Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động cổ phần hóa NHTM nhà nước việt nam trong điều kiện gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 150 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2006 được đánh dấu như là mốc son trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam với việc Việt Nam được kết nạp
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
vào ngày 07 tháng 11 năm 2006. Việc Việt Nam gia nhập WTO mở
ra cho nền kinh tế nhiều cơ hội và thách thức, đòi hỏi tất cả các
ngành, các lĩnh vực, các doanh nghiệp phải tự đổi mới và cải cách.
Cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế, đối với lĩnh vực ngân
hàng, gia nhập WTO là gia tăng sức ép cạnh tranh, thậm chí trong
lĩnh vực được coi là nhạy cảm của nền kinh tế này, áp lực còn nhiều
hơn nữa. Ngân hàng là một trong những lĩnh vực được coi là bị chịu
nhiều tác động nhất của việc Việt Nam trở thành thành viên của
WTO. Để chuẩn bị cho quá trình hội nhập WTO, Chính phủ Việt
Nam và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đưa ra đề án tái cơ cấu
các NHTM Việt Nam và định hướng phát triển của ngành ngân
hàng đến năm 2020. Một trong những chương trình trọng điểm
trong đề tái cơ cấu các NHTM Việt Nam là Cổ phần hoá NHTM
NN. Mục đích của CPH là đổi mới phương thức tạo vốn, nâng cao
hiệu quả hoạt động ngân hàng, thay đổi phương thức quản lý điều
hành, ứng dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phong phú của các
nước tiên tiến, góp phần làm lành mạnh hoá và minh bạch tình hình
tài chính của hệ thống NHTM NN. Ngân hàng Ngoại Thương Việt
Nam, Vietcombank, cùng với Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng


2

sông Cửu Long là hai ngân hàng được thí điểm lựa chọn CPH. Ngân


hàng Ngoại thương Việt Nam cũng đã từng bước tiến hành quá trình
cổ phần hoá và tiến trình cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên vẫn còn
vướng mắc cần rút kinh nghiệm cho việc CPH các NHTM NN còn
lại. Trong bối cảnh Việt Nam trở thành thành viên của WTO, sự
chậm trễ trong quá trình cổ phần hoá sẽ làm ảnh hưởng đến sức
cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong điều kiện mới. Trên cơ
sở nhận thức tầm quan trọng và tính thời sự của CPH NHTM NN,
tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu những tác động của hội nhập WTO đến
quá trình hoạt động của các NHTM nói chung và CPH NHTM NN
nói riêng, (cụ thể ở trường hợp của Vietcombank), từ trường hợp
của Vietcombank đề xuất những giải pháp thích hợp nhằm thúc đẩy
quá trình CPH NHTM NN ở Việt Nam.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài "Những vấn đề đặt ra đối với
hoạt động cổ phần hóa NHTM NN Việt Nam trong điều kiện gia
nhập WTO (Trường hợp Vietcombank)” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề cổ phần hoá NHTM NN ở Việt Nam là một vấn đề
mới. Quá trình cổ phần hoá các NHTM NN ở Việt Nam vẫn đang
trong giai đoạn thí điểm, tính thực tế của vấn đề chưa phát sinh
nhiều. Kinh nghiệm và thực tiễn thực hiện tại một NHTM NN là
chưa có. Trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO như hiện
nay, những tác động mới đến quá trình CPH NHTM NN làm cho


3

vấn đề càng trở nên mới hơn. Đặc biệt dưới dạng đề tài nghiên cứu
và trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO thì chưa được
một tác giả nào đề cập đến.

3. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận về cổ phần hoá DNNN kết hợp với
những thực tiễn phát sinh trong hoạt động kinh doanh và quá trình
cổ phần hóa tại Vietcombank, luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu những
vấn đề nảy sinh từ việc hội nhập WTO đến hệ thống NHTM NN nói
chung và quá trình CPH NHTM NN ở Việt Nam, cụ thể ở trường
hợp Vietcombank, từ đó đề xuất những giải pháp đẩy nhanh quá
trình cổ phần hoá NHTM NN Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam là
thành viên WTO.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Yêu cầu thực tiễn cải cách hệ thống
NHTM NN và các cam kết của Việt Nam hội nhập WTO trong lĩnh
vực ngân hàng và tác động của nó đến quá trình cổ phần hóa các
NHTM NN ở Việt Nam thông qua trường hợp cổ phần hóa
Vietcombank.
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu tập trung vào lý luận và thực tiễn
phát sinh liên quan đến vấn đề cổ phần hoá các NHTM NN ở Việt
Nam, cụ thể trong trường hợp của Vietcombank trong bối cảnh Việt
Nam là thành viên của WTO.


4

Phạm vi thời gian nghiên cứu: phân tích thực trạng hoạt động kinh
doanh của NHNT VN từ năm 2003-2006 và những số liệu liên quan
đến cổ phần hoá Vietcombank trong thời gian gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận: từ nguyên lý chung về CPH DNNN và
phân tích quá trình cải cách hệ thống NHTM NN ở Việt Nam, đi
đến những nội dung của cải cách NHTM NN trong điều kiện hội

nhập WTO và những cam kết của Việt Nam hội nhập trong lĩnh vực
ngân hàng, từ đó phân tích những tác động của hội nhập WTO đến
hoạt động của hệ thống NHTM NN cũng như phân tích thực trạng
hoạt động tại Vietcombank để khẳng định yêu cầu phải CPH
Vietcombank. Kết hợp với việc khẳng định tính tất yếu phải CPH
các NHTM NN trong điều kiện hội nhập WTO, phân tích tiến trình
CPH tại Vietcombank để từ đó đưa ra những giải pháp hợp lý cho
tiến trình CPH các NHTM NN còn lại.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp so
sánh, phân tích và phương pháp thống kê, tổng hợp, dùng lý luận để
đánh giá thực tiễn.
6. Dự kiến những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề về CPH DNNN và cải cách hệ
thống NHTM NN trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO,
từ đó nêu lên những vấn đề cơ bản về CPH NHTM NN trong điều
kiện hiện nay.


5

- Phân tích tác động của quá trình hội nhập WTO đến hệ thống
NHTM NN nói chung và quá trình CPH NHTM NN đồng thời phân
tích thực trạng hoạt động kinh doanh của Vietcombank để thấy
được tính tất yếu của quá trình CPH Vietcombank.
- Từ thực tiễn yêu cầu phải CPH NHTM NN trong điều kiện
hội nhập WTO kết hợp với phân tích tiến trình CPH tại
Vietcombank, đề xuất một số giải pháp thúc đẩy quá trình CPH
NHTM NN ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3

chương như sau:
Chương 1- Một số vấn đề chung về CPH DNNN và CPH NHTM
NN trong điều kiện hội nhập WTO
Chương 2 - Hội nhập WTO và yêu cầu thực tế của hoạt động
kinh doanh đối với CPH Vietcombank
Chương 3 - Giải pháp thúc đẩy hoạt động CPH NHTM NN Việt
Nam trong điều kiện hội nhập WTO (rút ra từ trường hợp
Vietcombank)


6

CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ
DNNN VÀ CỔ PHẦN HÓA NHTM NN TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP WTO
1.1.Lý luận chung về cổ phần hoá DNNN
1.1.1.Khái niệm về cổ phần hoá DNNN
Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước trong
quá trình đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường của nước ta.
Một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện thành công chủ
trương nêu trên là CPH một bộ phận DNNN. Cổ phần hoá DNNN
bắt đầu được thực hiện thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho
việc thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày
10/05/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Sau sự thành công của chương
trình thí điểm nêu trên, việc CPH đã được thực hiện với quy mô
rộng hơn. Cho đến nay, tính đúng đắn của chủ trương CPH DNNN
đã được khẳng định, CPH đã thành công trong việc chuyển quyền
sở hữu của số lượng lớn các DNNN sang hình thức sở hữu hiệu quả
hơn. Theo số liệu của Ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, có tới



7

90% DNNN CPH hoạt động có hiệu quả, góp phần tăng ngân sách
nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy động vốn xã hội
cũng tăng lên, chấm dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước,
tạo thêm công ăn việc làm.
Vậy CPH DNNN là gì?
CPH DNNN là chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty
cổ phần, trong đó chuyển một phần hay toàn bộ vốn và tài sản thuộc
sở hữu nhà nước cho các nhà đầu tư trong và ngoài doanh nghiệp.
Xét về hình thức, CPH DNNN là việc nhà nước bán một phần hay
toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp hay phát hành
thêm cổ phiếu bán cho các đối tượng là các tổ chức hoặc cá nhân
trong và ngoài doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua
thị trường tài chính.
Xét về mặt bản chất, CPH DNNN chính là phương thức thực
hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu
nhà nước trong doanh nghiệp thành nhiều chủ sở hữu, tức là chuyển
hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu chung thông qua việc
chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho người khác. Ở đây,
CPH là biến doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, có
nhiều chủ sở hữu, tham gia điều hành doanh nghiệp.
CPH DNNN ở Việt Nam có các hình thức sau: (1) Giữ nguyên vốn
nhà nước hiện có tại doanh nghiệp và có thể phát hành thêm cổ
phiếu mới nếu doanh nghiệp muốn tăng vốn điều lệ, (2) Bán một
phần vốn nhà nước hiện có tại DN; (3) Kết hợp vừa bán bớt một



8

phần vốn nhà nước trong doanh nghiệp vừa phát hành thêm cổ
phiếu ra bên ngoài; (4) Bán đứt toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại
doanh nghiệp và có thể phát hành thêm cổ phiếu mới (thường áp
dụng cho các doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ). Thực trạng CPH
DNNN ở Việt Nam trong 15 năm qua cho thấy, tỷ lệ cổ phần của
Nhà nước ở các doanh nghiệp đã CPH như sau: nắm giữ cổ phần chi
phối trên 50% ở 33 doanh nghiệp, dưới 50% số vốn ở 37% số doanh
nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh
nghiệp. (Theo báo cáo của Hội nghị về sắp xếp, đổi mới DNNN giai
đoạn 2006-2010 tổ chức ngày 7/10/2006)
1.1.2. Ý nghĩa và động lực của quá trình CPH DNNN
Thứ nhất, CPH đã thành công trong việc chuyển đổi quyền sở
hữu một số lượng lớn các DNNN sang hình thức sở hữu hiệu quả
hơn. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả
hoạt động của 850 doanh nghiệp CPH đã hoạt động trên 1 năm cho
thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng
23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có
tới trên 90% số doanh nghiệp sau CPH hoạt động kinh doanh có lãi,
nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người
lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình
quân đạt 17,11%. (Theo cáo báo của Hội nghị về sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 được tổ chức ngày
7/10/2006)


9

Thứ hai, CPH đã giúp cho các doanh nghiệp huy động được

nguồn vốn lớn trong xã hội thông qua phát hành cổ phiếu, từ đó tạo
điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện các dự án lớn mà không cần
sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Đồng thời, quá trình CPH còn góp phần
nâng cao tính tự chủ, đổi mới quản trị trong doanh nghiệp. Khi
doanh nghiệp chuyển đổi sang hình thức cổ phần, không còn sự bao
bọc của nhà nước, đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển thì phải tự điều hành, tìm ra hướng đi thích hợp để có vị trí tốt
trong thương trường, không thể để tình trạng kinh doanh thua lỗ kéo
dài vì lúc đó không có Nhà nước đứng sau hậu thuẫn và bù lỗ nữa.
Đặc biệt, các DNNN sau khi CPH đã hạn chế được tình trạng lãng
phí, thất thoát vốn và giảm chi phí, điều này xuất phát từ lý do là
các nhà đầu tư và ban lãnh đạo đang kinh doanh trên chính đồng
vốn của mình chứ không phải những đồng tiền do nhà nước cấp.
Chính vì vậy, doanh nghiệp phải tìm biện pháp thích hợp để tối đa
hoá lợi nhuận của doanh nghiệp cho chính lợi ích của họ.
Sau khi CPH, bộ máy quản lý của công ty được tinh giảm gọn nhẹ
và ban lãnh đạo phải được cơ cấu là những người có kinh nghiệm,
năng lực, bản lĩnh và có trách nhiệm với công ty và người lao động.
Thứ ba, CPH đem lại lợi ích cho người lao động. Người lao
động trong DNNN sau khi đã CPH sẽ được mua cổ phiếu và trở
thành cổ đông, khi đó, họ vừa là người làm chủ doanh nghiệp, vừa
là người lao động. Ngoài đồng lương theo sự cống hiến của họ cho
doanh nghiệp, họ còn được nhận cổ tức từ cổ phần mà họ nắm giữ.


10

Từ đó, phát huy được vai trò làm chủ của người lao động trong quản
lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quyền lợi
của người lao động gắn chặt với sự phát triển của doanh nghiệp, do

đó, tránh được tình trạng tiêu cực, vô trách nhiệm và lãng phí.
Thứ tư, CPH DNNN sẽ đem lại lợi ích cho Nhà nước. Khi
thực hiện CPH, vốn và tài sản của Nhà nước không chỉ được bảo
toàn mà còn tăng lên đáng kể. Hàng năm, Nhà nước thu được lợi tức
cổ phần từ công ty cổ phần, thu từ thuế của công ty cổ phần, vốn
phần lớn làm ăn hiệu quả hơn trước CPH, Nhà nước còn giảm được
một khoản chi ngân sách đáng kể để hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ cho các
DNNN. Hơn nữa, việc CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình quản lý
của Nhà nước từ trực tiếp sang gián tiếp thông qua các công cụ,
chính sách pháp luật, góp phần phát triển hệ thống pháp luật về
quản ly doanh nghiệp, ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển
chung của thế giới.
Nói tóm lại, CPH là một chủ trương đúng đắn và nội dung
quan trọng trong quá trình cải cách các DNNN, quá trình CPH
DNNN mang lại lợi ích kinh tế xã hội rất lớn trong cả 3 phương
diện: Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. NHTM NN cũng
là một loại hình DNNN, vì thế để đáp ứng nhu cầu phát triển của
nền kinh tế và của xã hội, CPH NHTM NN được khẳng định như
một tất yếu khách quan, nhất là trong điều kiện hội nhập WTO như
hiện nay, tiến trình CPH NHTM NN cần phải đẩy nhanh hơn nữa để


11

tận dụng được các lợi ích từ CPH đồng thời giúp cho có thể cạnh
tranh và phát triển.
1.2. Cải cách hệ thống NHTM và CPH NHTM NN
1.2.1. Cải cách hệ thống NHTM NN ở Việt Nam
1.2.1.1. Nội dung chính về cải cách hệ thống NHTM NN Việt Nam
Xử lý nợ tồn đọng. Nợ tồn đọng được chia làm hai loại, những

khoản nợ thuộc chỉ định của Chính phủ thì Chính phủ sẽ có cơ chế
và cân đối nguồn vốn xử lý, các khoản nợ thuộc diện cho vay thương
mại của các ngân hàng thì các ngân hàng dùng quỹ dự phòng rủi ro
để xử lý. Nguồn vốn chủ yếu cho xử lý nợ tồn đọng là Nguồn dự
phòng rủi ro được trích lập hàng năm của các ngân hàng; Nguồn từ
NHNN đã tái cấp vốn trước đây cho các NHTM theo các mục tiêu
như cho vay để cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, khắc phục thiên tai, cho
vay theo chỉ định của Chính phủ; Nguồn từ Ngân hàng thế giới và
Quỹ tiền tệ quốc tế cho vay cơ cấu lại nợ NHTM NN; Chính phủ cho
phép NHNN phát hành trái phiếu có lãi suất cố định để xử lý nợ tồn
đọng cho các ngân hàng.
Tăng vốn tự có của các NHTM NN. Song song với việc giải
quyết nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính của NHTM NN là việc tăng
cường khả năng về vốn tự có để từng bước phù hợp với chuẩn mực
quốc tế và khu vực. Tăng vốn tự có là vấn đề bức bách đối với
NHTM NN. Mục tiêu của việc tăng vốn tự có nhằm đảm bảo đủ tiêu
chuẩn quốc tế (Basel). Nguồn để tăng vốn tự có gồm (đề xuất của
Ngân hàng nhà nước): Cho phép NHTM NN giữ lại phần thu thuế


12

sử dụng vốn; chuyển phần vốn vay từ Ngân hàng thế giới và Quỹ
tiền tệ quốc tế theo chương trình tái cơ cấu; Ổn định mức nộp ngân
sách (lấy năm 2000 làm mốc) trong 3 năm để khuyến khích các
NHTM NN phấn đấu vượt chỉ tiêu lợi nhuận, cho phép lấy phần
vượt để bổ sung vốn tự có; tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh
để bổ sung vốn tự có; Cho phép tăng vốn bằng phương thức bán cổ
phần ưu đãi (không tham gia quản lý) cho cán bộ công nhân viên
với cổ tức cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.

Cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của các NHTM NN. Cơ cấu
lại theo hai hướng. Một là, tách bạch hoạt động cho vay chính sách
và cho vay thương mại: để thực hiện nội dung này, các khoản cho
vay chỉ định đã được chuyển sang Quỹ hỗ trợ phát triển và việc
thành lập ngân hàng chính sách cũng nằm trong mục tiêu này. Thứ
hai, cơ cấu lại mô hình tổ chức của NHTM NN nhằm đáp ứng yêu
cầu đa dạng của khách hàng bằng cách tổ chức các phòng ban theo
đối tượng khách hàng kết hợp với sản phẩm, dịch vụ nhằm phục vụ
tốt hơn cácyêu cầu của khách hàng về nâng cao chất lượng dịch vụ.
1.2.1.2. Quá trình cải cách hệ thống NHTM NN Việt Nam
Về quá trình cải cách hệ thống NHTM NN ở Việt Nam có thể
chia làm 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất (1987-1990)
Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1987
nhằm làm cho hệ thống ngân hàng Việt nam thích ứng với cơ chế
quản lý mới: cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Với cơ


13

chế mới này đòi hỏi ngân hàng cũng phải chuyển sang hoạt động
kinh doanh chứ không chỉ đơn thuần thực hiện chức năng quản lý
tiền tệ, tín dụng va thanh toán như trước kia.
Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ nhất, từ 1987 đến 1990,
được thực hiện theo tinh thần Nghị định 53HĐBT ngày 26/03/1988
của Hội đồng Bộ trưởng. Có hai điểm nổi bật trong công cuộc cải tổ
ngân hàng lần thứ nhất. Thứ nhất là việc tách bộ phận Quản lý quỹ
Ngân sách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước để hình thành hệ thống Kho
bạc Nhà nước, làm chức năng quản lý quỹ Ngân sách cho Chính
phủ. Thứ hai là thành lập hệ thống Ngân hàng chuyên doanh và tách

chức năng kinh doanh của ngân hàng Nhà nước giao về cho các
ngân hàng chuyên doanh. Điều này được xem như là một bước cải
tổ quan trọng vì đã tách bạch rõ ràng hai chức năng quản lý và chức
năng kinh doanh của Ngân hàng Nhà nước.
Theo Nghị định 53, hệ thống Ngân hàng Việt Nam được tổ
chức thành hệ thống ngân hàng 2 cấp bao gồm: Ngân hàng nhà
nước và Ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng nhà nước, được tổ
chức thành hệ thống từ trung ương đến cấp tỉnh, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngân
hàng chuyên doanh bao gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam,
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư Xây dựng
Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam, thực hiện
chức năng kinh doanh theo những lĩnh vực tương ứng với tên gọi.


14

Tuy nhiên, tổ chức hệ thống ngân hàng kiểu này còn chứa
đựng nhiều nhược điểm khiến cho hệ thống ngân hàng không thích
ứng được khi chuyển sang cơ chế thị trường. Thứ nhất là hệ thống
Ngân hàng theo Nghị định 53 còn mang tính chất độc quyền Nhà
nước, chưa cho phép các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt
động ngân hàng, trong khi chủ trương của Chính phủ là phát triển
nền kinh tế đa thành phần. Thứ hai là hệ thống Ngân hàng này vẫn
chưa chú trọng đến vai trò hoạt động như một ngân hàng trung ương
của Ngân hàng Nhà nước. Thứ ba là hệ thống ngân hàng tổ chức
kiểu này còn xa lạ với hệ thống ngân hàng của các nước có nền kinh
tế thị trường, điều này phần nào làm cản trở quá trình hội nhập và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cuối cùng hệ thống ngân hàng này
vẫn còn thiếu cơ sở pháp lý làm nền tảng cho hoạt động của cả hệ

thống làm cho cả hệ thống lâm vào tình trạng khó khăn vào năm
1990.
Những nhược điểm như vừa nêu trên một lần nữa đòi hỏi phải
có sự cải tổ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Năm 1990, với sự
ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh các tổ chức
tín dụng, hệ thống ngân hàng Việt Nam bước vào thời kỳ cải tổ lần
thứ 2.
Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ 2 (1990-2000)
Nhu cầu cải tổ hệ thống Ngân hàng Việt Nam xuất phát từ yêu
cầu chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa sang
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước với chủ trương phát


15

triển kinh tế đa thành phần. Ngày 23/05/1990 Hội đồng Nhà nước
ban hành pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về các tổ
chức tín dụng. Hai pháp lệnh này đánh dấu thời kỳ cải tổ hệ thống
ngân hàng Việt Nam lần thứ 2. Với hai pháp lệnh này, hệ thống
Ngân hàng Việt Nam được tổ chức gần giống với hệ thống ngân
hàng của các nước có nền kinh tế thị trường bao gồm: Ngân hàng
Nhà nước đóng vai trò ngân hàng trung ương, các tổ chức tín dụng,
bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển, công
ty tài chính và hợp tác xã tín dụng, đóng vai trò ngân hàng trung
gian. Các pháp lệnh này cũng đã quy định nhiệm vụ và quyền hạn
của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại một cách cụ
thể và chi tiết. Hệ thống ngân hàng kiều này đã xóa bỏ được tính độc
quyền Nhà nước trong hoạt động ngân hàng bằng cách cho phép
thành lập ngân hàng thương mại thuộc nhiều loại hình sở hữu khác
nhau. Mặt khác, hệ thống ngân hàng tổ chức theo kiểu này gần giống

hệ thống ngân hàng có nền kinh tế thị trường, trong đó có sự hiện
diện và hoạt động của ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài góp phần hỗ trợ cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
cũng như truyền bá công nghệ ngân hàng hiện đại vào Việt Nam. Hệ
thống ngân hàng theo pháp lệnh năm 1990 còn có ưu điểm là chú
trọng đến vai trò ngân hàng trung ương của Ngân hàng Nhà nước thể
hiện ở chỗ quy định và quản lý dữ trữ bắt buộc đối với các ngân hàng
thương mại. Cải tổ hệ thống ngân hàng năm 1990 đã góp phần đa
đạng hoá hoạt động ngân hàng về mặt hình thức sở hữu cũng như số


16

lượng ngân hàng, cho đến năm 1997 số lượng ngân hàng thương mại
đã gia tăng lên đến 84 trong đó có 51 ngân hàng thương mại cổ phần.
Sự phát triển đa dạng đã thúc đẩy nỗ lực cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại, từ đó nâng cao trình độ nghiệp vụ và chất lượng
dịch vụ với tiện ích ngày càng cao cho khách hàng.
Mặc dù giai đoạn 1991-1997 với sự ra đời của pháp lệnh ngân
hàng, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có bước tiến đáng kể, tuy
nhiên hệ thống ngân hàng kiểu này vẫn cần một nền tảng pháp lý
vững chắc hơn đó là luật ngân hàng.
Cải tổ hệ thống ngân hàng lần thứ ba (từ năm 2000- nay)
Rút kinh nghiệm 7 năm thực hiện, pháp lệnh Ngân hàng Nhà
nước và Pháp lệnh các tổ chức tín dụng đã được bổ sung sửa đổi và
trở thành Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức
tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và được công
bố ngày 26/12/1997. Theo luật hiện hành, hệ thống Ngân hàng ở
Việt Nam bao gồm: Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò ngân hàng
trung gian và các Tổ chức tín dụng đóng vai trò định chế tài chính

trung gian. Các luật này đã quy định cụ thể về tổ chức, chức năng
hoạt động của Ngân hàng Nhà nước cũng như các ngân hàng
thương mại. Từ năm 2001 đến nay, các ngân hàng thương mại Việt
Nam bước vào thời kỳ củng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ và công
nghệ ngân hàng nhằm gia tăng sức cạnh tranh cho phù hợp với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trọng tâm của giai
đoạn này là đề án cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, trong


17

đó tập trung chủ yếu vào các NHTM NN Việt Nam. Đề án này được
NHNN Việt Nam đưa ra vào năm 2001 với các nội dung chính là: xử
lý nợ tồn đọng, tăng vốn tự có cho các NHTM NN, cơ cấu lại tổ chức
và hoạt động của các NHTM NN. Qua hơn 5 năm thực hiện đề án,
các NHTM Việt Nam nói chung và đặc biệt là các NHTM NN nói
riêng đã có những bước chuyển biến rõ rệt cả về mặt tài chính, cơ
cấu tổ chức cũng như hiện đại hoá công nghệ, góp phần củng cố sức
mạnh của các NHTM Việt Nam đứng vững trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập WTO nói riêng.
1.2.1.3. Cải cách các NHTM NN ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập WTO
Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO và sẽ phải
từng bước thực hiện những cam kết theo lộ trình đã thoả thuận. Có
thể nhận thấy rằng, bên cạnh những lợi thế từ việc hội nhập, lĩnh
vực ngân hàng của Việt Nam cũng còn không ít những thách thức
phải đối mặt. Tuy nhiên hội nhập WTO là một tất yếu và cũng như
các ngành khác, ngành ngân hàng phải có những bước chuẩn bị từ
lâu cho tiến trình hội nhập ngày hôm nay để vượt qua những khó
khăn và trở ngại, để có thể cạnh tranh và nắm bắt được những thành

tựu của quá trình hội nhập WTO.
Để chuẩn bị tốt để chuẩn bị tốt cho tiến trình hội nhập, Ngành
ngân hàng đã xây dựng kế hoạch và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế
trong lĩnh vực ngân hàng ban hành theo Quyết định số


18

663/2003/QĐ-NHNN ngày 26/06/2003, theo đó ngành Ngân hàng
đã đưa ra những định hướng lớn như:
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
theo lộ trình và bước đi phù hợp với thệ thống ngân hàng Việt Nam
- Thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động
Ngân hàng, trước hết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, hiệp định
khung về thương mại dịch vụ của ASEAN và những quy định của
WTO.
- Phát hành và niêm yết chứng khoán của NHTM Việt Nam trên
TTCK trong nước và trên thị trường tài chính quốc tế…
- Tham gia các điều ước quốc tế, các câu lạc bộ, các diễn đàn
khu vực và quốc tế về tiền tệ, ngân hàng.
- Tăng cường áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về
hoạt động Ngân hàng thương mại, đặc biệt là các chuẩn mực kế
toán, kiểm soát, quy chế quan hệ bắt buộc giữa các ngân hàng trung
gian với ngân hàng trung ương về tái cấp vốn, thị trường mở, thanh
toán quốc gia và thanh tra – giám sát ngân hàng.
- Mở cửa thị trường Ngân hàng, nới lỏng các hạn chế về quyền
tiếp cận và hoạt động của Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam;
- Xoá bỏ dần các giới hạn đối với các Ngân hàng nước ngoài về
số lượng đơn vị, hình thức pháp nhân, tỷ lệ góp vốn của bên nước
ngoài, tổng giao dịch nghiệp vụ Ngân hàng, mức huy động vốn

VND, loại sản phẩm, dịch vụ..để tạo sân chơi bình đẳng cho các
NHTM trên lãnh thổ Việt Nam cùng cạnh tranh và phát triển.


19

- Xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với luật
lệ quốc tế;
Lĩnh vực ngân hàng – tài chính là lĩnh vực nhạy cảm và hấp dẫn các
nhà đầu tư nước ngoài, do vậy họ muốn Việt Nam mở cửa thật
nhanh và triệt để trong lĩnh vực này. Mở cửa là đồng nghĩa với áp
lực cạnh tranh rất lớn cho lĩnh vực vốn được coi là ngành dịch vụ
đẳng cấp cao và đứng ở hàng tiên phong trong cơ chế hội nhập này.
Trong khi đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn được đánh giá là
còn nhiều yếu kém. Đến nay hệ thống NHTM NN chiếm thị phần
lớn trong các hoạt động ngân hàng ở Việt Nam với khoảng 67% thị
phần huy động vốn và 65% thị phần tín dụng, trong thời gian qua
với thị phần vượt trội như vậy, các NHTM NN có nhiều lợi thế vượt
trội trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam. Tuy nhiên chính những
lợi thế vượt trội đó đã đẩy các NHTM NN rơi vào tình trạng độc
quyền, chậm đổi mới làm cho sức cạnh tranh và hiệu quả của các
ngân hàng này còn rất thấp. Chính vì vậy, trước yêu cầu của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức đối với lĩnh vực
ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO đòi hỏi phải có sự cải tổ hệ
thống NHTM NN. Nắm bắt được điều này, NHNN Việt Nam đã
đưa ra Đề án tái cơ cấu NHTM NN với mục tiêu đẩy mạnh tiến trình
tái cơ cấu lại toàn diện hệ thống NHTM với những nội dung chủ
yếu sau:
- Cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo hướng: sắp xếp lại tổ chức bộ
máy của các NHTM NN từ Hội sở chính đến chi nhánh theo hướng



20

gọn nhẹ và phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ ngày càng
hiện đại, đổi mới tổ chức bộ máy ở Hội sở chính phù hợp với thông
lệ quốc tế trong đó hội đồng quản trị phải là cơ quản quyền lực tối
cao, có thực quyền đại điện chủ sở hữu, giám sát toàn diện hoạt
động Ngân hàng và ban điều hành đồng thời chịu rủi ro cuối cùng
về hoạt động ngân hàng, bộ phận tham mưu, tác nghiệp cho HĐQT
gồm có ít nhất Ban kiểm soát và kiểm toán nội bộ, Hội đồng/Ủy ban
quản lý rủi ro; chuyển sang mô hình quản trị kinh doanh theo nhóm
khách hàng và loại dịch vụ đồng thời phát triển thành các tập đoàn
đa năng; phát triển hệ thống kênh phân phối điện tử mà không nhất
thiết phải mở nhiều chi nhánh làm năng động hoá quá trình phát
triển dịch vụ, chuyển hướng dịch vụ, chuyển hướng thị trường hoặc
thay đổi nhóm khách hàng.
Một trong những nội dung nữa của việc cơ cấu lại tổ chức và
hoạt động của NHTM là tách bạch hoạt động cho vay chính sách và
cho vay thương mại. Để thực hiện nội dung này, các khoản cho vay
chỉ định đã được chuyển sang Quỹ hỗ trợ phát triển và việc thành
lập ngân hàng chính sách cũng như Ngân hàng phát triển Việt Nam
cũng nằm trong mục tiêu này.
- Tăng cường năng lực hoạt động và quản lý kinh doanh bằng
cách đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ, phát triển sản phẩm dịch vụ
mới dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến về nghiệp vụ bán lẻ, thanh
toán và giao dịch; phát triển hệ thống công nghệ thanh toán hiện đại,
tiên tiến sao cho các NHTM nói chung và các NHTM NN nói riêng



21

nên là thành viên trong mạng thanh toán quốc gia, thống nhất một
trung tâm phát hành thẻ hoặc phương tiện thanh toán khác sẽ tiết
kiệm rất lớn và dễ dàng phát triển thị trường hơn nhiều so với mạng
khép kín cục bộ hoặc một nhóm cục bộ như hiện nay; chuẩn mực
các quy trình và thủ tục quản lý theo hướng đồng bộ, hiện đại, chủ
động hoá và phù hợp với thông lệ quốc tế; phát triển hệ thống thông
tin tập trung và quản lý rủi ro độc lập chịu sự giám sát của thanh tra
chuyên ngành ngân hàng; thiết lập và tách bạch các nhóm nghiệp vụ
như: quản lý rủi ro, quản lý tín dụng; quản lý công nghệ, quản lý
chiến lược kinh doanh và Marketing, hệ thống thông tin quản lý nội
bộ, thành lập Ban/Hội đồng quản lý tài sản nợ/có và phát triển hệ
thống kiểm tra trực thuộc Ban điều hành, Ban kiểm toán nội bộ trực
thuộc HĐQT.
- Tăng cường năng lực tài chính bằng cách tăng vốn tự có và xử
lý dứt điểm nợ tồn đọng. Các NHTM NN có thể tăng vốn tự có bằng
lợi nhuận để lại, phát hành cổ phiếu, trái phiếu huy động vốn trên
thị trường chứng khoán sơ cấp đồng thời “lỏng hoá” các công cụ tài
chính trung và dài hạn trên thị trường chứng khoán thứ cấp/OTC
thông qua việc thành lập hoặc tham gia chợ đầu mối chứng khoán
thứ cấp. Ngoài ra, các NHTM NN có thể tăng vốn tự có bằng sát
nhập, hợp nhất, mua lại, phát hành kỳ phiếu để tăng VTC.
- Cổ phần hoá NHTM NN gắn liền với hiện đại hoá công nghệ
và trình độ quản lý, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là


22

các TCTD có tiềm lực tài chính, công nghệ, quản lý và uy tín quốc

tế mua cổ phiếu và tham gia điều hành.
Trong thời điểm hiện tại, các NHTM NN đang thực hiện đề án
tổng thể về cơ cấu lại tài chính, hoạt động và tổ chức để đáp ứng
nhu cầu phát triển mới của khách hàng trong điều kiện hội nhập.
Theo chủ trương của Chính phủ, trong số các nội dung cơ bản cần
cơ cấu lại bao gồm cả việc cơ cấu lại sở hữu bằng phương thức CPH
các NHTM NN.
Như vậy, CPH các NHTM NN được xác định là một nhiệm vụ trọng
tâm trong quá trình hội nhập WTO của hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Theo bà Dương Thu Hương, phó chủ nhiệm Uỷ ban ngân
sách quốc hội, nguyên Phó Thống đốc NHNN Việt Nam, thì giải
pháp quan trọng nhất để các ngân hàng Việt Nam hội nhập thành
công là đẩy mạnh tiến trình CPH. (Trả lời phỏng vấn trên báo điện
tử VietNamNet ngày 13/10/2006.)
1.2.2. Cổ phần hoá NHTM NN
1.2.2.1. Khái niệm về CPH NHTM NN:
CPH NHTM NN là việc biến các NHTM NN có một chủ sở
hữu là Nhà nước thành các NHTM có nhiều chủ sở hữu với nhiều
cổ đông khác nhau.
CPH NHTM NN là quá trình chuyển hoá cơ cấu sở hữu tài sản
và quyền hoạt động kinh doanh của ngân hàng từ đơn sở hữu sang
đa sở hữu và không đồng nghĩa với việc Nhà nước bán quyền sở
hữu về tài sản, vốn liếng, danh tiếng hiện có của mình cho các chủ


23

sở hữu khác để thu tiền về làm việc khác, mà là quá trình Nhà nước
chuyển và góp toàn bộ vốn của Nhà nước trong NHTM đó vào cấu
trúc NHTM mới với quy mô vốn lớn hơn, công nghệ hiện đại hơn,

phương thức quản trị kinh doanh văn minh hơn, chất lượng sản
phẩm được dự báo cao hơn, sức cạnh tranh tăng lên.
1.2.2.2. Đặc thù của cổ phần hoá NHTM NN
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng là hoạt động có độ nhạy cảm
cao, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Cho nên việc cổ phần hóa các
NHTM NN phải được tiến hành như thế nào để không làm xáo trộn
hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như ảnh hưởng đến toàn
bộ nền kinh tế là một trong các yêu cầu hàng đầu về CPH các
NHTM NN. Chính vì đặc thù này, trong quá trình CPH các NHTM
NN, ban đầu, vốn nhà nước vẫn phải chiếm tỷ lệ chi phối nhằm đảm
bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng sau CPH. Việc thiết kế bộ
máy tổ chức, cơ chế quản lý đối với NHTM NN sau CPH cũng là
vấn đề cần tính toán kỹ để tạo được bộ máy và cán bộ phù hợp để
không những không tác động xấu hoạt động ngân hàng mà còn tạo
được bước phát triển mạnh và đạt được mục tiêu CPH.
Thứ hai, đo đặc thù các hoạt động ngân hàng liên quan rất
nhiều đến khách hàng gửi và vay tiền tại ngân hàng, nên việc cổ
phần hoá NHTM phải có những bước đi cẩn thận hơn để không ảnh
hưởng đến quyền lợi người gửi và người vay tiền. Đặc điểm này đã
dẫn đến việc xác định và xử lý các khoản phải thu, phải trả trong


24

quá trình xử lý tài chính cho CPH của các NHTM khác với DNNN
thông thường khác.
Thứ ba, việc xác định giá trị doanh nghiệp của các NHTM NN
cũng có những đặc thù riêng, do hệ thống mạng lưới của ngân hàng
thường lớn, trải rộng trên nhiều khu vực khác nhau, tài sản có, tài
sản nợ của ngân hàng cũng không giống với các doanh nghiệp thông

thường nên việc định giá thường phức tạp hơn. Hơn nữa việc xác
định giá trị thương hiệu sẽ khó khăn hơn vì sản phẩm dịch vụ của
ngân hàng đa dạng và khá trìu tượng, không giống như sản phẩm
hàng hoá của các DNNN khác.
Thứ tư, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, một lĩnh vực cũng đặc biệt trong nền
kinh tế. Khác với các DNNN thông thường khác, hoạt động ngân
hàng chịu sự điều chỉnh, chi phối bởi một hệ thống luật pháp riêng.
Các NHTM NN do có những đặc thù riêng nên về cơ bản là chịu sự
điều tiết của Luật các tổ chức tín dụng. Sự khác biệt trong lĩnh vực
kinh doanh và cơ sở pháp lý như vậy sẽ làm cho việc CPH NHTM
có những khó khăn, vướng mắc do hiện nay, các văn bản pháp lý về
CPH mở chỉ đề cập trực tiếp tới các DNNN thông thường.
Nói tóm lại, CPH NHTM NN có những đặc điểm riêng khác
biệt với CPH các DNNN thông thường khác do đặc thù hoạt động
trong lĩnh vực ngân hàng. Ở Việt Nam, chưa có tiền lệ về CPH
NHTM NN nên trong quá trình CPH các NHTM NN ở Việt Nam
cần có những bước đi thận trọng nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt


25

động của các NHTM NN sau CPH đồng thời đạt được những mục
tiêu của CPH là nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM NN
nhằm đáp ứng được yêu cầu hội nhập trong giai đoạn hậu WTO.
1.2.2.3. Các bước tiến hành CPH NHTM NN
Quá trình CPH một ngân hàng thương mại có thể khái quát
thành các bước cơ bản như sau:
Bước 1. Củng cố, ổn định hoạt động ngân hàng trước CPH bao
gồm xử lý tài chính trước khi định giá doanh nghiệp và sắp xếp bộ

máy, đổi mới công nghệ.
Xử lý tài chính trước khi định giá doanh nghiệp.
Việc xử lý tài chính bao gồm việc nâng cao năng lực tài chính,
lành mạnh hoá và minh bạch tài chính. Trước khi CPH, các NHTM
NN phải đảm bảo tỷ lệ an toàn an toàn vốn ở mức tối thiểu theo
thông lệ quốc tế (hiện nay là 8%). Để làm được điều này, các
NHTM NN phải được cấp bổ sung vốn. Việc tái cấp vốn của Chính
phủ cho các ngân hàng thường được thực hiện bằng nhiều hình
thức, có thể bằng tiền hoặc bằng trái phiếu Chính phủ.
Bên cạnh việc bổ sung vốn tự có, xử lý nợ xấu là bước đi bắt
buộc nhằm nâng cao giá trị và hình ảnh của doanh nghiệp. Nợ xấu
sẽ cản trở không nhỏ đến quá trình CPH NHTM, nếu không được
xử lý sớm và dứt điểm, nợ xấu sẽ làm chậm tiến độ CPH của các
ngân hàng, xử lý nợ xấu được coi là nhiệm vụ trọng tâm nhằm minh
bạch hoá tài chính trước khi CPH. Quá trình xử lý nợ xấu của các
ngân hàng có thể được thực hiện bằng nhiều phương thức, đó là


×