khu vực nông nghiệp chuyên môn hoá, tạo ra năng suất lao động
cao hơn và nhiều sản phẩm hàng hoá. Mặt khác, có thể thấy kết quả sản xuất ở
các làng nghề cho thu nhập và giá trị sản lượng cao hơn hẳn so với sản xuất
nông nghiệp. Do từng bước tiếp cận với nền kinh tế thị trường, người lao động
nhanh chóng chuyển sang đầu tư cho các ngành nghề phi nông nghiệp, khu vực
sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, khu vực sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp được tăng lên, hoạt động dịch vụ ở nông thôn cũng được mở rộng về quy

mô, địa bàn hoạt động để thu hút nhiều lao động.
Ở nước ta, các làng nghề được phân bố rộng khắp ở các vùng nông thôn,
hàng năm sản xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá khá lớn, đóng góp
đáng kể cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói riêng,
làm tăng tổng giá trị sản phẩm hàng hoá của cả nước. Ví dụ tỉnh Bắc Ninh, năm
1998 giá trị sản phẩm hàng hoá của các làng nghề là 210 tỉ đồng, chiếm 3/4
tổng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh. Năm 1998, làng nghề ở Bắc
Ninh đã nộp ngân sách nhà nước là 21,350 tỉ đồng, trong khi các xí nghiệp quốc
doanh chỉ thu được 3,4 tỉ đồng. Năm 2002 đạt khoảng 800 tỉ đồng, chiếm 50%
giá trị công nghiệp của địa phương, đóng góp 62% kim ngạch xuất khẩu của
tỉnh. Giá trị công nghiệp của ngành nghề nông thôn ở tỉnh Hải Dương đạt 560 tỉ
đồng năm 1998, 608 tỉ đồng năm 1999 và 637 tỉ đồng năm 2000 [14].
b. Ý nghĩa về xã hội
- Phát triển toàn diện kinh tế – xã hội nông thôn, tạo việc làm, nâng cao
đời sống cho dân cư nông thôn là vấn đề quan trọng ở nước ta hiện nay. Với
83% dân số và 73% lao động của cả nước, đất đai canh tác lại bị hạn chế bởi
giới hạn của tự nhiên, đây là một thách đố lớn đối với sự phát triển nông nghiệp
và kinh tế nông thôn [ 6 ]. Sự phát triển của làng nghề đã kéo theo sự hình thành
và phát triển của các nghề khác, đã tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Nó không chỉ giải quyết việc làm cho cư dân trong vùng mà còn tạo việc làm
cho cư dân các vùng lân cận. Người dân có việc làm nhờ đó thu nhập của họ


được tăng cao, đời sống bớt khó khăn hơn, mặt khác bản tính của người nông
dân là tiết kiệm, nên họ đã biết chi tiêu hợp lý và bắt đầu có tích luỹ. Vì vậy
cuộc sống của người dân trong các làng nghề thường có mức sống cao hơn so
với các làng chỉ sản xuất thuần nông.
- Khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có trong nông thôn: vốn, lao
động.
Một đặc điểm của sản xuất trong các làng nghề là quy mô nhỏ, cơ cấu vốn

và cơ cấu lao động ít nên rất phù hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn
lực vật chất của các hộ gia đình. Điều đó tạo điều kiện cho hộ tận dụng được
vốn nhàn rỗi trong dân vào đầu tư sản xuất kinh doanh. Mặt khác việc sản xuất ở
các làng nghề chủ yếu là hộ gia đình nên đã tận dụng và thu hút nhiều loại lao
động, từ lao động thời vụ nông nhàn đến lao động trên độ tuổi hay dưới độ tuổi,
lực lượng lao động này chiếm một tỉ lệ rất đáng kể trong tổng số lao động làng
nghề.
2.1.2 Một số lí luận về bảo tồn, phát triển
2.1.2.1 Khái niệm về bảo tồn
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về bảo tồn, là cụm từ dùng để chỉ sự duy
trì những sản phẩm hữu hình hoặc vô hình có giá trị lịch sử, mang trong mình
yếu tố văn hóa sâu sắc. Theo từ điển Tiếng Việt (1999), Nhà xuất bản Thanh
Hóa, bảo tồn là giữ lại không để cho mất đi.
Bảo tồn là một khái niệm rộng, trong mọi lĩnh vực, xét ở những góc độ
khác nhau, hoàn cảnh khác nhau thì cũng khác nhau. Qua tìm hiểu thì chưa có
khái niệm cụ thể, tổng quát nào về bảo tồn được đưa ra. Nếu xét ở góc độ khoa
học xã hội có thể hiểu “Bảo tồn là lưu giữ lại những giá trị, những cái vốn có
của nó mà đang có nguy cơ bị mai một hoặc mất đi theo thời gian”. Cùng với sự
phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa như hiện nay, thì có rất
nhiều những nét trong sản phẩm truyền thống mất đi, như những bí quyết, những
đặc điểm, hay những nét tinh hoa đang bị thay thế dần, hoặc đang bị mai một


dần, và nếu cứ để tiếp tục như vậy, thì cùng với thời gian những cái nét quý giá
đó sẽ mất đi mãi mãi. Chính vì vậy, trong khi nó chưa bị mất đi hoàn toàn, thì ta
phải giữ gìn, bảo lưu lại những cái vốn có từ lâu đời đó. Như vậy thì được gọi là
bảo tồn. Trong bảo tồn, đối với từng lĩnh vực cũng thế, những cái gì mà có nguy
cơ mai một thì phải giữ lại. Ví như trong một nghề truyền thống, nếu bí quyết
làm là quan trọng, nhưng số người đang nắm giữ những bí quyết đó còn rất ít,
thì ta phải bảo tồn lấy bí quyết, những người trẻ phải nối tiếp thế hệ trước. Còn

nếu là một đặc sản đang bị thay thế, đang bị mất dần đi những vị ngon, đặc
trưng của nó, những mất đi này là do xu hướng sản xuất hàng hóa, thị trường xã
hội,… thì ta phải bảo tồn lấy những cái vị đó, chất lượng của loại sản phẩm đó.
2.1.2.2 Khái niệm về phát triển
Có rất nhiều quan niệm về phát triển, nhưng có 2 quan điểm lớn
- Quan điểm truyền thống (sau chiến tranh thế giới thứ II – trước 1970): Cho
rằng phát triển là sự tăng trưởng, tăng năng suất lao động, mở rộng sản xuất.
- Quan điểm hiện đại (sau những năm 1970): Cho rằng phát triển một đất
nước không chỉ nhắm hết nguồn lực vào kinh tế. Quan tâm lớn nhất của hộ là
giảm bất bình đẳng, tập trung xóa đói giảm nghèo trong một bối cảnh có tăng
trưởng. Hay nói cách khác tăng trưởng chỉ là điều kiên cần cho sự phát triển chứ
không phải là mục tiêu của sự phát triển.
+ Sau những năm 1980 thế giới bắt đầu trải qua những thời kì có sự náo
động của sự biến đổi môi trường, thảm họa thiên nhiên, ô nhiễm môi trường.
Nếu chỉ tập trung nâng cao cuộc sống của con người mà lại ảnh hưởng đến môi
trường thì ngược lại những tổn thất môi trường dẫn đến sự không bền vững cho
sự phát triển, từ đó đưa ra quan điểm “phát triển bền vững”, Ngoài mục tiêu kinh
tế xã hội, phát triển bền vững phải quan tâm đến môi trường.
+ Năm 1897 Liên Hợp Quốc định nghĩa: “Phát triển bền vững là một quá
trình của sự thay đổi, trong đó việc khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu
tư, hướng phát triển của công nghệ và kĩ thuật và sự thay đổi về tổ chức là


thống nhất làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại, và tương lai của con
người”.
+ Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992 tổ chức tại Rio de Janeiro
đưa ra định nghĩa vắn tắt về phát triển bền vững: “ Phát triển nhằm thỏa mãn
nhu cầu của thế hệ ngày nay, mà không làm tổn hại khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai”.
2.1.2.3 Vai trò của bảo tồn và phát triển làng nghề

a. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn là nhằm phát triển kinh tế nông
thôn lên một bước mới về chất, làm thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động,
cơ cấu việc làm, cơ cấu giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập của dân cư nông
thôn bằng các nguồn lợi từ các lĩnh vực trong nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Với mục tiêu như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ngày
càng được thúc đẩy, nó diễn ra ngay trong nội bộ ngành nông nghiệp và cả các
bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế nông thôn. Sự phát triển của các làng
nghề đã tạo ra một nền kinh tế đa dạng ở nông thôn, với sự thay đổi về cơ cấu,
phong phú đa dạng về loại hình sản phẩm. Nghĩa là khi nghề thủ công xuất hiện
thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh
đó còn có các ngành thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ cùng tồn tại và phát
triển [8]
b. Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông thôn
Nước ta là một nước sản xuất nông nghiệp là chính, dân số tập trung ở
nông thôn chiếm tỉ lệ cao, lao động chỉ tập trung vào một vài tháng vụ mùa, còn
những lúc nông nhàn thì họ không có việc làm. Những năm gần đây phát triển
làng nghề để giải quyết việc làm cho gần 10 triệu lao động, chiếm 29,5% lực
lượng lao động nông thôn [8]. Việc phát triển làng nghề không chỉ giải quyết


việc làm cho lao động tại địa phương mà còn tạo việc làm cho lao động tại các
địa phương khác.
Việc phát triển làng nghề tạo ra một khối lượng lớn hàng hoá mỗi năm
nên mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá là cần thiết và là nhân tố quan trọng
để kích thích sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu lao động thủ
công chuyên nghiệp và nông nhàn. Người ta đã tính toán rằng, cứ xuất khẩu một
triệu USD hàng thủ công thì tạo được việc làm và thu nhập cho khoảng 3000 –
4000 lao động, chủ yếu là lao động tại địa phương và các vùng lân cận. [8]. Nếu

so sánh với mức thu nhập của lao động nông nghiệp thì thu nhập của lao động
ngành nghề cao hơn khoảng 2 đến 4 lần, đặc biệt là so với chi phí về lao động và
diện tích sử dụng đất thấp hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp.
c. Đa dạng hoá kinh tế nông thôn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá
Đa dạng hoá kinh tế nông thôn là một trong những nội dung quan trọng
của công nghiệp hoá nông thôn nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập và cải
thiện đời sống của người dân nông thôn. Sự phát triển của làng nghề đã phá vỡ
thế độc canh trong các làng thuần nông, mở ra hướng phát triển mới với nhiều
nghề trong một làng nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của nông nghiệp sự
phát triển của làng nghề đã đem lại hiệu quả cao trong việc sử dụng hợp lý các
nguồn lực ở nông thôn như đất đai, lao động, nguyên vật liệu, thị trường. Ở
những vùng có nhiều ngành nghề phát triển thường hình thành nên một trung
tâm giao lưu buôn bán, dịch vụ và trao đổi hàng hoá.
d. Cải thiện đời sống của nhân dân và xây dựng nông thôn mới
Ở những vùng có làng nghề phát triển đều thể hiện một sự văn minh, giàu
có, dân trí cao hơn hẳn những vùng mà chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp. ở
các làng nghề, tỷ lệ hộ khá và giàu thường rất cao, tỷ lệ hộ nghèo thấp và hầu
như không có hộ đói. Thu nhập từ nghề thủ công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu
nhập để đem lại cho người dân ở đây một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả
về vật chất và tinh thần. Nhà cao tầng của các hộ dân được xây dựng nhiều, tỷ lệ


hộ có các loại đồ dùng tiện nghi đắt tiền chiếm tỷ lệ khá. Làng Tân Lễ (Thái
Bình) tỷ lệ hộ khá, giàu chiếm gần 80% tổng số hộ của địa phương. Làng nghề
Bát Tràng (Hà Nội) mức thu nhập bình quân thu nhập của các hộ thấp cũng đạt
tới 10 – 20 triệu đồng/năm, của các hộ trung bình là 40 – 50 triệu đồng/năm, còn
của các hộ cao thì đạt tới hàng trăm triệu đồng/năm [8]. Cùng với việc tăng thu
nhập của người dân sự phát triển của làng nghề cũng để tạo ra một nguồn tích
luỹ khá lớn và ổn định cho ngân sách địa phương. Đời sống vật chất và tinh thần
của người dân được cải thiện, sức mua tăng lên, tạo thị trường cho công nghiệp

và dịch vụ phát triển.
e. Tăng giá trị sản phẩm hàng hóa
Sự phục hồi và phát triển các làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng đối với
phát triển kinh tế địa phương. Với quy mô nhỏ bé, hàng năm làng nghề cũng đã
sản xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa khá lớn, đóng góp đáng kể cho
nền kinh tế quốc dân nói chung và cho địa phương nói riêng. Sản phẩm của làng
nghề là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa nông thôn.
f. Bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc
Một số sản phẩm của làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống, mang
tính nghệ thuật cao, mang đặc tính riêng có của làng nghề và những sản phẩm đó
trở thành sản phẩm văn hóa, được coi là biểu tượng của cái đẹp mang truyền
thống dân tộc. Sản phẩm truyền thống của làng nghề là nét đặc sắc, biểu trưng
của nền văn hóa cộng đồng làng xã Việt Nam qua những mặt hàng thủ công
truyền thống. Nghề truyền thống chính là di sản quý giá mà ông cha ta đã tạo lập
và để lại cho đời sau nên phát triển làng nghề, đặc biệt là làng nghề truyền
thống, chính là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc là rất cần thiết vì suy cho đến cùng nền văn hóa của mỗi dân tộc sẽ có
tính chất quyết định sự tồm tại của dân tộc đó. Nhưng việc phát triển làng nghề
giữ gìn bẳn sắc văn hóa dân tộc cần gắn với hiện đại hóa để tăng thêm tính cạnh
tranh của sản phẩm. Việc giữ gìn bẳn sắc văn hóa dân tộc đòi hỏi quá trình hiện


đại hóa sản xuất làng nghề đi liền với bảo tồn văn hóa dân tộc, phong tục tập
quán tốt đẹp của làng nghề.
Việc phát triển làng nghề còn góp phần nâng cao đời sống văn hóa và tinh
thần cho cư dân nông thôn. Ở làng nghề truyền thống, nghề có ảnh hưởng trực
tiếp đến văn hóa tinh thần, tác động đến tâm lí, tình cảm, phong tục tập quán, lề
lối làm việc của làng làm cho đặc trưng văn hóa nghề nghiệp cũng mang đậm
nét ở những nơi đó.
Qua làng nghề có thể hiểu thêm văn hóa của nghề, hiểu thêm một phương

diện của con người, một sắc thái văn hóa của con người và quê hương đất nước.
Tuy quy mô nhỏ, công nghệ còn lạc hậu nhưng so với hoạt động nông nghiệp,
hoạt động tiểu thủ công nghiệp, làng nghề nông thôn là bước tiến trong trình độ
sản xuất của nông thôn như trình độ trang bị, yêu cầu gắn kết với thị trường. Do
đó, bảo tồn và phát triển làng nghề góp phần không nhỏ trong việc cải biến
những hạn chế tiểu nông của nông dân.
Tóm lại, bảo tồn và phát triển làng nghề góp phần vào việc giữ gìn các giá
trị văn hóa của dân tộc và nâng cao đời sống tinh thần cho cư dân ở nông thôn.
Đó là niềm tự hào của dân tộc ta qua các thế hệ nối tiếp đến nay vẫn còn nguyên
giá trị. Sản phẩm của làng nghề phản ánh những nét chung của dân tộc có nét
riêng của làng nghề. Người Việt Nam sống ở nước ngoài khi nhớ về quê hương
là nhớ đến dấu ấn đậm nét của làng nghề với sản phẩm độc đáo của nông thôn
Việt Nam mà các dân tộc khác không có được.
2.1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề bảo tồn và phát triển của làng
nghề
Quá trình phát triển của làng nghề truyền thống chịu tác động của nhiều
nhân tố. Những nhân tố này có sự biến đổi trong từng thời kỳ và tác động theo
chiều hướng khác nhau. Chúng có thể là những nhân tố thúc đẩy nhưng ngược
lại cũng có thể là những nhân tố kìm hãm sự phát triển. Ở mỗi vùng, mỗi địa
phương, mỗi làng nghề do có những đặc điểm khác nhau về các điều kiện tự


×