Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

VẬN DỤNG QUAN điểm của TRIẾT học mác – LÊNIN về CON NGƯỜI vào vấn đề xây DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG sự NGHIỆPCÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.68 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ

BÀI TIỂU LUẬN:

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI VÀO VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON
NGƯỜI VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY

THÀNH PHỐ HUẾ – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ

BÀI TIỂU LUẬN:
“QUAN ĐIỂM CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM”

Họ và tên : Nguyễn Thị Huyền Trang.
Lớp
: 16D QLKT UD Quảng Trị.

THÀNH PHỐ HUẾ – 2015


Tôi xin cam đoan đây là bài tiểu luận của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu ra trong bài là trung thực, đảm bảo tính khách quan,
khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.


Người cam đoan

Nguyễn Thị Huyền Trang


MỤC LỤC
A.
C. KẾT LUẬN.............................................................................................. 93
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.…………………………….. 96


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Từ rất sớm, vấn đề con người đã trở thành mối quan tâm đặc biệt của
nhiều ngành khoa học, trong đó có triết học. Bằng việc kế thừa, tiếp thu một
cách có phê phán, có chọn lọc tư tưởng tiến bộ của nhân loại về con người,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra nhiều quan điểm khoa học
về con người, về bản chất con người, về vị trí và vai trò của con người trong
thế giới, đặc biệt là tư tưởng về sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi
mọi sự “tha hóa”.
Ở nước ta, ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã coi chủ nghĩa Mác – Lênin là “nền tảng tư tưởng’, làm “kim chỉ nam”
cho mọi hành động cách mạng. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin nói
chung, quan điểm về con người của chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng, Đảng ta
đã nhiều lần khẳng định “con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc
của con người là mục tiêu cao nhất của chế độ ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn nhắc nhở Đảng ta và căn dặn chúng ta “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì

lợi ích trăm năm trồng người”. Nhờ đó, đã giúp Đảng ta huy động được tối đa
mọi nguồn lực con người cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân
tộc.
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đây là một quá trình mang tính tất yếu khách quan và là một đòi hỏi cấp bách
của dân tộc. Lấy quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển con người, về vai trò sáng tạo lịch sử của con người và vai trò
của người và vai trò của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội
làm cơ sở lý luận, Đảng ta khẳng định: “Trong công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay, con người luôn được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài
nguyên của mọi tài nguyên, là nhân tố bảo đảm quan trọng nhất để đưa đất
nước ta thành một nước Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa trong tương lai”. Do
vậy, Đảng ta chủ trương : “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố khẳng định thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nhiệm vụ trọng tâm của chúng ta
trong thời kỳ này là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho xã hội mới.
Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng đó, nhất thiết phải tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để thực hiện mục tiêu chuyển nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại.
Tuy nhiên, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực và
trình độ mà con người Việt Nam cần phải có. Con người Việt Nam với những


6

phẩm chất và năng lực như hiện tại đã không còn đáp ứng thỏa mãn những
yêu cầu của nhiệm vụ mới đầy khó khăn, gian nan và thử thách lâu dài của
cách mạng, đó là xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia “Dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Chính vì vậy, việc tiếp tục tìm

hiểu, nghiên cứu quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người để đề
xuất những định hướng và giải pháp phù hợp nhằm xây dựng và phát triển
toàn diện con người Việt Nam hiện nay thực sự là một đòi hỏi bức thiết. Xuất
phát từ nhu cầu đó, tôi chọn đề tài “VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀO VIỆC XÂY DỰNG CON
NGƯỜI VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA HIỆN NAY” để thực hiện bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích của đề tài là làm rõ quan điểm của triết học Mác – Lênin về
con người, qua đó đề xuất một số định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lênin về con
người, về bản chất con người và vai trò của con người.
Thứ hai, trình bày thực trạng vận dụng quan điểm của Triết học Mác –
Lênin về con người trong quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở nước ta.
Thứ ba, đề xuất một số định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
và phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

Cơ sở lý luận: đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở những nguyên lý của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về con người và vấn đề xây dựng con người
Việt nam trong sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Đồng thời có tham
khảo những công trình nghiên cứu của các tác gỉa trong và ngoài nước có liên
quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: ngoài phương pháp chung nhất là phương

pháp biện chứng duy vật, đề tài còn được giải quyết thông qua một số phương
pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát
hóa, đối chiếu và so sánh, lịch sử và logic, v.v..


7

4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận

Về lý luận, tiểu luận góp phần làm sáng tỏ thêm quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điệm của Đảng ta về con
người và vai trò của con người đối với lịch sử.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho sinh viên ngành chính trị và những ai quan tâm đến vấn đề
con người và vai trò của con người.
5. Kết cấu của tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Quan niệm của Triết học Mác – Lênin về con người – cơ sở
lý luận của việc xây dựng con người Việt nam trong sự nghiệp Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Chương 2: Thực trạng vận dụng quan điểm của Triết học Mác – Lênin về
con người trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta
Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng con người Việt nam
trong sự nghiệp CNH, HĐH


8


CHƯƠNG 1

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
– CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT
NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA
1.1. Quan điểm về con người và bản chất con người của triết học
Mác – Lênin
1.1.1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người

Trên cơ sở tổng kết thành tựu của các khoa học và sự kế thừa một cách
có phê phán, có chọn lọc quan điểm về con người của các nhà triết học tiền
bối trong lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã đưa ra một quan
niệm mới mang tính khoa học về con người. Theo các ông, con người là một
thực thể sinh vật – xã hội, trong đó có sự đan xen của ba hệ thống các nhu cầu
(nhu cầu sinh học, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần) và ba hệ thống quy luật
(quy luật sinh học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần). Mỗi hệ thống nhu cầu
và hệ thống quy luật này có vai trò, vị trí và tác động của mình trong sự tồn
tại và phát triển của con người, đồng thời chúng cũng tham gia vào việc quy
định bản chất của con người, trong đó, hệ thống các nhu cầu xã hội và các quy
luật xã hội giữ vị trí trung tâm và vai trò quyết định, cụ thể:
Thứ nhất, khoa học và thực tiễn đã chứng minh rằng, tiền đề đầu tiên
chứng tỏ sự tồn tại hiện hữu của mỗi con người đó là thể xác sống của con
người, mà thể xác sống của con người là vật thể tự nhiên, là sản phẩm tiến
hóa lâu dài của tự nhiên và là sự tiếp tục phát triển của tự nhiên. Chính vì vậy,
thể xác “khả tử” của con người luôn chịu sự tác động của các quy luật tự
nhiên sinh học như: quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường; quy
luật biến dị, di truyền; quy luật tiến hóa... và do sự tác động của các quy luật
này mà trong con người luôn có các nhu cầu tự nhiên sinh học như: ăn, uống,
ngủ, duy trì nòi giống v.v. nếu như thiếu các nhu cầu này thì con người và xã

hội loài người không thể tồn tại.
Thứ hai, sự tồn tại của con người còn gắn liền trực tiếp với sự tồn tại của
xã hội, vì vậy, nói đến con người là con người xã hội và nói đến xã hội là xã
hội con người. Nhưng con người không thể nào tự lựa chọn cho mình cái xã
hội và các quan hệ xã hội để sinh ra, mà trong cuộc sống con người buộc phải
tiếp nhận cái xã hội và các quan hệ xã hội đã có và đang có, trong đó “xã hội
sản sinh ra con người với tư cách là con người như thế nào thì con người cũng
sản sinh ra xã hội như thế” [32; 139]. Do vậy, trong cuộc sống con người còn
chịu sự tác động và chi phối bởi các quy luật xã hội như: quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về


9

mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quy luật
đấu tranh giai cấp v.v. Đồng thời, do sự tác động của các quy luật xã hội, mà
con người có các nhu cầu xã hội như: nhu cầu học tập, giao tiếp v.v. Ngay các
nhu cầu tự nhiên sinh học trong con người, do sự tác động của các quy luật xã
hội, thì các nhu cầu ấy cũng “mang tính xã hội”, hay nói cách khác là các nhu
cầu ấy bị xã hội hóa.
Thứ ba, sự tồn tại của con người còn gắn liền với sự tồn tại của ý thức.
Con người nhờ cấu trúc sinh học – xã hội, cùng với hệ thống thần kinh cao
cấp, thông qua các giác quan và các công cụ nhận thức do con người tạo ra để
con người nhận thức, phản ánh thế giới khách quan tạo thành ý thức. Ý thức
là “hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan”- là thế giới khách quan ở bên
ngoài được “di chuyển” vào trong đầu óc và được cải biến đi trong đó, không
còn nguyên xi là thế giới khách quan. Vì sự tồn tại của con người gắn liền với
sự tồn tại của ý thức, nên điều này liên quan đến sự sống và cái chết. Khi con
người sống thì ý thức tồn tại, khi con người chết đi thì về cơ bản ý thức mất
đi, nhưng vẫn còn một bộ phận ý thức được “vật chất hóa” dưới dạng hình

ảnh, âm thanh, ngôn ngữ v.v. đang tồn tại cùng với hiện tại và tương lai.
Trong con người, ngoài các nhu cầu tự nhiên sinh học và nhu cầu xã hội còn
có các nhu cầu văn hóa tinh thần và chịu sự tác động của các quy luật tinh
thần.
1.1.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người

Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, con người
là một thực thể sinh vật – xã hội, một thực thể thống nhất của hai mặt đối lập:
một mặt, con người là thực thể tự nhiên (“cái tự nhiên”, “con người tự nhiên”,
“cái sinh vật”, “con người sinh vật”); mặt khác, con người là thực thể xã hội
(“cái xã hội”, “con người xã hội”) tách ra như một lực lượng đối lập với tự
nhiên. Chính sự tác động lẫn nhau giữa “cái sinh vật” và “cái xã hội” trong
mỗi con người đã tạo thành bản chất con người.
Trước hết, con người là một bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm tiến hóa
lâu dài của tự nhiên và là sự tiếp tục phát triển của tự nhiên. Với tư cách là vật
thể tự nhiên, con người tác động vào các vật thể tự nhiên khác, cải biến chúng
và phục tùng các quy luật của chúng để tạo ra “giới tự nhiên thứ hai” – tự
nhiên – con người. Mối quan hệ giữa con người – tự nhiên là mối quan hệ
mang tính lịch sử - cụ thể. Con người bằng hoạt động thực tiễn của mình,
từng bước chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm phục vụ các nhu cầu
của mình. Thông qua đó, con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo
chính bản thân con người. Như vậy, con người vừa là tiền đề, là chủ thể và là
kết quả hoạt động của nó. Thông qua hoạt động ấy, con người thể hiện sức
mạnh bản chất loài của mình.


10

Thứ hai, con người là một thực thể xã hội tách ra như một lực lượng đối
lập với tự nhiên. Quan hệ giữa con người với tự nhiên, sức mạnh bản chất của

con người không thể thực hiện được nếu không tính đến tính xã hội của bản
chất con người. Bởi vì con người là con người xã hội, hoạt động của con
người là hoạt động xã hội. Tính quy định loài của con người, sức mạnh loài
của nó làm cho nó trở thành một thực thể xã hội mang lại tính xã hội cho hoạt
động của nó. Vì vậy, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, xem xét
bản chất con người cần phải xem xét trong mối quan hệ giữa con người với
con người, trong các mối quan hệ hiện thực của con người. Trong các mối
quan hệ ấy, các ông kết luận: “xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì
con người sản xuất ra xã hội như thế”. Con người vừa là sản phẩm của tự
nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, và do vậy, trong con người luôn có hai mặt
không thể tách rời – mặt tự nhiên và mặt xã hội – con người là một thực thể
sinh học – xã hội.
Như vậy, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, con người là sản
phẩm của sự phát triển cao nhất của tự nhiên, là bộ phận của tự nhiên, tồn tại
gắn bó chặt chẽ với tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người.
Con người bằng hoạt động thực tiễn của con mình (nhất là hoạt động lao động
sản xuất) tác động vào tự nhiên cải biến tự nhiên để phục vụ các nhu cầu của
mình, cũng qua đó con người cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình.
Qua đó con người biến các thuộc tính tự nhiên của mình thành bản chất xã
hội. “Chỉ có trong xã hội, con người mới thể hiện bản chất tự nhiên và xã hội
của mình. Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất con người.
Con người là một tổng thể tồn tại với hai mặt tự nhiên và xã hội” [52; 514]
1.2. Quan điểm về vai trò con người trong lịch sử và vấn đề giải
phóng con người của Triết học Mác – Lênin
1.2.1. Vai trò con người trong lịch sử

Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, con người
vừa là sản phẩm của lịch sử (tức sản phẩm của tự nhiên và xã hội), đồng thời
là chủ thể sáng tạo ra chính quá trình lịch sử ấy.
Trước hết, “con người là sản phẩm của lịch sử” – sản phẩm của tự nhiên

và xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn của mình, nhất là thực tiễn lao động
sản xuất vật chất, con người biến thuộc tính tự nhiên của mình thành bản chất
xã hội. Với tư cách là vật thể tự nhiên, con người tác động vào các vật thể tự
nhiên khác, cải biến chúng và phục tùng các quy luật của chúng, để tạo ra
“giới tự nhiên thứ hai” – tự nhiên – con người. Mối quan hệ tự nhiên – con
người là mối quan hệ mang tính lịch sử - cụ thể, con người bằng hoạt động
thực tiễn của mình, từng bước chinh phục tự nhiên nhằm phục vụ cho các nhu


11

cầu của con người. Thông qua đó, con người tiến hành cải tạo tự nhiên, cải
tạo xã hội, đồng thời cải tạo chính bản thân con người. Ở đây, con người vừa
là tiền đề, là chủ thể, đồng thời là kết quả của hoạt động của mình. Con người
không chỉ sống trong môi trường tự nhiên, mà còn sống trong môi trường xã
hội, bởi vì con người là con người xã hội, xã hội là xã hội của con người, hoạt
động của con người là hoạt động xã hội. Cho nên, xem xét bản chất của con
người, ngoài xem xét quan hệ giữa con người với tự nhiên, chúng ta còn phải
xem xét mối quan hệ giữa con người với con người, trong các mối quan hệ
hiện thực của con người. Sức mạnh bản chất của con người không thể thực
hiện được nếu không tính đến bản chất xã hội của con người, đến quan hệ xã
hội hiện thực của con người, và trong các quan hệ ấy thì “xã hội sản xuất ra
con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế”. Con
người vừa là sản phảm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội. Do vậy, con
người luôn luôn có hai mặt không thể tách rời – mặt tự nhiên và mặt xã hội.
Tự nhiên và xã hội trong mỗi con người gắn bó chặt chẽ với nhau.
Trong quan niệm của các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác – Lênin, con
người không chỉ là sản phẩm của lịch sử, con người còn là kẻ sáng tạo ra lịch
sử. Lịch sử là lịch sử của con người, do con người, vì con người. Con người là
điểm khởi đầu, là trung tâm và là điểm kết thúc của mọi sự kiện chính trị xã

hội. Tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại suy cho cùng, nó được quy định
bởi tiến tiến trình phát triển của sản xuất, quy định bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất của xã hội, bao gồm con người và những tư liệu sản xuất với
những công cụ lao động do con người sáng tạo ra để con người tác động vào
tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên, nhằm tạo ra các sản phẩm
phục vụ cho con người. Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng tiếp nhận được
những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra và sử dụng chúng làm
phương tiện cho hoạt động sản xuất mới. Nhờ sự chuyển giao lực lượng sản
xuất ấy mà con người đã “hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người,
hình thành nên lịch sử loài người” [52; 515-516]. Khi khẳng định, con người
là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, chúng ta cần hiểu rằng, “sáng tạo” không có
nghĩa là sự tùy tiện, sáng tạo phải trên cơ sở hiểu biết quy luật, vận dụng quy
luật và hành động tuân theo quy luật khách quan. Mặt khác, không phải cứ là
“con người” thì sẽ là “chủ thể của lịch sử”, để trở thành chủ thể của lịch sử,
đòi hỏi con người phải có sức khỏe, phải có những phẩm chất nhất định
(những phẩm chất này tùy thuộc vào thời đại, vào lĩnh vực và ngành nghề
hoạt động) và những phẩm chất này phải được bộc lộ trong hoạt động thực
tiễn.
1.2.2. Vấn đề giải phóng con người theo quan điểm của triết học Mác
– Lênin


12

Có thể nói, cái cốt lõi trong học thuyết Mác về con người là tư tưởng vì
con người, giải phóng con người, giải phóng nhân loại. Triết học Mác - Lênin
trên cơ sở quan điểm duy vật về con người, coi bản chất con người là “tổng
hòa các quan hệ xã hội” và đặt con người trong mối quan hệ con người – tự
nhiên – xã hội để xem xét con người... đã lấy tư tưởng “vì con người và giải
phóng nhân loại” và tư tưởng “xã hội không thể nào giải phóng chính mình

được, nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt” [40; 406] làm nền
tảng để xây dựng học thuyết của mình về xã hội nói chung, xã hội cộng sản
chủ nghĩa nói riêng. Tính nhân văn cao cả nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin
chính là ở chỗ, đã đưa ra lý tưởng mà toàn bộ nhân loại phải hướng tới, là
phải đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư
nhân tư liệu sản xuất – cơ sở của sự tha hóa con người, để xây dựng xã hội
cộng sản văn minh, công bằng, không còn hiện tượng người bóc lột người,
không còn hiện tượng con người bị tha hóa, mọi người đều tự do, bình đẳng,
hạnh phúc. Trong xã hội ấy, con người được phát triển toàn diện “có khả năng
sử dụng toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình”. Có thể nói rằng,
vấn đề “tha hóa con người” và giải phóng con người khỏi sự tha hóa chiếm vị
trí trung tâm trong quan niệm của C. Mác về đời sống xã hội.
Sự “tha hóa” con người, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, là
do chính hoạt động của con người tạo ra, vì vậy, con người bằng hoạt động
tích cực của mình, có thể xóa bỏ được sự “tha hóa” và giải phóng cho con
người, đó là:
Thứ nhất, cần phải xóa bỏ chế độ sử hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất chủ yếu, vì nó chính là cơ sở của sự tha hóa con người, là nguồn
gốc sinh ra mọi nô dịch con người trong xã hội tư bản. Việc “xóa bỏ chế độ sở
hữu tư sản” – thứ “sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản là lao
động” là tiền đề cơ bản cho việc xóa bỏ mọi sự tha hóa con người, cho sự
nghiệp giải phóng con người, giải phóng xã hội. Mặt khác, để giải phóng con
người thoát khỏi sự tha hóa, thoát khỏi mọi sự nô dịch ấy, cần phải biểu hiện
thành hình thức chính trị của “sự giải phóng công nhân”, cùng với nó là sự
“giải phóng xã hội”.
Thứ hai, sự nghiệp xóa bỏ “tha hóa”, giải phóng cho con người là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân lao động; trong đó, giai cấp vô sản là lực
lượng nòng cốt và quyết định. Giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ Tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế
độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng

sản chủ nghĩa văn minh.
Thứ ba, sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là một quá
trình lâu dài. Nó phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển của lực lượng sản


13

xuất, vào các điều kiện vật chất tất yếu cho sự nghiệp giải phóng ấy. Chỉ khi
nào xã hội loài người đã đạt đến một trình độ phát triển cao của lực lượng sản
xuất với năng suất lao động xã hội cực cao “của cải tuôn ra dào dạt như nước
chảy”, cho phép người ta “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, khi đó
“sự phát triển độc đáo và tự do của mỗi các nhân” mới “không còn là lời nói
suông”. Đây chính là cơ sở nền tảng vững chắc cho việc phát triển các cá
nhân con người. Ngoài ra, còn phải xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con
người với con người, trong một cộng đồng mà “sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”. Khi đó các cá nhân
mới có điều kiện, phương tiện cần thiết để “phát triển toàn diện những năng
khiếu của mình”.
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CNH,
HĐH Ở NƯỚC TA
2.1. Mối quan hệ giữa CNH, HĐH với vấn đề xây dựng con người
Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm, nội dung của quá trình CNH, HĐH ở nước ta

2.1.1.1. Đặc điểm của quá trình CNH, HĐH ở nước ta
Ở nước ta hiện nay, CNH, HĐH không chỉ là quá trình mang tính tất yếu,
khách quan mà còn là một đòi hỏi cấp bách. Đảng ta xác định, về thực chất

CNH, HĐH là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công
nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao” [13; 65]. Thời kỳ “đẩy mạnh CNH, HĐH” ở nước ta hiện nay, có những
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, CNH được triển khai đồng thời với HĐH tạo thành một quá
trình thống nhất thúc đẩy đất nước phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng với nó là quá trình toàn cầu
hóa kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật… Do vậy, chúng ta không thể tiến
hành tuần tự xong CNH rồi mới triển khai HĐH. Bởi lẽ, chúng ta không thể
thực hiện xong xuôi quá trình CNH với nội dung căn bản là cơ khí hóa các
ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân rồi mới tiến hành HĐH. Mặc khác,
khi tiến hành cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân, chúng ta cũng không thể sử


14

dụng máy móc, công nghệ cũ, lạc hậu trước đây, mà nhất thiết phải sử dụng
kỹ thuật và công nghệ mới, tiên tiến hiện nay. Vì vậy, CNH nhất định phải
tiến hành đồng thời với HĐH, tạo nên một quá trình thống nhất, thúc đẩy đất
nước phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu, nhanh chóng đuổi kịp và hội nhập với
nền kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, thời kỳ “đẩy mạnh CNH, HĐH” ở nước ta diễn ra trong bối
cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Như Đảng ta đã xác định,
“cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn
cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước.
Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ
khác nhau nhưng vẫn tồn tại và phát triển. Khu vực Châu Á – Thái Bình

Dương và Đông nam Á phát triển năng động nhưng cũng tiềm ẩn những nhân
tố mất ổn định” [20; 67]. Tình hình đó tạo thời cơ thuận lợi, đồng thời cũng
đặt ra những thách thức gay gắt với quá trình CNH, HĐH ở nước ta, cũng như
của các nước đang và kém phát triển.
Thứ ba, “Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường” [20; 72] với “Mục tiêu tổng quát khi
kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được căn bản nền tảng kinh tế
của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh hạnh phúc” [20; 71]. CNH, HĐH với đặc điểm như vậy, nhằm
trang bị cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các ngành then chốt, mũi nhọn để làm
tăng tỷ trọng của sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân,
với những công cụ, thiết bị tiên tiến, hiện đại và ứng dụng những kỹ thuật
công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Thứ tư, chúng ta chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH, trong bối cảnh cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng
cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nên
kinh tế và đời sống xã hội, những năm gần đây, những thành tựu khoa học –
công nghệ trên thế giới ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, nhất
là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ chế tạo vật liệu mới
v.v. Điều đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sản xuất và các quá trình xã
hội; thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm tăng nhanh tính
chất xã hội hóa nền kinh tế và đời sống xã hội.
Thứ năm, chúng ta “đẩy mạnh CNH, HĐH” trong bối cảnh nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới như Singapo, Đài loan, Hàn quốc ... chỉ trong
một thời gian ngắn đã từ một nước kém phát triển trở thành một nước phát
triển. Đây là những tấm gương để chúng ta có thể học tập kinh nghiệm khi
tiến hành CNH, HĐH, mở ra con đường đi tắt, rút ngắn khoảng cách giữa các



15

nước đang phát triển với các nước tiên tiến. Mặc khác, CNH, HĐH cũng là
quá trình mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên tất cả các mặt, các lĩnh vực
của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học – công
nghệ…chúng ta có thể kế thừa những thành tựu, áp dụng những khoa học
công nghệ tiên tiến nhất của thế giới để “đi tắt, đón đầu” nhanh chóng bắt kịp
trình độ thế giới.
Thứ sáu, chúng ta “đẩy mạnh CNH, HĐH” trong điều kiện như Đảng ta
xác định, “có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh
chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân
tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng
nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn
ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo” [20; 71] và “chúng ta đã từng bước xây
dựng được những cơ sở vật chất kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức
cùng với toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế” [20; 70] tất cả những cái
đó là điều kiện và thời cơ phát triển, để tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
2.1.1.2. Những nội dung cơ bản của quá trình CNH, HĐH ở nước ta
Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế
Đảng ta xác định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, thực hiện
CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức bảo vệ tài nguyên môi
trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững,
gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các
ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành
công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình
độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng
nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền; thúc đẩy

phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát
triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng
thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” [20; 75]. Với nội dung phát
triển kinh tế như vậy, CNH, HĐH trên lĩnh vực kinh tế được thể hiện ở những
mặt sau:
+ Kịp thời nắm bắt và ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ hiện

đại vào các quá trình kinh tế; đồng thời tiến hành đổi mới công nghệ truyền
thống theo hướng hiện đại
+ Sử dụng những tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại để một mặt chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng lãnh thổ, trên cơ sở những lợi thế có


16

sẵn của mỗi vùng, ngành; mặt khác, tham gia vào quá trình hợp tác trong
nước và quốc tế; đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội nhằm tạo ra
nhiều ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu việc làm cho người lao động.
Thứ hai, trong lĩnh vực chính trị - xã hội
CNH, HĐH trong lĩnh vực chính trị - xã hội là quá trình ứng dụng những
thành tựu khoa học – công nghệ, những tư tưởng, lý luận về quản lý xã hội
tiên tiến để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Một nhà nước hiện đại, tiên tiến, đủ sức quản
lý đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Do vậy, cần phải:
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trên cơ sở xã hội công dân, nghĩa

là nhà nước phải tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật; còn mỗi thành viên
của xã hội đều phải có ý thức pháp luật, phải sống, lao động, học tập, sinh
hoạt theo hiến pháp và pháp luật

+ Xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật để pháp luật không chỉ

phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của xã hội mà còn thể hiện
được quyền lợi và nghĩa vụ, tự do và trách nhiệm của mỗi công dân và của
các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ công chức, viên chức nhà nước, tạo

điều kiện để họ có điều kiện học tập và làm quen với tác phong công nghiệp,
cách làm việc khoa học, hiện đại; đồng thời ứng dụng những thành tựu khoa
học – kỹ thuật tiên tiến, hiện đại vào công tác quản lý xã hội.
Thứ ba, trong lĩnh vực văn hóa
Để cho quá trình “phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh
tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội cho từng bước và từng chính sách
phát triển” và để cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội
và là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta cần phải xây dựng một nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Muốn vậy, CNH, HĐH trong lĩnh vực văn
hóa cần phải:
+ Tăng đầu tư của nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực xã

hội cho phát triển văn hóa
+ Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách

nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe. Lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa
tình, có tinh thần quốc tế chân chính.
+ Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, thực hiện bình đẳng giới, chăm

sóc và bảo vệ trẻ em.



17

+ Tạo điều kiện để kích thích óc tự do, sáng tạo của mỗi cá nhân, của tập thể và

của cả cộng đồng dân tộc.
+ Phát triển mạnh sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, hệ thống thông tin đại chúng;

bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống cách mạng; mở
rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa nhằm tiếp thu những
thành tựu văn hóa nhân loại phục vụ cho việc phát triển văn hóa. Đồng thời
kiên quyết đấu tranh chống các loại phản văn hóa, chống khuynh hướng
thương mại hóa văn hóa và đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong văn hóa.
Thứ tư, trong lĩnh vực khoa học – công nghệ
Phát triển khoa học – công nghệ là động lực nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Khoa học và công
nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế. Phát triển khoa học – công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ của thế giới. Do vậy, CNH,
HĐH trong lĩnh vực khoa học – công nghệ cần phải:
+ Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, chính sách phát triển

khoa học và công nghệ, gắn các mục tiêu, nhiệm vụ của khoa học – công
nghệ với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
+ Hướng hoạt động khoa học – công nghệ vào phục vụ đổi mới mô hình tăng

trưởng và cơ cấu lai nền kinh tế; nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để
làm chủ các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, các phương pháp quản lý tiên
tiến; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức

khỏe của nhân dân, dự báo kịp thời, phòng chống, hạn chế và khắc phục hậu
quả thiên tai.
+ Phát triển kinh tế tri thức, phát triển nâng cao năng lực khoa học – công nghệ

có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ về sơ sở vật chất và nguồn nhân lực.
+ Tăng đầu tư nhà nước cho các trọng điểm quốc gia, đồng thời đẩy mạnh xã

hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển khoa học – công nghệ.
+ Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong nước và

tiếp thu sử dụng có hiệu quả thành tựu khoa học công nghệ hiện đại trên thế
giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát triển các ngành công nghiệp hiện đại.
+ Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng

nhân tài và đẩy mạnh hợp tác quốc tế, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân, đầu
tư phát triển khoa học công nghệ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực khoa
học và công nghệ.
Thứ năm, trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo


18

CNH, HĐH trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo nhằm phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là yếu
tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan
trọng nhất, bảo đảm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Do vậy, Đảng ta
xác định cần phải:
+ Quán triệt quan điểm ““Giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu” trong mọi


tổ chức, mọi cấp, mọi ngành trong phạm vi cả nước.
+ Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa,

hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Trong đó, đổi mới
cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là
khâu then chốt.
+ Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức

lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp
+ Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục
+ Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát

triển kinh tế tri thức.
+ Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và

trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Đặc biệt coi trọng phát triển
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh
nghiệp giỏi, lao động ngành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn
+ Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở

đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội” [20;
130-131].
2.1.2. Vai trò quyết định của việc phát triển con người, phát triển nguồn
nhân lực đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -2020 – “Chiến lược
tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển nhanh, bền vững” và trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
(Bổ sung, phát triển năm 2011). Đảng ta xác đinh, việc phát triển con người,
phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò quan trọng và quyết định thắng lợi đối

với sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay; trong đó con người được coi là
chủ thể, là nguồn lực chủ yếu, là mục tiêu của phát triển, là trung tâm của
chiến lược phát triển, là yếu tố quyết định sự phát triển, vừa là động lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp CNH, HĐH.


19

Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố
quan trọng nhất, là “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại”. Bởi vì,
con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ, có ý chí, biết “lợi
dụng” các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành một sức
mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình CNH, HĐH. Các nguồn lực khác
như vốn, tài nguyên thiên nhiên, kỹ thuật, công nghệ .v.v. tự nó chỉ tồn tại
dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã
hội, khi mà chúng được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt
động có ý thức của con người, chịu sự cải tạo, khai thác con người và tất cả
chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người. Không những thế, các
nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó, nguồn
lực con người lại là vô hạn. Nếu biết chăm lo và khai thác hợp lý, trí tuệ con
người có sức mạnh vô cùng to lớn, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, con
người đã từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá những nguồn tài
nguyên mới, tạo ra những công cụ sản xuất có hiệu quả hơn, nhờ đó đã thúc
đẩy tiến bộ xã hội. Mặc khác, từ kinh nghiệm của các nước phát triển và thực
tiễn của chính nước ta cho thấy, sự thành công của CNH, HĐH còn phụ thuộc
chủ yếu vào việc hoạch định chiến lược phát triển, các đường lối; chính sách
v.v. trong các lĩnh vực hoạt động và năng lực tổ chức thực hiện các chiến
lược, đường lối chính sách … đó, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người.

Như vậy, vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác –
Lênin về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay, chính là việc nhận thức được tầm quan trọng của
nhân tố con người, tầm quan trọng của việc tạo ra nguồn nhân lực có chất
lượng bao gồm “những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức
tinh thông” [39; 474] và “nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất
trong thực tiễn” [39; 475], đáp ứng được nhu cầu khai thác và sử dụng các
nguồn lực khác phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước
2.2. Sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Triết học Mác – Lênin về

con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong quan điểm của Đảng ta
về xây dựng phát triển con người
2.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong sự nghiệp cách
mạng do ĐCSVN lãnh đạo
Mặc dù không có một công trình lý luận riêng nào về con người, nhưng
trong tất cả các tác phẩm, các bài viết và cả cuộc đời Hồ Chí Minh là tất cả vì
con người, do con người, thương yêu tôn trọng, tin tưởng con người, bồi
dưỡng và phát triển mọi tài năng cho con người. “Suốt đời cống hiến hết mình
cho sự nghiệp đấu tranh vì con người, vì cuộc sống đích thực của con người,


20

đấu tranh không mệt mỏi để xóa bỏ mọi áp bức bóc lột, mọi bất công, phi lý,
giành độc lập, tự do và quyền phát triển bình đẳng cho dân tộc, cho nhân loại,
đem lại cho con người, cho tất cả mọi người trong cộng đồng nhân loại một
cuộc sống ấm no, hạnh phúc” [52; 528]. Đây chính là chủ nghĩa nhân văn
hiện thực, cao cả của Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người được thể hiện thông qua các tư tưởng:
Thứ nhất, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải

phóng nhân dân lao động
Đây là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Nội dung này được Người thường xuyên đề cập đến trong các bài viết, bài nói
chuyện của Người. Trong đó, Người nhấn mạnh sự kết hợp giữa dân tộc với
giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng
ấy được thể hiện qua một số luận điểm cơ bản của Người, đó là: độc lập, tự do
là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc; giải phóng dân tộc trước hết phải
do chính các dân tộc thực hiện; giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động.
Thứ hai, tư tưởng coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
cách mạng
Hồ Chí Minh đã đưa ra tư tưởng vì con người và giải phóng con người
trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về con
người và giải phóng con người, điều này được thực hiện một cách rõ nét trong
quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người, về cuộc sống con người,
về hoạt động của con người. Với Người, con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của cách mạng. Đây là triết lý nhân sinh, chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh. Từ nỗi đau của người dân nô lệ mất nước, từ tình thương yêu con
người, suy nghĩ phải làm sao cho nhân dân mình, cho đồng bào mình sớm
thoát khỏi nỗi nhục mất nước, thoát khỏi xiềng xích nô lệ; xuất phát từ suy
nghĩ mang tính nhân văn, nhân đạo coi “con người ta sinh ra ai cũng có quyền
sống bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc”. Trong suốt cả cuộc đời mình, Người
đã cống hiến hết mình và đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp vì con
người, vì cuộc sống đích thực của con người và giải phóng cho con người
thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, mọi bất công, giành lại quyền độc lập, tự do
cho dân tộc, đem lại cho con người, cho dân tộc, cho nhân loại cuộc sống tự
do, ấm no, hạnh phúc.
Thứ ba, tư tưởng về phát triển con người toàn diện
Hồ Chí Minh lấy thực tiễn làm điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát
triển con người làm mục tiêu. Người coi “con người là vốn quý nhất, chăm lo

cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ Xã


21

hội chủ nghĩa”, và “mọi công việc đều liên quan đến công việc và liên quan
đến con người, hướng vào phục vụ con người, làm cho con người phát triển
toàn diện với mọi năng lực vốn có của nó, con người làm chủ, có tự do, có
cuộc sống ấm no và hạnh phúc”. Để phát triển con người, trước hết là vấn đề
giáo dục đào tạo con người. Vì vậy, Người viết: “Vì lợi ích mười năm thì phải
trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [46; 222]. “Trồng người”,
theo Người, trước hết là giáo dục, rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng tài năng cho
con người, xây dựng con người, giải phóng con người về mặt phẩm chất,
nhân cách cũng như về tài năng, trí tuệ, theo phương châm lý luận phải gắn
liền với thực tiễn. Tiêu chuẩn cơ bản, hàng đầu của con người toàn diện là con
người phải có đức và có tài, trong đó đức là gốc. Người nói, “có tài phải có
đức, có tài không có đức, tham ô, hủ hóa, có hại cho nước” [45; 184] “có tài
mà không có đức ví như một anh làm kinh tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi
đến thụt két thì chẳng những không làm được gì cho xã hội, mà còn có hại
cho xã hội nữa” [46; 172], ngược lại với người “có đức mà không có tài ví
như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [46;
492]. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa “chính trị và chuyên
môn”, giữa “hồng và chuyên” cũng chính là mối quan hệ giữa Đức và Tài. Vì
thế, Người cho rằng “chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác, có chuyên
môn mà không có chính trị thì chỉ còn xác không hồn. Phải có chính trị trước
rồi có chuyên môn. Chính trị là đức, chuyên môn là tài, có tài mà không có
đức là hỏng” [46; 492].
2.2.2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng phát triển con người

Trong quá trình CNH, HĐH, một mặt, Đảng ta luôn trung thành với các

quan điểm của triết học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người,
coi con người là điểm khởi đầu, là trung tâm, là điểm kết thúc của mọi biến
đổi lịch sử; là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đồng thời là yếu tố
quan trọng nhất đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất; giữa phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con người toàn diện là
một quá trình thống nhất biện chứng . . . Nhưng mặt khác, trên quan điểm duy
vật lịch sử và phép biện chứng duy vật, Đảng ta đã vận dụng những luận điểm
cơ bản trên vào từng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể một cách hết sức
sáng tạo và luôn bổ sung hoàn thiện nó trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam trong từng thời gian cụ thể của lịch sử dân tộc.
Định hướng phát triển xã hội theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục
tiêu phát triển con người Việt Nam được coi là bước quan trọng trong thời kỳ
phát triển mới – đó là giai đoạn từ nay đến năm 2020. Để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải tập trung rất nhiều sức
người, sức của, trí tuệ, tập trung mọi nguồn lực, tranh thủ mọi thời cơ để vượt


22

qua mọi thử thách, khó khăn, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách đồng bộ,
tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 mà
Đại hội XI của Đảng đã thông qua là: “phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ
bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị xã hội ổn định,
dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
được giữ vững; vị thế của nước Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau” [20;
103].
Để đạt mục tiêu tổng quát và mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội và môi trường trên đây, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điểm phát triển
và 3 khâu đột phá chiến lược như sau:
Thứ nhất, về quan điểm phát triển
-

Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu
cầu xuyên suốt trong chiến lược

-

Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh

-

Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển

-

Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày
càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị thường
xã hội chủ nghĩa

-

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng
Thứ hai, các đột phá chiến lược


-

“Hoàn thiện thể chế kinh tế thị thường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.

-

Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ.

-

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại,
tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn” [20; 98-99]


23

Với mục tiêu, quan điểm phát triển, các đột phá chiến lược và định
hướng phát triển trên cho thấy, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình,
Đảng ta luôn coi hướng phát triển con người Việt Nam – “con người phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức” – vừa “là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự
phát triển”; “phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững”; phát triển con
người Việt Nam, “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao”, đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân văn, là nền tảng,
là cơ sở lâu bền, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội mà Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân ta
từng bước thực hiện.
CHƯƠNG 3

MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XÂY
DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG SỰ NGHIỆP ĐẨY
MẠNH CNH, HĐH
3.1. Một số phương hướng chủ yếu về xây dựng con người
3.1.1. Gắn việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội

Giữa phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực với phát triển kinh
tế - xã hội có sự thống nhất biện chứng với nhau. Phát triển con người là trung
tâm của phát triển, là mục đích, là động lực của phát triển. Phát triển con
người là sự gia tăng các giá trị cho con người cả về tinh thần, đạo đức, tâm
hồn, trí tuệ, kỹ năng…lẫn thể chất. Phát triển nguồn lực con người nhằm làm
gia tăng các giá trị ấy cho con người, là làm cho con người trở thành những
người lao động có năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng được những yêu
cầu ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội, hay nói cách khác, là để
vừa “làm tăng thêm nền sản xuất xã hội” vừa “sản xuất ra những con người
phát triển toàn diện”. Hai quá trình này thống nhất chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau
cùng phát triển.
Đối với nước ta hiện nay, để phát triển con người, phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng, đòi hỏi chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội để nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho nhân dân lao
động, có như vậy mới kích thích được tính tích cực sáng tạo của người lao
động. Mặt khác, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội phải kết hợp chặt
chẽ với việc giải quyết tốt công bằng, mở rộng dân chủ để nhằm phát huy tối
đa nhân tố con người.



24

3.1.2. Gắn việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực với quá
trình dân chủ hóa, nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá
trị văn hóa truyền thống và hiện đại

Để phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, có đủ
năng lực và phẩm chất cần thiết để có thể đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước ta hiện nay, đòi hỏi con người phải được sống trong một
môi trường chính trị - xã hội ổn định, tiến bộ - đó là một môi trường chính trị
- xã hội dân chủ, nhân văn. Chỉ trong môi trường ấy chúng ta mới có điều
kiện khai thác, sử dụng có hiệu quả những giá trị truyền thống và hiện đại để
làm tăng thêm những năng lực và phẩm chất cho con người, kích thích năng
lực sáng tạo và tính tích cực, chủ động của con người. Do vậy, cần phải gắn
việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực với phát triển văn hóa,
giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại để tạo nên những giá trị mới và làm cho các giá trị ấy thấm sâu vào
cuộc sống của toàn xã hội, vào cuộc sống của mỗi con người.
3.1.3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học,
công nghệ

Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công
nghệ là một nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa có tính chiến lược để một
mặt nhằm tạo ra một lực lượng khoa học nòng cốt, đầu đàn, một đội ngũ các
nhà khoa học giỏi, các chuyên gia giỏi trong đội ngũ những người lao động,
góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực
có chất lượng đủ sức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Đảng ta xác định: “Phát triển khoa học và công nghệ thực sự
là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững” [20; 132].
Do vậy, để có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ

khoa học công nghệ, để cho “khoa học công nghệ thực sự là động lực then
chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững”.
3.1.4. Xây dựng chiến lược phát triển con người để trên cơ sở đó phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cho CNH, HĐH

Đảng ta xác định, “phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố
quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, là lợi thế cạnh tranh quan trọng
nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [20; 130].
Để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ này, chúng ta cần phải xây dựng được
chiến lược con người để trên sơ sở đó phát triển nguồn nhân lực có chất lượng
cao cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược phát triển con
người đã được Đảng và Nhà nước quan tâm thường xuyên. Chúng ta đã thành


25

lập Viện nghiên cứu về con người, đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học quốc
gia và quốc tế về con người. Xây dựng chiến lược phát triển con người và
việc tổ chức thực hiện chiến lược ấy là một vấn đề cấp thiết. Xây dựng một hệ
thống chính sách đồng bộ nhằm thực hiện chiến lược con người - đây là vấn
đề có ý nghĩa quyết định với việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn lực có chất lượng
cho sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay
3.2.1. Phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho
CNH, HĐH trên cơ sở lấy phát triển giáo dục – đào tạo làm “quốc sách hàng
đầu”


Sở dĩ phát triển giáo dục – đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu” vì
trong các giải pháp phát triển nguồn nhân lực có chất lượng thì giải pháp này
là một trong những giải pháp quan trọng nhất. Trên cơ sở nhận thức và vận
dụng sáng tạo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin về vai
trò của giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển con người, phát triển nguồn
nhân lực vào trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Đảng ta đã xác định rõ ba
mục tiêu mà mà đổi mới sự nghiệp giáo dục – đào tạo phải đạt tới là: “Nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, hình thành đội ngũ lao
động có tri thức, có tay nghề, có đạo đức, năng động, sáng tạo và có năng lực
tự tạo việc làm trong nền kinh tế thị trường, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
3.2.1.1. Đổi mới công tác giáo dục đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục, đa dạng loại hình đào tạo và chuyên môn hóa ngành nghề
Về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo:
Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, khi bàn về phát triển giáo dục
và đào tạo, Đảng ta chỉ rõ, phải “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và
đào tạo”, cụ thể : “Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp
dạy và học, như phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục
truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội…” [20; 216]
Về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, đào tạo:
Xã hội hóa giáo dục – đào tạo là huy động toàn xã hội làm giáo dục,
động viên các tầng lớp nhân dân góp sức người, sức của xây dựng hệ thống
giáo dục quốc dân; xã hội hóa giáo dục – đào tạo là “giáo dục cho mọi



×