Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Hướng dẫn giải đáp câu hỏi thảo luận Lớp nhận thức Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.28 KB, 62 trang )

1. Phân tích và nêu rõ những đặc điểm (thuận lợi, khó khăn) của sự quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Trả lời:
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền bắc
và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã
hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hòan thành thắng lợi, đất nước đã hòa bình thống nhất quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây
dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách
quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế- xã hội: công xã nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các hình thái kinh tếxã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế- xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình
thái kinh tế- xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế- xã hội nói trên đều tuân
theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng
sản
xuất.
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ và
thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ sản xuất để thích
nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt
là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này không những không
dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất và xã hội hóa lao động làm cho các tiền đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín
muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của
thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân
chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là


giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “ làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no, và
sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lôgíc
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt
để.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên chủ nghĩa
xã hội, nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia ; do điều kiện xuất phát riêng
của mỗi quốc gia quy định. Trước đây, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ với “đặc
điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Khi cả nước thống nhất cùng tiến lên
chủ nghĩa xã hội, đặc điểm trên vẫn còn tồn tại. Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế, chính trị


của đất nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước
trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân
phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội
và nền độc lập của nhân dân ta”.
Như vậy, đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa? Gỉai quyết vấn
đề này có ý nghĩa lớn cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” theo
kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, bỏ qua cả
những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Vì
vậy, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nói rõ bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực

lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá
trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí,
coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế “phi
chủ nghĩa xã hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa,... Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách
quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả
năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thúc, bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường
“rút ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở chủ nghĩa tư bản
không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc
thượng tầng, như Lênin đã nói về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga với kỹ thuật hiện đại trong
các tơrớt của Mỹ và nghệ thuật quản lý trong ngành đường sắt ở Đức.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình thức
quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò tác dụng của hình thức kinh tế quá độ được Lênin
phân tích sâu sắc trong lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực hiện các hình thức kinh
tế quá độ, các khâu trung gian... vừa có tác dụng phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất,
vừa cần thiết để chuyển từ các quan hệ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó là hình thúc vận
dụng các quy luật kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất
yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường rút ngắn
để xây dựng đất nước văn minh, hiện đại. Nhưng khả năng tiền đề để thực hiện con đường
đó như thế nào? Phân tích tình hình đất nước và thời đại cho thấy mặc dù kinh tế còn lạc


hậu, nước ta vẫn có khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Về khả năng khách quan.

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn
cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó
mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu
vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ đó ta có thể thực
hiện “ con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài
người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình,
ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa
chọn con đường phát triển tiến bộ của mình.
Về những tiền đề chủ quan
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và thông minh,
trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có hàng chục ngàn người ...
là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến
của thế giới. Nước ta có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ sở vật
chất - kĩ thuật đã được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Những tiền đề vật chất trên tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu
hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước
phát
triển.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển lịch sử mà còn
phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh
không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Những yêu cầu ấy chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được.
Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất để vượt qua khó khăn, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn và gắn bó với nhân dân,
có Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh
và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm
thắng lợi côngcuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam :
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để,
toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, những nhiệm vụ cơ bản là :
a- Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kì quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội:
Cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin, là nền sản xuất đại cơ khí ở
trình độ hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả trong nông nghiệp.
Ngày nay, cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện được những thành tựu
tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh


học. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao mới tạo ra được năng suất lao
động cao trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục tiêu và tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội mới được thực hiện ngày càng tốt hơn trên thực tế.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa có
tiền đề về cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó
phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng trở thành
nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kì quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phát triển nguồn lực con người - lực lượng
sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế, tạo đội ngũ lao động có
khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản lí có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ
hiện đại. Vì vậy, phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt
Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là “ quốc sách hàng đầu” trong chiến lược phát triển đất
nước.
b- Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng xã hội chủ nghiã:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ xã hội mới có nền kinh tế phát triển dựa

trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế
độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghiã; nó
là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hoá cao, các lực lượng sản xuất
hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản.
Vì vậy, không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa. Nó chỉ được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài,
qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao.
Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải
đảm bảo các yêu cầu sau đây :
Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển
lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả
tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”.
Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản
lí và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng
bộ cả ba mặt đó.
Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành
nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan
xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời
phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
c- Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế ;


Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu
đối với các quốc gia. Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực mở rộng và
ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những thách

thức và nguy cơ cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nước ta những cơ hội,
thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo con đường “ rút ngắn”.
Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhập được các loại công nghệ hiện đại và những
kinh nghiệm quản lí tiên tiến ... nhờ đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy
mạnh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách lạc hậu so với các nước khác. Đó là sự
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh
tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu, đa dạng hoá
quan hệ kinh tế với các tổ chức và các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, phải
xử lí đúng mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh kinh
tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc với kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại ..
2. Phân tích những đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân
dân ta xây dựng.
Trả lời:
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991) của Đảng, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với
sáu đặc trưng.
Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình chủ nghĩa
xã hội Việt Nam toàn diện hơn, gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và
phát triển 2011) Đảng ta tiếp tục xác định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát
triển những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội trong hai Văn kiện nêu trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả
của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện
nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung
và cái riêng để tạo nên một mô hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam .
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện

tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh .
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được
biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa


xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được
hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc
hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn
minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể
nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất
ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm
của chủ nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị
trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là
chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong
nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền
với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi
quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội
chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất
nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc

sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu
ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn
vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của
lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải
quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện
khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn
kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp
thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn
hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa
dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc

thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm
cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể
hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn
được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện
con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con
người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người
xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của
con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác
định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay
là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người,
chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và
Nhà nước ta.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các
quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc
Việt
Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong giải
quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn
kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu
chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.

- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.


Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó
chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm
quyền dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân
dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn
quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta.
Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu trên vừa thể hiện tính toàn diện

và sự thống nhất của các đặc trưng đó trong một chỉnh thể, phản ánh được bản chất của chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Những đặc trưng ấy trả lời câu hỏi xã hội xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là gì? Tính phổ biến và tính đặc thù của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam thể hiện như thế nào?
Có thể nói, tính toàn diện và tính thống nhất của các đặc trưng thể hiện ở chỗ các đặc
trưng này phản ánh toàn diện các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quan hệ đối
ngoại, và sự thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị, kinh tế, chính trị và xã hội, đối
nội và đối ngoại.
Còn về bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì? Chúng ta có thể tìm
thấy trong các đặc trưng về chế độ chính trị và nhà nước.
Trước hết phải kể đến bản chất của chế độ chính trị mà cốt lõi của chế độ chính trị là
Nhà nước. Ở nước ta, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà (nay là cộng hoà xã hội chủ nghĩa) ra đời xác lập địa vị mới của nhân dân, từ nô lệ
làm thuê thành người làm chủ; đồng thời xác lập địa vị mới của Đảng ta, Đảng cầm quyền.
Vì thế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ phận nòng cốt của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa do Đảng lãnh đạo.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản cầm
quyền. Với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo là điều kiện
tiên quyết để nhân dân làm chủ, nhà nước đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì


nhân dân. Đảng Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân làm chủ
thể hiện bản chất chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Hai là, bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế là chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) đã kế thừa đặc trưng thứ hai
của Cương lĩnh 1991 "Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu". Chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu thể hiện bản chất của chế độ kinh tế xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ có
chế độ công hữu tư liệu sản xuất với lực lượng kinh tế thuộc về xã hội, về nhân dân mà Nhà

nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện mới thực hiện được các mục tiêu chính trị, xã hội,
văn hoá ngày càng sâu rộng của chủ nghĩa xã hội. Nó khác bản chất nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với mục đích là lợi nhuận tối đa và phương
thức là bóc lột giá trị thặng dư đối với giai cấp công nhân, cạnh tranh khốc liệt kiểu cá lớn
nuốt cá bé, kể cả gây các cuộc chiến tranh xâm lược, chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém.
Cũng cần nói thêm rằng: 1- Khi nói, chúng ta không được chủ quan duy ý chí mà
phải tuân theo quy luật khách quan "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất" không có nghĩa là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tự phát hình thành và
phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất kể cả khi giai cấp công nhân có
chính quyền. Cần khắc phục khuynh hướng sùng bái tính tự phát trên vấn đề này. 2- Quan
hệ sản xuất mới ra đời như những "mầm non" còn rất yếu lại đặt trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản vẫn còn sức mạnh trên nhiều lĩnh vực kinh tế, quân sự, kinh nghiệm quản lý thì
chúng ta không thể đòi hỏi có đầy đủ hoàn toàn tính ưu việt của quan hệ sản xuất mới. Đặc
biệt khi mà chủ nghĩa xã hội chưa thoát khỏi thời kỳ thoái trào, các thế lực thù địch ra sức
tiến công vào chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá...
Trong đó, kinh tế là một đối tượng mà các thế lực thù địch tiến công nhằm xoá bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước với kinh tế, xoá bỏ chế độ công hữu tư
liệu sản xuất chủ yếu của chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Bản chất, mục tiêu xã hội của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện trong Dự thảo
Cương lĩnh là đặc trưng phản ánh bản chất xã hội của chủ nghĩa xã hội đồng thời thể hiện
mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội Việt Nam từng bước hướng tới và đạt chín muồi khi kết thúc
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Như Dự thảo Cương lĩnh ghi: "Mục tiêu tổng quát khi
kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa
xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở làm cho
nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh. Từ nay đến khoảng giữa
thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa thể hiện tính toàn diện, tính thống nhất
trong chỉnh thể, phản ánh bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa được coi như mô hình tổng
thể về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta định hướng xây dựng. Tuy vậy, với những đặc trưng

hay cách sắp xếp thứ tự các đặc trưng như thế nào cho thật khoa học, phù hợp thực tiễn vẫn
cần được thảo luận bổ sung. Thí dụ: 1- Đặc trưng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh có cần bổ sung thêm mục tiêu nào không?; 2- Cách sắp xếp theo trình tự đặc trưng


thể hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh đến đặc trưng chính
trị: nhân dân làm chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân... do Đảng lãnh đạo theo trình tự nào cho hợp lô-gích hơn; 3- Vẫn những nội
dung trên nhưng để sáu hay để tám đặc trưng, cách nào chặt chẽ hơn.
Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011) đang được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đóng góp ý kiến xây
dựng, chắc chắn Đảng ta sẽ thu được nhiều ý kiến đóng góp có giá trị bổ sung phát triển,
hoàn thiện. Và khi Đại hội XI của Đảng thông qua, Cương lĩnh đó trở thành ngọn cờ chiến
đấu, đoàn kết toàn Đảng, toàn dân tiến lên xây dựng nước Việt Nam XHCN ngày càng vững
mạnh, phồn vinh.
3. Nêu rõ những phương hướng cơ bản đi lên chủ nghĩa xã hội và những mối
quan hệ cần nắm vững, xử lý tốt để đạt được mục tiêu đề ra.
Trả lời:
Việc xác định đúng đắn, chính xác con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
một trong những vấn đề rất hệ trọng của Đảng và nhân dân ta.
Trên cơ sở vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thực tiễn thành công và
thất bại của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và nhất là từ thực tiễn những năm đầu tiến hành
đổi mới, tiếp thu chọn lọc tinh hoa nhân loại, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt
là Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh đã tổng kết hơn 60 năm quá trình cách mạng Việt
Nam, rút ra 5 bài học lớn, phân tích bối cảnh quốc tế trong nước; phác hoạ ra mô hình xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đồng thời đã phác hoạ ra con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Qua tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát

triển năm 2011). Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Để thực hiện các mục tiêu trên
(mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI)
toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực
hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Cương lĩnh năm 1991 xác định: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá theo
hướng hiện đại. Còn Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh
năm 1991 đã xác định mô hình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Qua


các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã chuyển từ “phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước”, sang “phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội
XI khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong bảy phương hướng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập đến xây
dựng con người. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu
sắc hơn về nhân tố con người; phát triển con người giữ vị trí trung tâm của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đảng ta cũng nhận
thức rõ hơn về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khẳng định: Kết hợp các mục tiêu
kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, ở từng địa phương;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Về phương hướng trên, ở Cương lĩnh năm 1991 không xác định thành một phương
hướng cơ bản riêng. Việc bổ sung, phát triển phương hướng “chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế” là đúng với thực trạng hội nhập của nước ta hiện nay và là phương hướng cơ bản,
lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước; khẳng định
đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Cương lĩnh năm 1991 mới xác định xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khoá VII. Các đại hội VIII, IX và X đều nhấn mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
xác định: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân” là một trong tám phương hướng cơ bản là đúng đắn, phù hợp cả về lý luận và
thực tiễn.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Cương lĩnh năm 1991 xác định “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Đại hội X đã viết gọn lại là “xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh”.



Khái quát lại, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những bổ sung, phát triển này đã được thực tiễn
kiểm nghiệm là đúng đắn, chính xác.
4.Trình bày hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng./.
Trả lời
1. Hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị chúng ta nói ở đây, được sử dụng thay cách trình bày trước là hệ
thống chuyên chính vô sản. Về bản chất, không có gì khác biệt, cùng mục đích Đảng lãnh
đạo để nhân dân làm chủ, nhưng cách hiểu được đổi mới, mở rộng. Hệ thống chính trị đó
bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống
chính trị này, vai trò của Đảng và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Là nhân tố hợp thành hệ thống chính trị,
nhưng hệ thống chính trị là sản phẩm, một trong những thành quả to lớn nhất dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Hệ thống chính trị Việt Nam hình thành từ khi có Đảng
Suốt mấy nghìn năm trước đây, những trí tuệ ưu tú nhất của loài người đều cố gắng
tìm kiếm con đường để các dân tộc được sống trong hòa bình, hữu nghị, thoát khỏi cảnh
thống khổ lầm than, mâu thuẫn, chống đối lẫn nhau. Nhưng hầu như tất cả không tìm thấy
hướng đi đúng và lực lượng thật sự để thực hiện ước mơ của mình. Chỉ đến thế kỷ XIX, các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học mới là người mở đầu một con đường thật sự
giải phóng những người lao động khỏi bất công, ngang trái. Bằng việc đưa ra quan điểm
duy vật về lịch sử và phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư, C.Mác đã tìm được lực lượng và
vũ khí để giải phóng người lao động, và cũng từ đó, chủ nghĩa cộng sản mới trở thành một
trong những khoa học giải phóng loài người. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đi từ giải phóng các
tầng lớp lao động mà thấy sự cần thiết phải giải phóng dân tộc, bởi vì các ông quan niệm
“xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ.
Khi mà sự đối kháng giữa giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa, thì đồng thời quan
hệ thù địch giữa các dân tộc cũng mất theo” (1). Chính vì thế, trong Tuyên ngôn của Đảng

Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải tự mình xây dựng thành giai cấp dân tộc”.
Vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác về giải phóng giai cấp vô sản vào nước
Nga, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lê-nin thấy rõ hơn
mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản và
cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. V.I.Lê-nin đề ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả
các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Và, với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga,
mở đầu cho việc thủ tiêu chế độ người bóc lột người, thủ tiêu nạn áp bức dân tộc, và bằng
chính sách dân tộc đúng đắn, V.I.Lê-nin đã đưa nước Nga từ “nhà tù đối với các dân tộc”
thành “Tổ quốc của nhiều dân tộc”.
Ở Việt Nam, từ thiên tài trí tuệ của mình, vượt lên những tầm nhìn hạn chế của các
nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin,
tìm thấy ở học thuyết này con đường cứu dân, cứu nước. Bác khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa


cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì
mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc” (2). Người nói: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu
nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III.
Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng
chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Chính lòng yêu nước thiết tha và thương
dân sâu sắc, muốn giải phóng dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa cộng
sản, đem khát vọng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa cộng sản. Từ nhận thức tầm quan
trọng của lý luận cách mạng, tìm được con đường cứu dân, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh bắt tay xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng các tổ chức cách mạng. Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên, Công hội Đỏ, các tổ chức đảng lần lượt ra đời. Đến ngày 3-21930, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức được thành lập. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ
khi nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Đảng ta ra đời là sản phẩm của sự kết hợp phong
trào yêu nước, phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, là bước nhảy vọt của

phong trào yêu nước, đồng thời cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở
một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ, chưa qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Đảng ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong phong trào cách mạng và đời sống
chính trị của nhân dân ta. Giai cấp công nhân Việt Nam từ đó thông qua đảng tiên phong
của mình, đứng ra gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội khỏi mọi áp bức, bất công. Dưới ngọn cờ của Đảng, dân tộc Việt Nam vốn
giàu lòng yêu nước, chí tự cường và bấy lâu khao khát độc lập, tự do đã gặp tư tưởng cách
mạng triệt để là chủ nghĩa Mác- Lê-nin, một trong những trí tuệ cao nhất của loài người.
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Bác Hồ khởi thảo chỉ
ra đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng, cách thức tổ chức lực lượng cách mạng ở Việt
Nam. Với đường lối, chủ trương, chính sách của các văn kiện ấy, Đảng ta đã thổi bùng ngọn
lửa của phong trào cách mạng Việt Nam. Trải qua 15 năm đấu tranh đầy máu lửa, đầy hy
sinh, những người cộng sản Việt Nam, những người yêu nước tự nguyện đi dưới ngọn cờ
của Đảng, chứ không phải ai hết, là người trực tiếp đương đầu với lưỡi lê, máy chém, nhà tù
của đế quốc, mà thể hiện lòng trung thành, xả thân cho sự nghiệp của toàn dân tộc. Bằng sự
lãnh đạo của Đảng, bằng sự tập hợp lực lượng của các tổ chức quần chúng, cách mạng nước
ta đã trải qua ba cao trào: Cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), cao trào Dân chủ
(1936-1939), cao trào cứu nước (1939-1945). Ngày 19-8-1945, cả dân tộc ta đã vùng dậy
giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xóa bỏ chính quyền nhà nước của thực dân và phong kiến,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của
nước ta. Nhà nước Việt Nam là nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của dân, do dân, vì dân.
Chính vì vậy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thành công rực rỡ của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc vô cùng anh dũng suốt gần một trăm năm của nhân dân ta. Đó là thắng
lợi của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn do Đảng ta vạch ra và lãnh đạo nhân
dân cả nước ta thực hiện.


Nếu không có hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân
dân ta đã bắt tay vào xây dựng đất nước phồn vinh từ sau ngày 2-9-1945, khai sinh nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng, các thế lực đế quốc không từ bỏ dã tâm xâm lược
nước ta. Chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử với hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, nhân dân ta, cả
dân tộc ta đã phải trải qua 30 năm chiến tranh ròng rã, chịu đựng những hy sinh mất mát vô
cùng to lớn, mới bảo vệ được nền độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ mới và sự thống nhất đất
nước để đưa cả nước thống nhất đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, con đường đem đến
hạnh phúc, ấm no cho toàn dân tộc. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới toàn diện
đất nước, do Đảng ta lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Nhìn lại những bước đường phấn đấu đầy gian khổ hy sinh đã qua và những thắng
lợi, thành tựu vẻ vang đã giành được của toàn dân ta, chúng ta có thể tự hào về vai trò lịch
sử của Đảng ta, người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sức
mạnh vô địch của Đảng chính là ở chỗ Đảng ta tuyệt đối trung thành với lợi ích tối cao của
nhân dân, đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phát
huy được sức mạnh lòng yêu nước của toàn dân tộc.
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị:
Trước đây, trong cuốn Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã từng đặt câu hỏi: “Phải
chăng như vậy có nghĩa là, sau khi xã hội cũ sụp đổ sẽ có một sự thống trị giai cấp mới,
biểu hiện tập trung ở một chính quyền mới?”. Và chính C.Mác đã giải thích: “Không phải.
Điều kiện giải phóng của giai cấp lao động, đó là xóa bỏ mọi giai cấp”. Mục đích của những
người cộng sản, của Đảng Cộng sản giành chính quyền không phải giành quyền thống trị
cho riêng mình. Những lời vu khống, áp đặt của một số người cho rằng Đảng Cộng sản “độc
tôn”, “độc quyền” là hoàn toàn không đúng. Mục đích cách mạng của Đảng Cộng sản, của
những người cộng sản giành chính quyền là để giải phóng toàn xã hội, là để đưa người lao
động, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ. Khi giành được chính quyền, xây dựng nhà nước
kiểu mới, nhân dân muốn làm chủ phải có sự lãnh đạo của Đảng, được thực hiện chủ yếu
bằng nhà nước, bằng các tổ chức quần chúng, thông qua đại diện của mình và trực tiếp của
chính mình. Để xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới của mình, nhân dân cần có một hệ thống
chính trị vững mạnh. Đó không phải là đảng trị, đảng đứng trên dân tộc. Đảng lãnh đạo để
dân làm chủ là mục đích tối cao, mục đích cuối cùng của Đảng. Ngoài lợi ích của nhân dân,
Đảng không có lợi ích nào khác. Để thực hiện mục đích ấy, khi chưa có chính quyền, Đảng
lãnh đạo thành lập các tổ chức quần chúng, tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận

đại đoàn kết toàn dân tộc để giành chính quyền. Khi có chính quyền, trở thành đảng cầm
quyền, cùng với các tổ chức quần chúng, Đảng sử dụng chính quyền chăm lo cho lợi ích cho
nhân dân, cho lợi ích toàn xã hội.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ
sung năm 2001 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo
nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Điều 4 này trong Hiến pháp, hiện nay đang là mục tiêu chống phá, muốn triệt tiêu
của một số người không thiện chí, thậm chí có những mưu đồ. Tại sao họ tự cho mình là trí


tuệ mà không thừa nhận một thực tế đã được chứng minh? Đây không phải là một sự đòi hỏi
hay áp đặt của Đảng, mà chính là sự thừa nhận của đại đa số nhân dân Việt Nam.
Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội IX của Đảng được mở rộng hơn
về khái niệm, chính xác hơn. Đảng không chỉ là “đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam”, mà hơn thế nữa, Đảng “đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam”. Đó không phải là ý muốn chủ quan của một ai, càng không phải là sự áp
đặt, mà là thực tiễn chứng minh, nhân dân thừa nhận. Bởi vì Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện, luôn luôn trung thành với mục tiêu lý tưởng, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc, lấy chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành
động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm
vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra đường lối
cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Chánh cương vắn tắt, Cương
lĩnh năm 1930 và Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã soi sáng cho quá trình cách mạng Việt
Nam và bước đường tiến lên của dân tộc ta.
Thực tiễn gần 80 năm qua, bằng cả hệ thống chính trị, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta
không quản hy sinh, không nề gian khổ, trải qua biết bao gian nan thử thách đã đưa cách

mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vàng chói lọi
của dân tộc. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, nhất là trước các bước ngoặt lịch sử, Đảng ta
luôn luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và sáng tạo, nêu cao tính độc
lập tự chủ, trước hết ở việc xác định và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối cách mạng
đúng đắn và có hiệu quả.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Sự nghiệp lãnh đạo của Đảng suốt gần 80 năm, đặc biệt từ khi Đảng cầm quyền và
gần đây qua hơn hai mươi năm đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng giao lưu, hội nhập, đã
tạo ra sự đổi thay cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị của dân tộc Việt Nam:
Cách mạng Tháng Tám đưa nhân dân ta từ thân phận người mất nước, sống lầm than
trong đêm dài nô lệ thành người làm chủ sáng tạo ra những trang sử mới; đưa dân tộc ta vào
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh cách mạng suốt 30 năm đã chấm dứt ách thống trị
của chủ nghĩa đế quốc hơn một thế kỷ trên đất nước ta, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc,
thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của 10 năm sau chiến tranh, trong thế bị bao vây cấm vận, thù trong giặc
ngoài, nhân dân ta đã giữ vững được độc lập, xây dựng được những cơ sở ban đầu của chủ
nghĩa xã hội ở cả nước.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua, tạo thế và lực mới cho
đất nước ta chủ động và tích cực đi vào xu thế chung giao lưu, hội nhập quốc tế.
Những đổi thay, những chiến công và những kỳ tích đó khẳng định vị thế của Đảng
ta trong lòng dân tộc. Thành tựu của cách mạng Việt Nam không chỉ thể hiện vai trò lãnh
đạo, vai trò cầm quyền của Đảng mà còn khẳng định sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính
trị của đất nước ta. Lịch sử cách mạng Việt Nam gần 80 năm qua khẳng định không thể tách
rời sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Không có hệ thống chính trị nào mà
không có sự lãnh đạo, không có một chính đảng, một lực lượng chính trị chi phối. Hiện nay,


trên thế giới có hơn ba mươi đảng duy nhất cầm quyền, chi phối, dẫn dắt hệ thống chính trị
của từng nước.

“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991
ghi rõ: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là
nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân”. Thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước
ta hiện nay là nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Hệ thống
chính trị của nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ. Nhân dân làm chủ chủ yếu bằng Nhà nước và
thông qua các tổ chức chính trị-xã hội, vừa làm chủ qua đại diện, vừa làm chủ trực tiếp. Nhà
nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của
Đảng và quản lý đất nước. Bằng công tác quản lý và điều hành xã hội thông qua Hiến pháp,
pháp luật, các chủ trương, chính sách, Nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Đảng vừa là bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống ấy,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Mặt trận Tổ quốc, có vai trò đặc biệt trong
cách mạng dân tộc dân chủ, khi Đảng chưa giành được chính quyền, càng giữ vai trò quan
trọng khi Đảng cầm quyền. Đó là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân
tiêu biểu của các giai cấp và các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ; có vai trò
quan trọng trong việc thực hiện giám sát, phản biện xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong cách mạng XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất
quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân; động viên toàn dân tộc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng cơ chế vận
hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả các quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước phải tiếp tục đổi mới tổ chức

hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành
chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
các cấp.
Để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vấn đề có tính chất quyết định là
phải tiếp tục thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp và tính tiên phong của
Đảng; xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có
đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa
sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.


Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vấn đề cấp bách hiện nay
là phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng; kiện toàn và đổi mới hoạt
động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân
dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Nhằm mục đích nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, vấn
đề cực kỳ quan trọng là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.
Để giữ vững vai trò cầm quyền, trước hết Đảng phải hoạch định được đường lối cách
mạng đúng đắn, bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây
dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân thật sự được hưởng hạnh phúc, tự do. Đảng phải xây
dựng được một Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của dân, do dân, vì dân. Phải thật sự
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để
Đảng luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ, Đảng sống mãi trong lòng dân tộc.
5. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở những điểm chủ yếu nào
trong Điều lệ Đảng?
Trả lời:

Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển của nên công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các
quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực
lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí
tuệ ngày càng cao, đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được
ứng dụng ngay trong sản xuất). Vì thế, giai cấp công nhân có vai trò quyết định nhất sự tồn
tại và phát triển xã hội.
Vậy ở trong Điều lệ Đảng bản chất của giai cấp công nhân của Đảng được thể
hiện ở những điểm chủ yếu:
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân
của mình.
Trong "Chương trình tóm tắt" được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng khẳng
định: "Đảng là đội tiên phong lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn giai cấp công
nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng".
Sách lược vắn tắt viết: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng".
Đại hội X đã thông qua sự diễn đạt về Đảng là: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc".


Sự diễn đạt như trên thể hiện ở 2 nội dung sau:
+ Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời là đội
tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
+ Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam.

- Xuất phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của
CNXHKH. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống
hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái
niệm giai cấp công nhân.
+ Khái niệm giai cấp công nhân (theo Nghị quyết TW 6 khoá X).
- Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển,
bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại
hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có
tính chất công nghiệp.
+ Là 1 lực lượng to lớn, quan trọng trong xã hội, chưa định hình rõ nét, còn có
sự biến đổi, phát triển.
+ Thành phần: bao gồm những người lao động chân tay và trí óc.
+ Đặc điểm: làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và
dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
(Tính đến đầu năm 2007, tổng số công nhân nước ta khoảng 9,5 triệu người, chiếm tỷ
lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội, trong đó số lượng công nhân làm việc
trong các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khoảng 6,75 triệu người).
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
+ Trước hết phải lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính
quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân.
+ Trong giai đoạn cách mạng XHCN, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo
nhân dân lao động xây dựng thành công CNXH, không có người bóc lột người, giải phóng
nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
=> Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện
sự nghiệp vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng con người và nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội

cộng sản chủ nghĩa văn minh.
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ
ý nghĩa, nội dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam
trong giai đoạn mới là: Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công
bằng,
dân
chủ,
văn
minh".
- ở nước ta, giai cấp công nhân tuy số lượng còn ít, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam và
chính Đảng của mình luôn đứng trên lập trường cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy


Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa giai cấp và dân tộc... Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam qua các thời kỳ đều bắt nguồn từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật
thiết giữa giai cấp và dân tộc.
+ Trong điều kiện của nước ta, quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc là thống nhất.
+ Sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với giai cấp và dân tộc đã được thể hiện ngay
từ nguồn gốc ra đời của Đảng ta. Đảng ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân mà còn với phong trào yêu nước.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng: Đảng ta không chỉ là Đảng của giai
cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
- Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng (tháng 2
- 1951), Bác chỉ rõ: "Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết,
trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam... Chính

vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên
nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam".(Trích Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng
toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 37 - 38).
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội tiên
phong lãnh đạo nhân dân. Về vấn đề lợi ích, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài mục
đích phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc. Cụ thể:
+ Trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của
giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc.
+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta nêu khẩu hiệu: "Độc lập dân tộc"
và "Người cày có ruộng".
+ Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đề ra mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình
mới, nhiệm vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử của nước ta đề ra đường lối, chủ
trương và các chính sách đúng đắn; đồng thời bằng hành động cách mạng biến đường lối,
chủ trương đó thành hiện thực sinh động trên mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh,
giáo điều, bảo thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch phủ nhận,
xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lên nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Luôn luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá, tri
thức của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề lý luận và thực
tiễn của cách mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế giới.


+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng.

+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của
giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công
nhân.
+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên
sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Có lợi ích giai cấp đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp công
nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội.
Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công
nhân có tinh thần cách mạng triệt để.
Bất kỳ giai cấp công nhân nước nào, khi đã có đảng tiên phong của nó, đều có
những đặc điểm cơ bản, chung nhất đó. Do vậy, giai cấp công nhân mỗi nước đều là một bộ
phận không thể tách rời giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Vì vậy chủ nghĩa Mác-Lênin
mới có quan điểm đúng đắn về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới cùa giai cấp công nhân.
Có ý kiến đã cho rằng : Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh
đạo được cách mạng.
Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ
không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng Lao
động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp
nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có
những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hoá. Thành thử đội ngũ chính trị của
giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì
số công nhân ngày càng tǎng thêm
Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là
bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng Cộng
sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn
minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã

hội hiện đại. Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập
trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do không nhận thức được
điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị - xã hội cần có của
mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện
đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi
mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lòng chủ nghĩa tư
bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu tố của xã hội mới, nhưng đội
tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để làm sinh sôi nảy nở.


Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng
của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai
phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của
phong trào công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm
vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là
cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ
dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt
để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Là Đảng của giai cấp công nhân, trước hết Đảng phải hiểu giai cấp công nhân và
dựa vào giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều
(như trên đã phân tích), đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển trong
sự phân hóa thường xuyên - một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu
ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh
tế, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã
hội
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng đã được thể hiện rõ ở trong Điểu lệ
Đảng hiện lên như một bức tranh toàn cảnh về cái đẹp đẽ và cao cả nhất, hiện thân cho tinh

thần đấu tranh kiên cường bất khuất của cha ông ta từ thời kháng chiến, tinh thần ấy vẫn
trường tồn tới ngày nay như bản anh hùng ca mãnh liệt cho chúng ta noi theo.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội
dung cơ bản của nguyên tắc đó được Điều lệ Đảng quy định như thế nào?
Trả lời:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ
bản của nguyen tắc đó là :
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thế lãnh đạo, cá
nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh
đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, Cơ quan lãnh
đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ
(gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm vê hoạt động của mình trước đại hội
cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưói; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của
mình đến các to chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tô chức đảng và đảng viên phải châp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn
Đảng phục tùng Đại hội đại biếu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn
một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên


được phát biểu ý kiến của mình. Đảng vien có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu
và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành
nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng, cấp uỷ
có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử vói đảng viên có ý
kiến thuộc về thiếu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song
không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và

nghị quyết của cấp trên.

7. Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như
thế nào?
Trả lời:
Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của người Đảng viên như
sau:
a. Tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn của đảng viên được quy định rõ ràng ở Điều 1 trong Điều lệ Đảng, gồm
2điểm, đó là:“1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phongcủa giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của
Đảng,đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích

nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, cá nghị quyết
củaĐảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có
đạođức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật
của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi
trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiệnCương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và
nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trongmột tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là
người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm,đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.”
b. Về nhiệm vụ của Đảng viên:
Nhiệm vụ Đảng viên được quy định trong điều 2, điều lệ Đảng, gồm 4 điểm sau:
1.Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp
hànhnghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp
luật của nhà nước; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệtđối sự phân công
và điều động của Đảng.
2.Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công
tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chốngchủ
nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực
khác.



3.Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân;chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân;tích
cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở;tuyên truyền vận
động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách củaĐảng , pháp luật của nhà
nước.
4.Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục
tùngkỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê
bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển Đảng viên; sinh hoạt Đảng vàđóng Đảng
phí đúng quy định.Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi Đảng viên cần nắm vững nội dung cơ
bản sau:Một là, kiên định với những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng:Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc
ta.- Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho kim
chỉnam cho mọi hành động của Đảng.- Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam; không chấp nhậnđa nguyên, đa đảng.- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vìdân, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân vớigiai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng.- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt
động của Đảng.- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấpcông nhân.Hai là, mỗi Đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển
nhanh, sớm đưanước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của
mình. Đồngthời, phải nhận thức sâu sắc thách thức lớn, các nguy cơ đang đe doạ sự nghiệp
cáchmạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục.Mỗi Đảng viên
phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương cần,kiệm, liêm, chính, trí
công, vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ
quan của Đảng, nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội;cảnh giác và kiên quyết chống
mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây bạoloạn lật đổ của các thế lực thù địch,
trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụthể của mỗi người.Ba là, đất nước ta đã
chuyển sang thời kì phát triển mới với nhiệm vụ trung tâm là xâydựng phát triển kinh tế, đòi

hỏi Đảng viên phải nâng cao trình độ kiến thức và năng lựccông tác, phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng, thực hiện vai trò tiên phong, gươngmẫu.Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng
trở nên đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộcđối với mọi Đảng viên. Có nhiều
hình thức và phương pháp học tập để nâng cao trình độlý luận chính trị, kiến thức và năng
lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều kiện và hoàncảnh cụ thể mà tổ chức Đảng và mỗi
Đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp. Bốn là, có mối quan hệ mật thiết với
quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quầnchúng nhân dân. Nhân dân lao động cần có
Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụchính trị bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân
dân dành thắng lợi. và ngược lại, Đảngcần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng.Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng dễ quan liêu, xa rời nhân
dân. Đây là một nguycơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Mọi Đảng
viên phải thườngxuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhândân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, đồng
thời tích cựctham gia tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện đường lối


của Đảng, pháp luật của nhà nước. Năm là, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo
vệ đường lối, chủ trương, chínhsách, nghị quyết của Đảng và nhà nước, chống lại sự phá
hoại của kẻ thù. Thực hiệnnghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo
đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tích
cực làm công tác pháttriển Đảng viên mới.
c. Về quyền của Đảng viên:
Điều 3, Điều lệ Đảng quy định Đảng viên có những quyền sau:
- Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
đườnglối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.- Ứng cử, đề cử
và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của ban chấphành trung ương.Trình bày ý kiến khi tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luậtđôi
với mình.- Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử
cơ quanlãnh đạo của Đảng.Các quyền của Đảng viên nêu trong điều lệ Đảng nhằm bảo đảm
cho Đảng viên thực hiệnđầy đủ quyền làm chủ về mặt chính trị tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minhkhẳng định “khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý,

lúc đó quyền tự do tưtưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Những quy định về
quyền của Đảng viêntạo điều kiện cho Đảng viên và tổ chức Đảng thực hiện đầy đủ nguyên
tắc tập trung dânchủ.
8. Vì sao cần học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay?
Trả lời:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và
vì dân; là một Nhà nước pháp quyền mà ở đó với 54 dân tộc anh em hình thành và phát triển
thành một cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Mỗi thành viên, cá nhân trong cộng
đồng đều phải tuân theo đạo đức công dân, thực hiện trách nhiệm của một công dân, đó là
phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, thực hiện đầy
đủ các nghĩa vụ cho đất nước theo qui định của pháp luật và tích cục tham gia những công
việc chung, bảo vệ tài sản công, bảo vệ Tổ quốc và cần kiệm để xây dựng nước nhà. Trách
nhiệm của công dân trước tiên và bao trùm nhất là trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Người là kết tinh những gì tốt đẹp nhất của dân tộc Việt
Nam.Nhìn vào thực tế tình trạng tham ô, lãng phí hiện nay,tình trạng cán bộ công chức nhà
nước thoái hoá biến chất ngày càng nhiều. Chúng ta càng thấy những lời dạy bảo của Bác là
vô cùng sâu sắc và hết sức quý báu. Chúng ta mong rằng các cơ quan có trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn những lời dạy nghiêm túc và chí tình chí lý
của Người về thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí.Đối với cán bộ, đảng viên cơ sở
của ý thức trách nhiệm bắt nguồn từ mục đích và bản chất của Đảng ta đó là Đảng của giai
cấp công nhân, đồng thời là Đảng của nhân dân lao động, của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt
nam là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc là đại biểu cho lợi ích của giai cấp và dân tộc.
9. Trình bày nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.


Trả lời:
a. Quan điểm về con người và vai trò của đạo đức
- Đạo đức là cái gốc của người cách mạng.

+ Đạo đức nuôi dưỡng, phát triển con người như gốc của cây, cội nguồn của sông suối.
+ Là nền tảng sức mạnh giúp cho người cách mạng vượt qua khó khăn thử thách để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng được giao.
+ Là tiêu chuẩn hàng đầu của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền.
+ Đức là gốc của tài, tài là thể hiện của đức bằng kết quả hành động.
- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội.
+ Sự hấp dẫn của CNXH xuất phát từ những giá trị đạo đức cao đẹp, ở những phẩm chất
của những người cộng sản ưu tú bằng tấm gương sống của mình chiến đấu cho lý tưởng trở
thành hiện thực.
+ Đạo đức làm cho phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định
vận mệnh loài người và chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.
b. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
* Trung với nước, hiếu với dân
“ Trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất bao trùm, quan trọng nhất; nó thể hiện
mối quan hệ mối quan hệ của mỗi người với nhân dân, dân tộc mình.
- Khái niệm “trung”, “hiếu” là những quan niệm cũ trong truyền thống Việt Nam và
phương Đông nhưng theo nghĩa hẹp: “trung vua, hiếu với cha mẹ”.
- Kế thừa quan điểm truyền thống, Hồ Chí Minh đã đưa vào những nội dung mới
mang tính cách mạng để giáo dục cán bộ và nhân dân ta.
+ Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, trung
thành với con đường đi lên của đất nước, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng.
+ Hiếu với dân là lấy dân làm gốc, thương dân, gần dân, tin dân, đề cao tinh thần
phục vụ nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đới sống mọi
mặt của nhân dân.
+ Trung với nước gắn liền hiếu với dân, vì dân là dân nước, nước là của dân, do dân
làm chủ.
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính là khái niệm đạo đức cũ, được Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc
đưa vào những nội dung mới:
- Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất với

tinh thần tự lực cánh sinh; không dựa dẫm, không lười biếng, không ỷ lại.
- Kiệm là tiết kiệm( tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm của cải…) của
nước, của dân; “ không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình
thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
- Liêm là “luôn luôn tôn trọng của công của dân”, phải “ trong sạch không tham lam”
tiền của địa vị, danh tiếng.
- Chính là không tà, là ngay thẳng, đứng đắn. Hồ Chí Minh xét chính trong 3 mối
quan hệ:
+ Đối với mình không tự cao, tự đại, luôn chiệu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm


×