Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TIEU LUAN TRIET HOC TU TUONG DUC TRI CUA NHO GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.1 KB, 30 trang )

GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

CHƯƠNG 1: PHẦN MỞ ĐẦU

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

1. Lý do chọn đề tài ( Tính cấp thiết của đề tài)
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, trong đời sống dân tộc ta, những giá trị đạo đức được
xã hội thừa nhận phổ biến ví dụ như: “cái thiện, lương tâm, lòng yêu nước thương nòi,
lòng hiếu thảo, tình bạn, tình đồng chí, lòng chung thủy…”đã trở thành một nét đẹp trong
văn hóa truyền thống của con người Việt Nam. Qua thời gian người Việt Nam luôn dựa
trên các quy tắc về đạo đức tốt đẹp đó để duy trì và phát triển cuộc sống cũng như trong
công cuộc bảo vệ độc lập chủ quyển của dân tộc truyền thống ấy càng được nhân lên nó
đã trở thành nguồn sức mạnh to lớn để cổ vũ tinh thần yêu nước của dân tộc đặc biệt
được thể hiện qua : ba lần thắng quân Nguyên Mông, chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng
năm châu, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào… để có được thắng lợi đó chúng ta đã
sống theo nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức truyền từ đời này qua đời khác đó là: chị ngã
em nâng, lá lành đùm lá rách hay thương người như thể thương thân, một con ngựa đau
cả tàu bỏ cỏ..” đó chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của tư tưởng Nho giáo mà người sáng lập
nên là Khổng Tử.
Tuy nhiên những năm gần đây chúng ta thấy được thực trạng tình trạng đạo đức của
người Việt Nam ngày càng suy giảm chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lối sống thực dụng chạy
theo đồng tiền, tệ nạn xã hội, tham nhũng, buôn lậu…có chiều hướng tăng lên và chính
điều đó là suy giảm giá trị đạo đức xã hội thực sự trở thành vấn đề nổi cộm trong đời
sống xã hội.
Đứng trước thực trạng đó nho giáo với quan điểm coi trọng đạo đức, coi trọng việc
hoàn thiện nhân cách mỗi người là điều kiện để xây dựng hoàn thiện xã hội lý tưởng.
Nho giáo đã giúp con người hình thành lối sống có đạo đức có trách nhiệm với gia đình,
với đất nước và đặc biệt là với chính bản thân mình và coi trọng trật tự kỷ cương một lối


sống mà “ phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” Nho giáo

HV: Lê Thị Hải Xuân

1


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

đã tạo ra một cộng đồng xã hội có tôn ti trật tự hòa mục từ trong gia đình đến xã hội,
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

thiên hạ.

Do đó việc nghiên cứu quan điểm đức trị trong nho giáo có ý nghĩa quan trọng đối
với các giá trị truyền thống Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về vấn đề này, từ trước đến nay đã có nhiều tác phẩm, tác giả. Tuỳ theo từng
thời kì lịch sử, mà có các cách đánh giá và nhìn nhận khác nhau. Đại thể có thể chia làm
hai loại quan điểm: một là quan điểm thiên về thừa nhận, khẳng định ý nghĩa tích cực trong
tư tưởng đức trị của Nho Gia, còn lại thiên về phê phán tư tưởng này của ông.
Báo cáo khái quát một cách có hệ thống tư tưởng đức trị của Nho Gia, chỉ ra những
cống hiến về mặt lý luận trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; đặc biệt là sự ảnh hưởng của nó
đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Sau khi hoàn thành tiểu luận cần đạt được mục đích nghiên cứu



Tìm ra mặt tích cực, hạn chế trong tư tưởng đức trị của Nho gia



Ảnh hưởng tích cực của tư tưởng ấy giá trị truyền thống của con người Việt Nam
hiện nay.



Vận dụng sáng tạo những mặt tích cực của tư tưởng đó vào truyền thống của người
Việt Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3.2. Nhiệm vụ:


Trình bày khái quát tư tưởng triết học của Nho Gia về sự hình thành (trong đó có
đề cập cụ thể đến tư tưởng đạo đức) và sự phát triển của chúng , khi du nhập vào
Việt Nam.



Phân tích và đưa ra những nhận xét, đánh giá về tình hình phát triển và vận dụng
vào Việt Nam.

HV: Lê Thị Hải Xuân

2



GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

4. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

4.1. Cơ sở lý luận:
Dựa trên triết học Trung Quốc trung đại phần nghiên cứu về tư tưởng con người và
xây dựng con người đồng thời kết hợp với phần lịch sử triết học Việt Nam trong đó
nghiên cứu về tư tưởng nho giáo trong lịch sử triết học Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Báo cáo được tiến hành trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp
duy vật lịch sử, đồng thời với sự kết hợp của nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp
lịch sử – lôgíc, phương pháp quy nạp – diễn dịch, phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp so sánh đối chiếu...
5. Những đóng góp của đề tài
Nội dung nghiên cứu của đề tài góp phần đóng góp nhỏ về mặt lý thuyết làm sáng
tỏ tư tưởng “Đức trị trong nho giáo” làm cơ sở vận dụng vào đời sống xã hội Việt Nam
trong thời buổi kinh tế thị trường để mỗi người có thể tự hoàn thiện bản thân góp phần
làm cho xã hội phồn vinh mà không mất đi các giá trị về văn hóa đạo đức.
Đồng thời thông qua đề tài tôi có thể hoàn thiện nhân cách đạo đức cho chính bản
thân mình để tôi có thể thành công hơn nữa trong cuộc sống.
Đây cũng là tài liệu học tập mà tôi đã dày công nghiên cứu trong chương trình học
cao học hi vọng nó không chỉ giúp ích cho bản thân tôi trong học tập mà còn có thể hỗ
trợ các bạn học sau tìm hiểu sâu sắc hơn về đề tài.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo gồm 3 chương.
Chương 1: Phần mở đầu

Chương 2: Nội dung
Chương 3: Thực trạng tư tưởng đức trị trong nho gia ảnh hưởng đến giá trị truyền
thống của người Việt Nam
HV: Lê Thị Hải Xuân

3


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

CHƯƠNG 2: PHẦN NỘI DUNG
2.1. Học thuyết Đức trị của Nho giáo
2.1.1 Nho giáo là gi?
Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Ông qua đời cách đây khoảng hai nghìn
năm trăm năm, nhưng ông không thể ngờ rằng vào lúc giao thời giữa thế kỷ 20 – 21 này
loài người lại sốt sắng quan tâm đến học thuyết của ông đến như vậy. Học thuyết của ông
đã hành trình xuyên suốt lịch sử Trung Hoa và ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới
đặc biệt là các nước ở Châu Á, hình thành khu vực văn hoá Khổng giáo.
Nội dung cơ bản của Nho giáo đề cập đến các vấn đề chính trị, đạo đức của con
người, xã hội.
Về đạo đức: cơ bản Nho gia cổ trung đại đều theo xu hướng bàn về bản tính thiện ở
con người. Con người sống ở đời cần năm đức: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; trong đó nhân là
gốc.
Về đạo quản lý xã hội, Nho gia chủ trương một đường lối quản lý đó là “Đức trị”.
2.1.2 Học thuyết Đức trị
Khổng Tử đã viết: " Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà

dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục. Hơn nữa, bề trên trọng lễ thì dân
không ai dám không tôn kính, bề trên trọng nghĩa thì dân không ai dám không phục tùng,
bề trên trọng tín thì dân không ai dám không ăn ở hết lòng".
Đức trị được hiểu theo hai khía cạnh:
Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng trước hết phải là thực hiện
“Chính danh”. Chính danh có nghĩa là một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với
cái danh mà nó mang. Nói cách khác, mỗi cái danh bao hàm trong đó một số điều kiện
HV: Lê Thị Hải Xuân

4


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

tạo nên bản chất loại sự việc mà danh liên quan đến. Theo nguyên tắc này, bản thân nhà
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

vua phong kiến cũng bị rằng buộc trong những quy định lễ nghĩa, mà một trong số đó là
yêu cầu phải yêu dân như con. Như vậy, trong xã hội, mỗi cái danh đều bao hàm một số
trách nhiệm và bổn phận mà mỗi cá nhân mang cái danh ấy phải có trách nhiệm và bổn
phận phù hợp với cái danh ấy.
Còn theo nguyên tắc nhân trị, Khổng Tử nói: “ Người không có nhân thì lễ mà làm
gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gi?”. Nhân trị hay lễ trị trong xã hội phong
kiến tức là nhà vua phải cảm hóa dân chúng bằng tình người, bằng lòng yêu thương mà
coi trọng con người chứ không phải bằng gông cùm và đòn roi.
“Lễ” hiểu theo nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỉ cương, trật tự, tôn ti của
cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hàng ngày. Với nghĩa này, lễ là
cơ sở của xã hội có tổ chức, đảm bảo cho phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn,

đồng thời nhằm ngăn ngừa những hành vi tình cảm cá nhân thái quá.
“ Lễ” được hiểu theo nghĩa một đức trong “ngũ thường” thì là sự thực hành theo
đúng những giáo huấn, kỷ cương, nghi thức do Nho giáo đề ra cho những quan hệ “tam
cương”, “ngũ luận”, “thất giáo” và cho cả sự thờ cúng thần linh. Đã là người thì phải học
lễ, biết lễ và có lễ. Con người học lễ từ tuổi trẻ thơ.
Lễ với những cách biểu hiện trên là cơ sở, là công cụ chính trị, vũ khí của một
phương pháp trị nước, trị dân lâu đời của Nho giáo. Phương pháp ấy gọi là “ Lễ trị”. Lễ
có thể đưa mọi hoạt động vào nề nếp, có thể ngăn chặn mọi lỗi khi sắp xảy ra. Vì vậy,
những đìều quy định về lễ vốn được ra đời rất sớm, nhiều và tỉ mỉ hơn những điều về
pháp luật.
Tư tưởng đức trị của Khổng Tử được thể hiện qua các đặc điểm:
- Mục đích tối cao của sự cai trị là để yên bách tính, giúp trăm họ sung túc, đầy đủ.
- Người nắm chính sự phải yên dân bằng cách ban ân huệ cho dân, coi sự giàu có
của dân chúng là quan trọng nhất.
HV: Lê Thị Hải Xuân

5


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

- Người cai trị cần trung thành, cần mẫn.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

- Người cai trị cần liêm khiết, chí công vô tư.
Từ quan điểm Đức trị như vậy, nhà vua phong kiến có bổn phận phải luôn tự rèn
luyện đạo đức: phải thân dân và thương yêu dân chúng.

2.2. Nội dung của học thuyết đức trị của nho gia
2.2.1. Quan niệm về "Đức" và đường lối Đức trị: Nhân, Lễ, nghĩa Chính danh
Với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói
đến đạo đức: "Làm người có nết hiếu đễ” thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không
thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú
vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân...".Đức
với Khổng Tử là lời nói đi đôi với việc làm trên cơ sở cái thiện: "Người xưa thận trọng
lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được".
Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức trị" - đường
lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Khổng Tử quan niệm:
"Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở
một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)" .
Trước sau Khổng Tử vẫn tin rằng: "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình
phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng
đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn
mà lại theo đường chính" .
Trong đời mình, dù là luận thuyết việc trị nước cứu đời hay dạy học, đào tạo
nhiều lớp môn sinh tài đức, thì trước sau Khổng Tử đều nói nhiều đến đức nhân. Khổng
Tử coi "nhân" là đức căn bản nhất của con người cả về xử thế lẫn tu thân, và bao gồm
gần đủ các đức khác. Thật vậy "Nhân" vừa là tu thân, vừa là ái nhân, lại vừa là xử kỷ
vừa là tiếp vật.
Nhân còn là Trung (yêu người, hết lòng với người) và thứ (làm cho người những
HV: Lê Thị Hải Xuân

6


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học


cái mình muốn và đừng làm cho người những cái mình không muốn).

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

Nhưng đối với Khổng Tử, điều quan trọng nhất trong tư tưởng về "nhân" là biểu
hiện về mặt chính trị của nó. Có lẽ với Khổng Tử thái độ đối với dân là tiêu chuẩn quan
trọng nhất để đánh giá đức nhân của người cầm quyền: "Sai khiến dân thì phải
thận trọng như trong một cuộc tế lớn, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho
người". Trong nước không ai oán mình, trong "nhà" một đại phu không ai oán mình" .
Ông từng nói "Tài trí đủ để trị dân (có người hiểu là đủ để biết mọi lẽ) mà không biết
dùng đức nhân để giữ dân, thì sẽ mất dân...".
ông giải thích:“Người nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập
thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi
lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ
thi hành cho người khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân). Như vậy, trung thứ tức là từ
lòng mình suy ra lòng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên làm cho
người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mình không muốn.
Sau Nhân, Khổng tử quan tâm nhiều đến "Lễ", bởi “Lễ” cần thiết để duy trì trật
tự xã hội, và có trật tự xã hội thì vua mới được tôn, nước mới được trị. Đối với bản thân
mình, người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ: “Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là
phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi nhân). Lễ là hình thức thể hiện nhân và cũng là
một chuẩn mực của Ngũ thường.
Phạm trù đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc và cốt lõi
của nhân là hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và
vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) là những tình cảm tự nhiên, vốn có thuộc
về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng, trong gia đình nếu người cha
đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có ông vua đứng đầu. Khổng Tử hình dung quốc
gia là một gia đình lớn, ông vua là người cha của gia đình ấy. Nho giáo đặt vua đứng
đầu trong tam cương và ngũ luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận

trung với vua. Một người biết yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì mới biết yêu
HV: Lê Thị Hải Xuân

7


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên là gia đình,
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Coi trọng vai trò gia đình trong việc hình
thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn
còn có ý nghĩa nhất định đối với ngày nay, bỡi lẽ, gia đình là một tế bào của xã hội, xã
hội không thể ổn định, thịnh trị nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người cầm
quyền nếu không “tề gia” (cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể “trị quốc”
(cai trị đất nước) được.
Mặt khác, lễ có nội dung luân lý của nó, trong mối quan hệ chặt chẽ không tách
rời với nhân. Khổng Tử xem điều lễ là hình thức của nhân, là chính đạo mà mọi người
nên thi hành, còn nếu con người chạy theo dục vọng của mình mà trái ngược với chính
đạo tức là trái ngược với điều nhân. Vì vậy, người cầm quyền phải giữ lễ: "Vua khiến
bề tôi phải giữ lễ, bề tôi thờ vua phải trung (hết lòng)" . Đáng chú ý là, trong quan
niệm của Khổng Tử lễ chỉ quan trọng khi gắn bó với điều nhân, là biểu hiện của nhân.
Nếu tách rời nhân thì lễ chỉ là vô nghĩa. "Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì?".
Thật vậy không có lòng nhân thì lễ mà làm gì? Nhà cầm quyền không có đức nhân thì
lễ chỉ càng làm thủ cựu, càng làm nghiệt ngã và tàn khốc.
Khổng Tử đề xướng "Lễ trị" nhằm ổn định xã hội. Thực hành đúng Lễ vừa là
biểu hiện của Nhân, đồng thời cũng thể hiện con người phải làm đúng bổn phẩn, thân

phận của mình, tức là phải Chính danh.
Trong công việc chính trị, theo Khổng Tử Chính danh phải đặt lên trước nhất,
bởi "Nếu danh (hiệu) không chính (xác) thì lời nói không thuận lý (vì danh hiệu không
hợp với thực tế), lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ
nhạc chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ không kiến lập được thì hình phạt
không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu (không biết
làm thế nào cho phải)".
Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để giúp
HV: Lê Thị Hải Xuân

8


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi thường lợi. Muốn
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm (dũng) và có Trí (trí tuệ). Có trí mới biết
cách giúp người mà không làm hại đến người, đến mình, mới biết yêu và ghét người,
mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người không ngay thẳng. Tuy nhiên, trí theo
Khổng Tử và các môn đệ của ông không phải là những tri thức phản ánh thực tại khách
quan của tự nhiên và xã hội để từ đó chỉ đạo hành động của con người mà là những tri
thức mang tính giáo điều, chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư
và Ngũ kinh).
2.2.2. Chính sách trị dân và mẫu người cầm quyền quân tử
Tư tưởng “Đức trị” của Khổng tử còn thể hiện ở quan niệm coi nhẹ chính hình
và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng Tử quan niệm: "Không

giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược". Khổng Tử chủ trương
giảm hình, coi nhẹ hình còn vì ông thật sự không bao giờ tin vào bá đạo: "có thể (dùng
sức mạnh) bắt được một vị nguyên soái, chứ chí hướng của một thường dân thì không
(dùng sức mạnh mà) đoạt nổi . Khổng Tử cho việc thi ân rộng rãi cứu giúp dân chúng là
sự nghiệp của thánh vương mà Nghiêu, Thuấn chưa chắc đã làm được như vậy. Dưỡng
dân, theo Khổng Tử trước hết phải làm cho dân no đủ, giàu. Ông coi trọng việc dưỡng
dân hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hoá dân nữa. Dưỡng dân còn phải biết
"sử dân dĩ thời" nghĩa là khiến dân làm việc phải hợp thời cụ thể là vào lúc dân rảnh
việc nhà nông. Như vậy "sử dân dĩ thời" vừa thể hiện sự nhân đạo trong chính sách trị
dân, vừa là bổn phận của người cầm quyền, người được tôn là cha mẹ dân.
Để thực thi đường lối đức trị, đương nhiên cần phải có một mẫu người
cầm quyền thích hợp. Đó là mẫu người quân tử với những tiêu chuẩn về tài đức nhất
xứng đáng được nắm quyền trị dân. Đức của người quân tử là "lấy nghĩa làm gốc,
theo lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc", "sửa mình để cho
trăm họ yên trị".
Tư cách người quân tử là "lo không đạt đạo chứ không lo nghèo", "hòa hợp
HV: Lê Thị Hải Xuân

9


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

nhưng không a dua", "thư thái mà không kiêu căng".

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

Tài năng kiến thức của người quân tử "không phải như một đồ dùng", tức là

phải hiểu rộng, biết nhiều làm được nhiều việc và nhất là phải có "tài trí đủ để trị
dân". Người quân tử còn phải là "thận trọng về lời nói, mau mắn về việc làm", thờ
vua phải trung nhưng là trung một cách sáng suốt "không nên lừa gạt vua, nhưng
không ngại xúc phạm vua (mà phải dám can gián)".
Có thể khẳng định đường lối đức trị của Khổng Tử "lấy đạo nhân làm gốc, lấy
hiếu - đễ, lễ - nhạc làm cơ bản “ cho sự giáo hoá, lấy việc thực hiện chính sách "thân
dân" làm cơ sở; lấy tư cách phẩm chất mẫu mực của người cầm quyền làm gương
để thực hiện "Đức trị", "Lễ trị", "Nhân trị" nhằm tạo lập một xã hội phong kiến theo
điển chế có trật tự, tôn ti.
2.2.3. Đề cao sức mạnh nhân nghĩa
Mạnh Tử cũng đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử về "tính
tương cận, tập tương viễn" và đi đến luận điểm nổi tiếng: "Nhân tính chi thiện giã"
(cái bản tính của người ta vốn thiện). Từ đó ông khẳng định sức mạnh vô địch của nhân
nghĩa: "Đối với người nhân dẫu kẻ địch có đông cũng chẳng làm gì được mình. Nếu
một vị quốc quân thích làm nhân chính, trong thiên hạ chẳng ai địch nổi". Không ai
địch nổi người nhân đức là ý niệm chính trị mà Mạnh Tử suốt đời tin tưởng theo đuổi.
Quả thật là Mạnh Tử rất nhất quán trong quan niệm lấy nhân đức làm nguyên tắc chỉ
đạo chính trị của mình. Trước sau như một ông luôn luôn chỉ nói đến nhân nghĩa, chỉ đề
cao nhân nghĩa. Quan điểm của ông thật rõ ràng: "Người ưa điều thiện thì dư sức cai trị
thiên hạ... nếu nhà cầm quyền ưa điều thiện, ắt người trong bốn biển sẽ khinh thường
đường xa muôn dặm mà đến với mình, để mách bảo điều thiện với mình". Người nhân là
người vô địch trong thiên hạ, bởi vì "điều nhân thắng điều bất nhân, cũng như nước
thắng lửa".
2.2.4. Coi trọng dân
Nếu Khổng Tử hết sức coi trọng "dân tín", coi đó là điều quan trọng nhất không
HV: Lê Thị Hải Xuân

10



GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

thể bỏ được trong phép trị nước, thì Mạnh Tử nhận thức một cách sâu sắc rằng: "Kiệt và
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử ấy vì mất dân chúng... hễ được dân chúng tự
nhiên sẽ được thiên hạ... hễ được lòng dân tự nhiên sẽ được dân chúng" . Ông nói: "Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" nghĩa là trong nước nhân dân là quan trọng nhất,
thứ đến mới là quốc gia (xã tắc) vua là thứ bậc xem nhẹ nhất. Bởi dân vốn là gốc nước,
có dân mới có nước, có nước mới có vua, ý dân là ý trời. Từ đó Mạnh Tử chủ trương thi
hành một chế độ "báo dân" và khuyến cáo các bậc vua chúa: "Nếu người bậc trên mà vui
với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui của mình; nếu mình buồn với sự buồn của
dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của mình. Bậc quốc trưởng mà chia vui với thiên hạ,
chia buồn với thiên hạ thì thế nào nền cai trị của mình cũng có bề hưng vượng đó" . Với
các nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân muốn việc
chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền đừng thi thố
cho họ". Phân chia ruộng đất hợp lý và khuyến khích làm giàu cho dân.
Nếu Khổng Tử coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc, nhưng mới
dừng lại ở những nguyên tắc có tính đường lối, thì Mạnh Tử quan tâm nhiều hơn đến
các biện pháp kinh tế cụ thể nhằm tạo ra cho dân số một sản nghiệp no đủ. Mạnh Tử đòi
hỏi bậc minh quân phải "chế định điền sản mà chia cho dân cày cấy, cốt khiến cho họ
trên đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới đủ nuôi sống vợ con, nhằm năm trúng mùa thì mãi
mãi no đủ, phải năm thắt ngặt thì khỏi nạn chết đói", và "Thánh nhân cai trị thiên hạ,
phải làm cho dân có đậu thóc nhiều như nước lửa, khi đậu thóc nhiều như nước lửa thì
dân chẳng còn ai bất nghĩa nữa" .
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng "sử dân dĩ thời" của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề xuất
một đường hướng kinh tế khá hoàn chỉnh nhằm hướng đến cải thiện đời sống của dân,
"nếu bậc quốc trưởng làm cho việc ruộng nương được dễ dàng (đừng bắt họ làm xâu lúc

cày cấy gặt hái) và bớt thuế má cho dân, thì dân trở nên phú túc... bực thánh nhân cai trị
thiên hạ, khiến ai nấy đều có đủ ruộng và lúa, cũng như họ có đủ nước và lửa vậy. Nếu
dân chúng có bề phú túc về đậu và lúa cũng như họ có đủ về nước và lửa thì họ còn ăn ở
HV: Lê Thị Hải Xuân

11


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

bất nhân làm chi" . Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm có ý nghĩa đối
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

với dân chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân theo đường lối
nhân chính.
2.2.5. Nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân
Trong đường lối nhân chính ngoài việc lấy nhân nghĩa làm gốc, coi "dân là
quý”, thi hành chế độ điền địa và thuế khoá công bằng, Mạnh Tử còn chủ trương phải
giảm nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử trước
sau tôn sùng "Vương đạo" phản đối "Bá đạo". Mạnh Tử coi việc giảm hình phạt phải là
một chính sách của đức trị. Ông nói: Vua cần phải thi hành phép cai trị nhân - đức đối
với dân: Giảm hình phạt, bớt thuế - liễm, khiến dân siêng lo việc cày sâu cuốc bẫm, làm
vườn làm tược". Theo Mạnh Tử cần phải nhẹ hình phạt bởi nếu "dân khờ khạo mà phạm
luật nước, đó không phải là tội của họ, mà chính là tội của nhà cầm quyền chẳng biết
giữ gìn, giáo hoá họ". Có một điều nhất quán giữa Khổng - Mạnh trong chủ trương nhẹ
hình là cả hai ông đều xem chính hình và thưởng phạt khéo có thể giúp cho sự giáo hoá
dân chúng. Mạnh Tử, cũng xem trọng giáo hoá như Khổng Tử, nhưng cái mới ở ông
là rất quan tâm đến việc quảng bá giáo dục, thông qua việc xây dựng hệ thống trường

học rộng khắp. Ông chủ trương hình thành một mạng lưới trường học đa dạng từ làng xã
đến kinh đô, từ trường hương học đến trường quốc học; đó là những tường, tự, học, hiệu,
để giáo hoá dân chúng. Như vậy, so với Khổng Tử chủ trương giáo hoá của Mạnh Tử có
tính quảng bá và phổ cập hơn. Ngoài việc chú ý đề cao giáo dục đạo đức nhân luân như
Khổng Tử, Mạnh Tử còn thấy được trách nhiệm của người trị dân là phải dạy dân cấy
gặt, chăn nuôi, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất hơn. Ông
chỉ rõ: "Vua Thuấn đã cho ông hậu tắc việc dạy dân cấy gặt và gieo trồng năm giống lúa
chín, nhân dân nhờ đó mà sống". Có thể thấy rõ quan điểm giáo dục và giáo hóa dân của
Mạnh Tử thể hiện một bước tiến mới so với Khổng Tử trước đó và là một nội dung quan
trọng hợp thành đường lối chính trị nhân nghĩa mà Mạnh Tử đã suốt đời cổ vũ.
HV: Lê Thị Hải Xuân

12


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

2.2.6. Xã hội ổn định, trật tự, kỷ cương

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

Đúng là các nhà Nho đã tìm ra một nguyên nhân của tình trạng xã hội rối loạn là
“cha không ra cha, con không ra con" , tức là họ coi một trong những nguồn gốc làm cho
xã hội rối loạn là sự rối loạn từ trong gia đình. Do đó, các nhà Nho đều cho rằng muốn
cho xã hội có trật tự, kỷ cương, thì trước hết và cơ bản là gia đình phải có trật tự, kỷ
cương, sao cho "cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng". Các nhà Nho chủ
trương giáo dục, giáo hoá mọi người trong xã hội theo những nguyên lý đạo đức Chính
danh, Tam cương, Ngũ thường, trước hết và chủ yếu là nhằm mục đích trên. Cho nên

cũng dễ hiểu tại sao Nho giáo chú trọng, đề cao giáo dục, giáo hoá với phương châm
"Hữu giáo vô loại", "Phú nhi hậu giáo”, coi giáo dục, giáo hoá là biện pháp căn bản nhất
để duy trì trật tự, kỷ cương trong gia đình - tiền đề và điều kiện bảo đảm trật tự, kỷ
cương, ổn định xã hội.
Khi đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng, cũng tất yếu, trong học thuyết của
mình, các nhà Nho đều mong muốn rằng trong xã hội đó, bằng mọi cách, phải duy trì
được nguyên tắc: giai cấp địa chủ phong kiến mãi mãi là giai cấp "cai trị người" và được
người phụng dưỡng, còn các giai cấp, tầng lớp khác mãi mãi ‘bị người cai trị" và phải
nuôi dưỡng người. Đôi khi, trước một thực trạng xã hội mà trong đó, mâu thuẫn giữa các
giai cấp và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị diễn ra gay gắt, hầu như không thể
điều hòa được, cũng như tình trạng rối loạn xã hội hầu như không chấm dứt, các nhà Nho
phải viện tới "ý trời", “mệnh trời". Theo đó, cái trật tự đẳng cấp, phân vị ấy là do trời sắp
đặt, là ý trời và không thể đảo ngược được. Và những hành vi hành động nào làm nguy
hại đến trật tự đó là “có tội với trời và dù có cầu đảo thì trời cũng không tha thứ" (Khổng
Tử). Như vậy, dù Nho giáo có đưa ra quan niệm về một xã hội đại đồng lý tưởng thì
chẳng qua cũng chỉ nhằm tô vẽ, bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến cũng
như quyền lợi và địa vị thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm duy trì vĩnh viễn
sự bất công, bất bình đẳng. Xét đến cùng, quan niệm của Nho giáo về một xã hội lý
HV: Lê Thị Hải Xuân

13


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

tưởng - thái bình, ổn định, có trật tự, kỷ cương... là hết sức nghiệt ngã, hết sức hình thức
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ


và thù địch với cuộc sống, với con người, với nhân dân), là cản trở và đi ngược lại xu thế
phát triển tất yếu của lịch sử.
2.2.7. Xã hội đề cao học tập, giáo dục
Xã hội lý tưởng phải là xã hội có giáo dục, mọi người phải được giáo dục, giáo hoá
và có đạo đức. Ở các nhà Nho, giáo dục, giáo hóa cũng là một trong những biện pháp
chính trị căn bản để xây dựng một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị, có trật tự, kỷ
cương, và tạo ra những con người có đạo đức, những mẫu người lý tưởng. Chính vì vậy
mà Nho giáo đặc biệt đề cao, coi trọng giáo dục, giáo hóa. Nhận thức được vai trò của
con người, của giáo dục, giáo hóa mà ngay từ đầu Khổng Tử đã đưa ra chủ trương "Hữu
giáo vô loại", "Phú nhi hậu giáo" với phương châm "Học không biết chán, dạy không biết
mỏi". Tất nhiên, nội dung giáo dục, giáo hóa trước sau vẫn là những lời dạy của các bậc
Thánh hiền trong Tứ thư, Ngũ kinh - những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của đạo làm
vua, đạo làm bề tôi và đạo làm người. Hầu hết các nhà Nho đều khẳng định vai trò quyết
định của đạo đức đối với việc hoàn thiện con người và ổn định, hoàn thiện xã hội. Khống
Tử đã từng nói: "Muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh, muốn trị
dân, nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì chẳng những dân biết xấu hổi họ lại còn cảm
hoá mà trở nên tốt lành”.
Song, để làm cho dân có đức hạnh và tuân phục, để làm tròn trách nhiệm là người
"thay trời trị dân" , "cha mẹ của muôn dân", để xứng đáng với cương vị là người giáo
hoá, “dưỡng dân", theo các nhà Nho, người cầm quyền, kẻ cai trị trước hết phải là người
được giáo dục, tự mình giáo hoá và có đạo đức Khổng Tử nói: "Này, nếu người bề trên
chuộng lễ, thì dân chẳng dám bỏ niềm cung kính. Nếu người bề trên háo nghĩa, thì dân
chẳng bội lẽ công chính. Nếu người bề trên biết tín thật, thì dân chẳng dám sai ngoa
trong tình giao ước. Nếu nhà cầm quyền đủ lễ, nghĩa, tín như vậy, thì dân chúng từ bốn
phương xa sẽ sai con đến để phục dịch mình. Cần chi phải học nghề cày cấy”.
HV: Lê Thị Hải Xuân

14



GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

Các nhà Nho, tiêu biểu là Khổng Tử và Mạnh Tử, coi việc dân đủ ăn, đủ mặc là một
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

công việc hàng đầu để trị nước, là một trong những tiền đề cho sự ổn định của xã hội, cho
việc giáo hoá thành công (có hằng sản mới có hằng tâm). Nhưng các nhà Nho vẫn coi
công việc giáo dục, giáo hoá là nhiệm vụ chính trị cơ bản nhất của nhà cầm quyền, coi
việc dân có đủ đức quan trọng hơn việc họ có đủ ăn, coi Nhân, Nghĩa cần thiết hơn nước
và lửa. Khổng Tử đã từng khuyên nhà cầm quyền không chỉ phải giúp dân làm giàu, mà
điều chủ yếu và cơ bản là khi dân đã giàu thì phải giáo hoá họ. Còn Mạnh Tử thì coi việc
giáo hoá để dân có đạo đức là công việc quan trọng nhất của kế sách giữ nước. Bởi lẽ
như ông nói: "Thành quách chẳng hoàn bị, đồ kinh pháp chẳng nhiều, chẳng phải là tai
nạn trong nước vậy, ruộng nương chẳng mở mang, của cải chứng tích tụ chẳng phải là sự
nguy hại trong nước vậy Người trên không có lễ giáo, người dưới không có học thức, kẻ
dân tàn tặc đấy lên, nước mất đến nơi". Tiếp tục tư tưởng này của Mạnh Tử, nhà tư tưởng
của chế độ phong kiến tập quyền Đặng Trọng Thư cũng nói:"Kìa muôn dân chạy theo cái
lợi, như nước chảy xuống chỗ thấp, nếu không lấy giáo hoá mà ngăn chặn thì lại không
thể giữ lại được. Thế cho nên, giáo hoá xây dựng được thì gian tà đều ngừng lại và việc
ngăn ngừa mới hoàn thành, giáo hoá mà bị phế bỏ thì gian tà đua nhau mà nảy ra, hình
phạt không kể xiết, việc ngăn ngừa bị hỏng. Các bậc vua đời xưa hiểu rõ điều đó, thế cho
nên họ cứ ngồi yên mà trị thiên hạ, không ai không coi việc giáo hoá là việc lớn".
Đồng thời, với việc đề xuất chủ trương chọn người ra làm quan theo phương châm
"Học nhi ưu tắc sĩ”, thì trên thực tế, Nho giáo đã đòi hỏi người cầm quyền không chỉ là
người có đạo đức mà còn phải là người có tri thức Nho giáo.
Như vậy, trong quan niệm của các nhà Nho, việc giáo dục, giáo hóa để làm cho tất
cả mọi người trong xã hội đều có đạo đức đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập một
xã hội lý tưởng.


HV: Lê Thị Hải Xuân

15


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG TƯ TƯỞNG “ĐỨC TRỊ” CỦA NHO GIA
ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ TRỊ TRUYỂN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Quá trình du nhập tư tưởng triết học của nho gia vào Việt Nam
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã hơn 2500
năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở nhiều nước phương Đông,
trong đó có Việt Nam. Sự ảnh hưởng này, được thể hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là
trong lĩnh vực đạo đức trước đây cũng như hiện nay.
Suốt mười thế kỉ Bắc thuộc, các thế lực phong kiến Trung Quốc thống trị đất nước
ta chủ yếu dùng chữ Hán để truyền bá Nho giáo ảnh hưởng của Nho giáo tr ước Cách
mạng tháng 8: Từ chỗ không được ưa thích trong nhân dân Việt Nam Nho giáo dần
dần chiếm giữ vị trí quan trọng trong hê thống xã hội phong kiến, đề cao uy quyền nhà
vua, xây dựng hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới, đặt quan hệ vua tôi ở vị trí cao
nhất trong “ngũ luân”. Các nhà nho Việt Nam không “ngu trung”, họ đòi vua trước
hết phải trung thành với tổ quốc và hiếu với dân. Họ
đã ủng hộ Lê Hoàn, Trần Thủ Độ, khi các ông này gạt bỏ những vua quan bất lợi
của triều đình cũ để lập lên triều đình mới. Đó là ảnh hưởng quan điểm thuyết
Chính danh của Khổng Tử khi vua không ra vua. Khi quân Minh sang xâm lược
HV: Lê Thị Hải Xuân


16


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

nước ta thì Nguyễn Trãi gọi là “thằng nhãi con Tuyên Đức”. Các Nho sĩ Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

xưa kia “sôi kinh nấu sử” để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên Hạ, đó là con đường của
các nh à Nho tiến thân, cống hiến cho nước nhà, tận trung với vua, hết lòng vì xã tắc.
Các bậc vua chúa xưa nay vẫn lấy điều “lấy dân làm gốc”,” đưa thuyền cũng là dân , lật
thuyền cũng là dân” ( Tuân tử), vì dân lấy đạo nghĩa trên hết, chăm lo cho dân, hoặc
Nguyễn Trãi đã viết :“ Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân để thắng cường
bạo “ và quan điểm của ông cha ta từ xưa đến nay đã lấy điều “ Đức trị “ để trị nước,
trong nếp sống hàng ngày, để đối nhân xử thế của từng người : giữa thầy với tr ò, cha
con, vợ chồng, anh em, nổi bật l à vấn đề “ Hiếu đễ.
3.2. Ảnh hưởng tích cực tư tưởng đức trị của nho gia đối với giá trị truyền
thống con người Việt Nam
Nhìn vào thực tế xã hội Việt Nam ngày nay, chúng ta thấy rằng sự ảnh hưởng tư
tưởng đức trị của nho gia đến giá trị truyền thống của người Việt Nam hiện nay thể hiện
trên tất cả các lĩnh vực: chính trị xã hội, kinh tế, văn hoá, gia đình…
3.2.1 Trong phạm vi xã hội
Cho đến nay, trong “tam cương” và “ngũ luân”, chúng ta có thể coi như cuộc sống
chính trị – xã hội đã tự nó thanh toán cương và luân vua – tôi rồi. Đồng thời nó đưa ra một
quan hệ mới: Quan hệ giữa những người Cộng sản và nhân dân lao động. Để xây dựng
quan hệ tốt đẹp không chỉ giữa Đảng và nhân dân mà trong tất cả các mối quan hệ của xã
hội mới thì chữ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng, chính danh… vẫn có nhiều giá trị quan trọng.

Ngày nay, những ảnh hưởng tích cực về tư tưởng Đức trị của nho gia được đưa thêm
vào những nội dung mới cho phù hợp với yêu cầu xã hội. Đất nước ta đang đi theo con
đường XHCN nên càng cần dùng đức để trị dân. Việc kết hợp hài hoà giữa “đức trị” và
“pháp trị” của Đảng và Nhà nước ta là phương pháp có nhiều kết quả trong giáo dục con
người hiện nay.

HV: Lê Thị Hải Xuân

17


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

3.2.2. Trong phạm vi nhà trường

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

Đức trị của Nho giáo đã và đang khẳng định vị trí quan trọng trong nhà trường. Từ
khi còn là học sinh tiểu học, tư tưởng “tiên học lễ, hậu học văn” đã được thấm nhuần bởi
các học sinh. Chữ “Lễ” luôn nhắc các học sinh cư xử lễ độ với bố mẹ, thầy cô, ứng xử có
tôn ti trật tự, đề cao lễ giáo và sự lễ phép là truyền thống văn hóa tốt đẹp phương Đông.
Chữ “Văn” luôn nhắc nhở các thế hệ học sinh phải dùi mài kinh sử để ghi nhớ bao công
lao dựng và giữ nước của cha ông ta. Chính tư tưởng Hồ Chí Minh khi dặn dò bao thế hệ
học sinh trong việc đưa tổ quốc Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu một
phần là nhờ công lao học tập của các cháu” đã thể hiện chữ “Văn” của nho giáo. Tư
tưởng này đã phổ biến trong khắp các trường học trong cả nước, và là một công cụ hữu
ích trong phát triển xã hội Việt Nam ngày nay.
Nho giáo cũng thể hiện vai trò trong việc đào tạo ra những con người có đức, có tài

cho đội ngũ trị nước. Mặt khác, nho giáo cũng thể hiện vai trò trong việc chú trọng giáo
dục các tầng lớp khác.
Nho giáo quan niệm ai cũng cần giáo dục và giáo dục là cần thiết. Muốn cho giáo
dục có hiệu quả thì cần có sự kết hợp giữa thầy và trò, áp dụng phương pháp dạy khác
nhau đối với từng loại học trò. Nho giáo cũng đưa ra nhiều phương pháp giáo dục hiệu
quả như dạy từ xa đến gần, kết hợp giữa học và hành.
3.2.3. Trong phạm vi gia đình
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục con người trong gia đình đã đạt được
những kết quả đáng kể. Chúng ta chủ trương khôi phục gia đình truyền thống với những
nếp tốt mà Nho giáo đã làm được. Gia đình trong thời hiện nay cũng với mục đích xây
dựng nên những mối quan hệ bằng sự mềm dẻo, khéo léo. Mọi thành viên bình đẳng
trên cơ sở bình đẳng lẫn nhau. Mặc dù Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống gia đình, các phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn có những quan
điểm coi thường phụ nữ, lấy tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “ công, dung, ngôn, hạnh”.
Người phụ nữ trở nên bị cương tỏa, dồn nén trong vòng tứ đức không phát huy
HV: Lê Thị Hải Xuân

18


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

được hết năng lực của mình. Ngoài ra truyền thống quan hệ cha con v à anh em đến
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ được tư tưởng của nho giáo, l à nét đẹp trong
quan hệ văn hóa xã hội Việt nam. Đức trị của Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ
giữa các thành viên trong một gia đình, trong một dòng họ, nó kêu gọi sự yêu thương,

đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn truyền thống của gia đình và dòng
họ. Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của ông cha, những gia
huấn, gia giữ đ ược lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông bà cha mẹ
trong nhà gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nh à thờ, sửa
sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả, đều góp phần làm khăng khít hơn m ối quan
hệ trong gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người nảy sinh từ
đó.
Như vậy Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá
nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền).
G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những
người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho
nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức
người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy,
Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới.
Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo
nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm
gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà
kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín
làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ
lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá
trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin
yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân
đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân
HV: Lê Thị Hải Xuân

19


GVHD: TS Phạm Lê Quang


Tiểu luận triết học

nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn
“tu, tề, trị, bình”.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

3.2.4. Đối với mỗi cá nhân
Đức trị của Nho giáo ảnh hưởng đến con người và cá nhân, duy trì tinh thần học
hỏi, hiếu học thành công hơn trong xã hội. Nho giáo giúp con người hướng về cái thiện
(giống như Phật giáo), và cái đức để cư xử tốt hơn trong tập thể, trong gia đình, trong
cộng đồng. Theo Khổng tử, chữ “Nhân” có ý nghĩa trong việc hoàn thiện giá trị con
người và là nguyên tắc quy định bản tính, quan hệ giữa người với người, ở mọi tầng
lớp trong xã hội. Cả Khổng Tử và Tuân Tử cùng quan điểm cho rằng bản tích con
người có thể giáo hóa được, dù một bên cho rằng xuất phát bản tính con người là thiện
còn 1 bên cho rằng xuất phát bản tính con người là ác.
Từ thời xa xưa, Khổng tử đã coi trọng khái niệm người “quân tử” và phân biệt với
kẻ “tiểu nhân”. Theo đó, 5 đức hạnh “nhân lễ nghĩa trí tín” được gắn cho người quân
tử. Đây còn được gọi là ngũ thường. Khổng tử cũng chia con người làm 3 hạng: thánh
nhân – bậc hiền giả hay hiền triết, quân tử - người cao nhã và tiểu nhân – kẻ hèn mọn.
Do đó, người cầm quyền cần hiểu mẫu người quân tử của Khổng tử, là người lý tưởng
về phẩm chất đạo đức XH và hiểu được thời mệnh, kính trên nhường dưới và sống
thân ái, hòa đồng với mọi người.
Ngày nay trong xã hội đương đại, nho giáo tạo được cơ chế tuyển dụng chọn lọc
người tài thông qua thi tuyển và xét tuyển. Các cá nhân nếu học giỏi và đỗ đạt, có thể
có việc làm tốt giúp nước bất kể xuất thân sang hèn. Nho giáo coi trọng giáo dục đạo
làm người. Chính nhờ nho giáo, lực lượng tri thức ngày nay được tạo ra kế thừa và
phát huy các giá trị tốt đẹp của xã hội tiến bộ.
3.3. Những mặt hạn chế tư tưởng đức trị của nho gia
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, đức trị của Nho giáo cũng có một số tác động tiêu

cực, cụ thể là:
HV: Lê Thị Hải Xuân

20


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và các
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm pháp luật. Coi
trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức mà quên pháp luật là
sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức
“thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo
cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí
cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc,
gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ
thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà
không dám đấu tranh với những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức
Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban
ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa
quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc
chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết
đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ là
cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp trẻ, trọng
nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của không ít người.

Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng:
Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia trưởng, đứng đầu dòng họ là
trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ
dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia đình lớn – quốc gia, nước). Vì vậy,
mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục tùng bề trên đã
tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở tổ chức nhà nước.
Trong gia đình là quyền quyết định của người cha, người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất
HV: Lê Thị Hải Xuân

21


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay,
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con
người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều
người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”, “anh em”
khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể
bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội thông qua lăng kính gia
đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng
trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ nữ,

ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa hành mà không
được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh vì quyền bình đẳng giới.
Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến,
địa vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn
nữa, khi có chức, không những bản thân được vinh hoa phú quý mà “một người làm quan
cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh, để thăng quan, tiến chức đã trở
thành lẽ sống của một số người. Thạm chí việc học tập theo họ cũng là “học để làm quan”.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng nhắc đã tạo
nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Những tàn dư
tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và xã hội
mới ở nước ta hiện nay.
3.4. Tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đối với giá trị đạo đức ngày
nay.
Nền kinh tế của Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ nhanh, đời sống của nhân
dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công về mặt kinh tế,
công cuộc đổi mới đang đặt ra cho Việt Nam nhiều vấn đề xã hội đáng quan tâm, trong
HV: Lê Thị Hải Xuân

22


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

đó có vấn đề sự xuống cấp của đạo đức. Điều đó có liên quan đến mặt trái của cơ chế thi
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

trường, đến sự tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tới các lĩnh vực của đời sống xã
hội.

Trước tình hình đó, một số người cho rằng, sự xuống cấp về đạo đức xã hội bắt
nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân , rằng lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội là hai
yếu tố hoàn toàn không dung hợp với nhau.
Kể từ khi Việt Nam áp dụng cơ chế thị trường, những thay đổi to lớn trong các quan
hệ kinh tế đã tác động mạnh mẽ tới các lợi ích của con người. Bơi lẽ lợi ích của con
người được biểu hiện tập trung ở các quan hệ kinh tế. Sự thay đổi của quan hệ kinh tế
được thể hiển trên các lĩnh vực: sở hữu, phân phối và quản lý. Trong lĩnh vực sơ hữu với
đường lối đổi mới, từ chỗ chỉ có hai hình thức toàn dân và tập thể, Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu trên cơ sở chế độ. công hữu về các tư
liêu sản xuất chủ yếu, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Sự thay đổi trong lĩnh vực phân phối được thể hiện ở chỗ, nếu như trước đây, Việt
Nam chủ yếu chỉ sử đụng hình thức phân phối theo lao động thì hiện nay, các hình thức
phân phối ngày càng trở nên đa dạng hơn. Chính sự đa dang của các hình thức phân phối
đã góp phần thực hiện công bằng xã hội - một mục tiêu quan trọng của sự phát triển đất
nước theo định hướng xã hối chủ nghĩa, đồng thời huy động được vốn đầu tư để phát
triển sản xuất.
Trong lĩnh vực quản lý, cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hoá, tập trung
quan liêu bao cấp. Chính cơ chế đó đã cho phép các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp có
được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến con người kinh tế và khi tiến hành hoạt động
kinh tế, con người chịu sự chi phối của lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân đã có vai trò đáng
kể trong việc thúc đẩy con người hành động. Nhờ việc theo đuổi các lợi ích cá nhân khác
nhau mà hoạt động của con người không những tạo ra những sản phẩm thoả mãn các nhu
HV: Lê Thị Hải Xuân

23


GVHD: TS Phạm Lê Quang


Tiểu luận triết học

cầu cá nhân của mình, góp phần làm giàu cho bản thân, mà còn góp phần xoá đói, giảm
nghèo, làm giàu cho xã hội.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

Việt Nam mới chuyển sang kinh tế thị trường 15 năm, đồng tiền bắt đầu thâm nhập
sâu vào các quan hệ xã hội. Vì tiền, vì lợi ích cá nhân, người ta sẵn sàng hy sinh lợi ích
xã hội, bất chấp luân thường đạo lý. Tình trạng thương mại hoá đã thâm nhập sâu vào
những lĩnh vực vốn xưa kia là mảnh đất nuôi dưỡng những hành vi đạo đức, như giáo
dục - đào tạo và y tế .
Kinh tế thị trường, thông qua lợi ích cá nhân, đã có tác động tiêu cực tới đạo đức
truyền thông. Những biểu hiện của sự tác động tiêu cực đó là:
Thứ nhất, xuất hiện thái độ coi thường đạo đức truyền thống, bất chấp luân thường
đạo lý, chạy theo lối sống xa hoa, trụy lạc.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường là quá trình toàn cầu hóa, quá trình này
đang đưa lối sống phương Tây vào nước ta. Tuy nhiên, việc tiếp cận lối sống ấy một cách
thiếu định hướng đã dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các
công nghệ thông tin hiện đại đang truyền bá khắp thế giới lối sống sùng bái vật chất, cá
nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa
dùng bạo lực... Lối sống đó đang phần nào tác động đến một bộ phận nhân dân, đặc biệt
là tầng lớp thanh thiếu niên sống ở các khu đô thị lớn. Do bị kích động bởi việc tiếp xúc
với những thước phim hành động có tính bạo lực qua mạng Internet mà nhiều thanh,
thiếu niên đã có những hành động mang tính bạo lực, hung hãn, gây nên những hậu quả
đau lòng. Cùng với tâm lý sùng hàng ngoại, lối sống tự do kiểu phương Tây cũng đang
xâm nhập khá mạnh vào đời sống người Việt Nam, đặc biệt là trong thanh niên và cả một
bộ phận trong tầng lớp trí thức. Một số nam nữ thanh niên ở các thành phố lớn muốn có
tự do cá nhân cao, không muốn lập gia đình sớm hoặc chủ trương sống độc thân suốt đời,
nhưng lại có quan niệm khá thoải mái trong quan hệ nam nữ, làm băng họai những

nguyên tắc luân lý sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ với truyền thống phương Đông và dân
HV: Lê Thị Hải Xuân

24


GVHD: TS Phạm Lê Quang

Tiểu luận triết học

tộc. Đó chính là biểu hiện của sự xuống cấp về lối sống của một bộ phận thanh niên Việt
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ

Nam, là biểu hiện của quan niệm "lệch chuẩn", đối lập với quan niệm đạo đức truyền
thống tốt đẹp của người Việt Nam.
Như vậy, có thể nói, toàn cầu hóa đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới lối sống và
những giá trị đạo đức của người Việt Nam. Những sản phẩm văn hóa độc hại từ nước
ngoài đưa vào nước ta đã tác động tiêu cực tới đời sống tinh thần, văn hóa của một bộ
phận nhân dân. ảnh hưởng của lối sống thực dụng đã làm xuất hiện tâm lý “chạy theo
đồng tiền", coi “tiền là trên hết", không cần biết đến đạo lý phải trái, đánh mất nhân cách
và nhân tính. Không ít trường hợp vì tiền và danh lợi mà chà đạp lên tình đồng chí, đồng
nghiệp, bạn bè, tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò. Tình trạng chạy chức, chạy quyền,
chạy tội, chạy án đã trở nên khá phổ biến. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã chỉ rõ: "Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy
theo lối sống thực đụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân
tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình,
quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp".
Lối sống thực dụng, vị kỷ đang dẫn đến thái độ bàng quan, thờ ơ với công việc của
cộng đồng và với những người xung quanh. Điều đó làm cho mối dây liên kết giữa cá
nhân và cộng đồng, giữa người và người trở nên "lỏng lẻo". Đây thực sự là nguy cơ của

việc đẩy xa nhau giữa con người với con người, đi ngược lại với truyền thống "tương
thân, tương ái" của dân tộc.
Do đời sống kinh tế còn khó khăn, cộng với sự tác động của kinh tế thị trường,
nhiều lĩnh vực xã hội đã xuất hiện khuynh hướng "thương mại hóa". Ví như giáo dục,
vốn trước đây thuộc lĩnh vực bao cấp của Nhà nước, đang có khuynh hướng " thương
mại hóa" với những biểu hiện như dạy thêm, học thêm tràn lan, mua bằng, bán điểm, "đổi
tình lấy điểm", lạm thu, mở tràn lan các lớp đào tạo tại chức, liên kết đào tạo với nước
ngoài... nhằm mục đích thu lợi, không đảm bảo chất lượng giáo dục. Điều này góp phần
HV: Lê Thị Hải Xuân

25


×