Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

ĐỀ ÁN GIÁM SÁT PHẢN BIỆN XÃ HỘI MẶT TRẬN HUYỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.98 KB, 45 trang )

A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ ÁN.
1.1.Trong tiến trình xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống Chính
trị nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nhằm tiếp tục nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng trong hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và hệ thống
chính trị nói riêng. Vì vậy việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội theo Quyết
định số 217-/QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị là yêu cầu tất yếu,
khách quan. Là cơ quan Tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương có chức năng,
nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức nhà nước; tổ chức phản biện xã hội đối với các
dự thảo văn bản về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các
quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của
Nhà nước khi được yêu cầu phản biện; dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật
về quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự án, đề án phát triển kinh tế - xã hội của
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; dự thảo các đề án, dự án, Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân các cấp; dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương. Bên cạnh việc thực
hiện chức năng cơ bản trong hoạt động (giám sát và phản biện xã hội mang tính
nhân dân) nêu trên, thì chức năng phản biện xã hội có vị trí, vai trò hết sức quan
trọng, nó góp phần vào việc đảm bảo sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tính thực
tiễn của đơn vị, địa phương; tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với đời sống xã
hội và tính khả thi của văn bản dự thảo; nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền
dân chủ của dân, do dân và vì dân ngày càng vững mạnh. Thực hiện tốt chức
năng giám sát và phản biện xã hội là một trong những yêu cầu quan trọng để
nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hiệu quả
hoạt động của của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức
thành viên ở địa phương.
1



1.2.Trong thời gian qua, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam xã (MTTQVN) đã đạt được một số thành tựu nhất định,
như: Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của hội viên, đoàn viên, thành viên và nhân dân
để kiến nghị với các cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết
những yếu kém trong xây dựng và thực thi pháp luật, những sai sót trong quản
lý, điều hành, thực thi nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền, gây phiền hà và
thiệt hại cho dân; thực hiện giám sát thông qua Ban Thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư cộng đồng, từ đó phát hiện ra những sai sót, yếu kém và kiến
nghị với cơ quan có thẩm quyền khắc phục những sai sót, yếu kém đó.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các cấp ở địa phương nói chung và ở xã Mò Ó nói riêng trong thời gian qua vẫn
còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập xuất phát từ việc thực hiện chức năng giám
sát (mang tính nhân dân nên quyền hạn bị hạn chế không song hành với chức
năng, nhiệm vụ theo luật định). Bên cạnh đó Luật MTTQ Việt Nam, Nghị định
50/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật MTTQ Việt Nam, và các văn bản
pháp luật khác liên quan đều không quy định cụ thể cơ chế giám sát và điều kiện
bảo đảm cho hoạt động giám sát của Mặt trận, vì vậy hiệu quả đạt được chưa
cao. Cách thức tổ chức giám sát bằng hình thức phối hợp với Hội đồng nhân dân
và các ngành hữu quan còn bị động, chưa khoa học, phương thức và nội dung
giám sát chưa được đổi mới toàn diện, khả năng phát hiện các vấn đề trong quá
trình giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công
chức, viên chức còn bất cập; mặt khác chưa có chế tài (văn bản pháp luật) quy
định cho hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên hiệu quả đạt
được trong công tác giám sát còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng nêu
trên, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
xã Mò Ó trong trời gian tới là phải nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã
hội , thể hiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã trong việc đại diện và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tích cực tham gia xây
dựng Đảng và chính quyền vững mạnh; đồng thời là cơ sở Chính trị của chính

quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng và nơi hiệp thương, phối hợp
2


thống nhất hành động của các tổ chức thành viên, tăng cường và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết các dân tộc xã Mò Ó trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiên
đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Xuất phát từ yêu cầu lý luận và thực tiễn ở địa phương, là một cán bộ
đứng đầu trong hệ thống Chính trị ở xã Mò Ó, tôi nhận thức và thấy rõ được tầm
quan trọng của hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể quần chúng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, củng cố chính quyền nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Việc chọn đề án “Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội
của Mặt Trận Tổ quốc xã Mò Ó, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị trong giai
đoạn hiện nay” làm đề án tốt nghiệp lớp Cao cấp Lý luận Chính trị, nhằm góp
phần vào hoạt động của công tác Mặt trận xã Mò Ó trong giai đoạn cách mạng
mới.
2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, Ý NGHĨA.
2.1. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề chung về giám sát và phản biện xã hội, đề án
đánh giá thực trạng, nêu lên những hạn chế; đồng thời đề ra mục tiêu, giải pháp
và một số ý kiến kiến nghị để nâng cao hiệu quả trong hoạt động giám sát, phản
biện của Mặt trân Tổ quốc xã Mò Ó trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ
- Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản liên quan đến hoạt động
giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát và phản biện của Mặt
trân Tổ quốc Việt Nam xã Mò Ó và tác động của nó đến quá trình xây dựng và
phát triển của xã, củng như phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

- Phân tích một số định hướng cơ bản nhằm phát huy vai trò giám sát
và phản biện của Mặt trân Tổ quốc Việt Nam xã trong thời gian tới
-Tổ chức thực hiện đề án
3


2.3. Ý nghĩa
Trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở nước ta, bên cạnh những thuận lợi
cơ bản và tính ưu Việt nổi trội, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tình trạng duy ý chí, chủ
quan. Do vậy, cần phải có một cơ chế cụ thể, rõ ràng, minh bạch để nhân dân
bày tỏ thẳng thắn ý kiến, thực hiện giám sát và phản biện xã hội. Ðiều này là
thực sự cần thiết đối với các dự thảo, dự án, dự kiến những quyết định lớn của
Đảng, Nhà nước, hệ thống Chính trị. Giám sát và phản biện xã hội sẽ giúp Đảng,
chính quyền, hệ thống Chính trị kiểm nghiệm các chủ trương, chính sách có thực
sự hợp quy luật và hợp lòng dân hay không, giúp Đảng và hệ thống Chính trị
thực sự vì dân để dân tin Đảng, đi theo Đảng. Thông qua Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể của mình, nhân dân tham gia đóng góp ý kiến đối với các chủ
trương, chính sách, giúp không ngừng hoàn thiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; giúp sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ngày càng
tốt hơn, từ đó phục vụ nhân dân ngày càng hiệu quả hơn. Người dân tham gia
giám sát, phản biện xã hội với tư cách vừa là người chịu sự lãnh đạo, vừa là
người làm chủ, vừa là người thực hiện, đồng thời vừa là người được phục vụ và
thụ hưởng.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI CỦA ĐỀ ÁN
3.1 Đối tượng
Đề án tập trung nghiên cứu hoạt động giám sát, phản biện của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam xã Mò Ó trong thời gian vừa qua.
3.2. Phạm vi của đề án
Đánh giá thực trạng công tác giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc
xã Mò Ó từ năm 2009-2014 và đề xuất giải pháp giai đoạn 2015 – 2019.

4.Kết cấu đề án:

4


Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo,
Nội dung cơ bản của Đề án gồm 4 phần:
- Phần thứ nhất: Cơ sở lý luận, chính trị - pháp lý và thực tiễn của Đề án
- Phần thứ hai: Mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp tăng cường
công tác giám sát, phản biện xá hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam xã Mò Ó,
huyện ĐăkRông hiện nay
- Phần thứ ba: Tổ chức thực hiện Đề án
- Phần thứ 4: Dự kiến kết quả

5


PHẦN 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CHÍNH TRỊ -PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ ÁN
1.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về giám sát và phản biện xã hội
1.1.1.1. Các khái niệm
* Giám sát xã hội
+Theo Từ điển Tiếng Việt: “Giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều qui định không?”1. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam
thì: “giám sát là một hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã
hội nhằm bảo đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những quy định chung nào đó” 2.
Từ điển Luật học định nghĩa: “giám sát được hiểu là sự theo dõi, quan sát hoạt
động thường xuyên, liên tục và sẳn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để
buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy

chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật
được tuân thủ nghiêm chỉnh”3.
Đó là hoạt động là theo dõi, xem xét, kiểm tra và đánh giá các hoạt động
của đối tượng được giám sát dựa trên các tiêu chuẩn đã được qui định trước
nhằm mục đích hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ
đạo, quy chế, quy định đã đề ra để được mục đích, hiệu quả xác định từ trước
-Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội, quan niệm: “Giám sát là việc theo dõi, phát hiện,
xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ,
đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”4
*Phản biện xã hội
1

Từ điển tiếng Việt. Nxb, Khoa học xã hội- Hà Nội.1988, tr 75
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách khoa , Hà Nội, 2002, tr 112.
3
Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1999, tr.174
2

4

Ban Chấp hành Trung ương, Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Namvà các đoàn
thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013của Bộ Chính trị)

6


-Phản biện là một từ Hán - Việt, có nghĩa là xem xét các sự vật, hiện
tượng để phân định, tranh luận, biện bác về tốt, xấu. Từ đó, có thể hiểu phản

biện là đặt lại, xem xét lại một sự việc, một vấn đề trên cơ sở lập luận, phân tích
khách quan, khoa học nhằm phát hiện cái bất cập để từ đó đề xuất những
phương án nhằm đưa sự việc, vấn đề về đúng quỹ đạo, đúng giá trị.
-Phản biện xã hội là toàn bộ các cách thức mà các lực lượng xã hội phản
ứng ngược trở lại (phản hồi) trước những tác động của lực lượng lãnh đạo, quản
lí xã hội như dư luận xã hội, phê phán xã hội, giám sát xã hội, tham gia xã hội
5

...
- Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các đoàn thể chính trị - xã hội, quan niệm: “Phản biện xã hội là việc nhận xét,
đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”6
Phản biện xã hội là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối
với việc hoạch định và tổ chức thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước
1.1.1.2.Vai trò, mục đích và tính chất của giám sát, phản biện xã hội
+ Sự tham gia của công dân vào các hoạt động chính trị, xã hội được
xem như một giá trị dân chủ và đó cũng là môi trường để mọi công dân phát
huy tính tích cực chính trị - xã hội của mình với tư cách là một con người chính
trị: Đặc biệt, trong xã hội công dân - một xã hội văn minh, dựa trên nền tảng
pháp luật văn minh và được điều hành bởi những nhà lãnh đạo có năng lực và
văn hoá chính trị cao… một xã hội đã được dân chủ hoá và hội đủ những điều
kiện cơ bản nhất để phát triển toàn diện, bền vững với sự tham gia tích cực của
công dân vào công việc của cộng đồng xã hội - đòi hỏi sự đối thoại công khai
và có sự tham gia rộng rãi, tích cực của công dân; phải tạo cơ hội cho mọi công
5

TS. Trần Thái Dương. Góp phần nhận thức về phản biện xã hội ở nước ta hiện nay. Tạp chí Luật học số

5/2006, tr 15.
6

Ban Chấp hành Trung ương, Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Namvà các đoàn
thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013của Bộ Chính trị)

7


dân có được tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng đến họ7.
Như vậy, giám sát xã hội và phản biện xã hội là những phương thức
thực hành dân chủ - thể hiện quyền lực của người dân trong quan hệ với quyền lực
nhà nước; nó vừa mang tính chế ước, vừa mang tính hợp tác - vì nhu cầu, lợi ích
của cộng đồng, xã hội.
+Với những nội dung đã đề cập, giám sát và phản biện xã hội có các vai
trò nổi bật sau:
-Thứ nhất: Góp phần phòng ngừa, hạn chế sai lầm trong hoạt động của
các chủ thể cầm quyền, tạo lập sự đồng thuận xã hội.
-Thứ hai: Góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước sau khi đã ủy quyền, trao quyền.
-Thứ ba: Tạo lập môi trường rèn luyện dân chủ, nâng cao bản lĩnh chính
trị, tính tích cực chính trị của công dân (với tư cách một con người chính trị)
-Thứ tư: Góp phần từng bước hoàn thiện kỹ năng điều chỉnh trong quá
trình thực hành công vụ của đội ngũ công chức nhà nước
+ Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội (Điều 2), chỉ rõ:
- Giám sát nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương trình
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện
những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính
sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực;

phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước
trong sạch, vững mạnh.
- Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát,
chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà
nước; kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn,
phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm
7

Th s. Bùi Việt Hương - Ths. Tống Đức Thảo. Quan hệ giữa xã hội công dân, dân chủ và phát triển. Thông tin
Chính trị học, số 3 (30) / 2006, tr 16 - 20.

8


quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng
thuận xã hội.
- Giám sát và phản biện xã hội mang tính nhân dân, tính dân chủ xã hội
chủ nghĩa, tính xây dựng, tính khoa học và thực tiễn8.
1.1.1.3. Chủ thể giám sát và phản biện xã hội
-Chủ thể của giám sát và phản biện là mọi công dân, tổ chức nói chung –
bao gồm những tổ chức chính trị - xã hội, các nhóm lợi ích chính trị, các tổ chức
xã hội, các cá nhân (các nhà khoa học, các nhân sĩ, trí thức…), công dân
-Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị - xã hội, chỉ rõ chủ thể giám sát và phản biện xã hội
(Điều 4), chỉ rõ chủ thể là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở, bao gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”
1.1.1.4. Nội dung giám sát và phản biện xã hội

Giám sát xã hội và phản biện xã hội có nội dung rất rộng, liên quan đến tất
cả những lĩnh vực, những vấn đề của đời sống cộng đồng (giai cấp, dân tộc,
quốc gia): từ khâu hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật đến khâu tổ chức
thực hiện; từ lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến an ninh, quốc
phòng; từ đối nội đến đối ngoại; từ tổ chức bộ máy, con người đến công việc của
con người và bộ máy; từ tầm vĩ mô đến trung, vi mô.
+Ở nước ta hiện nay, nội dung này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề
cập trong các Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI. Có thể xem
đó cũng là nội dung của những phương thức thực hành dân chủ trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trên tinh thần đó, nội dung cơ bản của hoạt động giám sát, phản biện xã
hội là:
8

Ban Chấp hành Trung ương, Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Namvà các
đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013của Bộ Chính trị)

9


- Phản biện và giám sát xã hội đối với quá trình hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
- Giám sát, phản biện đối với quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
- Giám sát và phản biện đối với công chức nhà nước (ở Việt Nam gọi là
cán bộ, công chức)
+ Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Namvà
các đoàn thể chính trị - xã hội – Điều 5 và Điều 9 (Ban hành kèm theo Quyết
định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị) cụ thể hóa nội dung
giám sát, phản biện xã hội là:

-Nội dung giám sát:Việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia)
của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
-Nội dung phản biện xã hội: Sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự
thảo.
Sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; thực tiễn của đơn vị, địa phương.Tính
đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và tính khả thi của
văn bản dự thảo. Dự báo tác động, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại của văn bảo dự thảo9.
1.1.1.5. Nguyên tắc giám sát và phản biện xã hội
+ Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội, chỉ rõ nguyên tắc giám sát và phản biện xã
hội (Điều 3) là:
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, Điều
lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ các đoàn thể chính trị - xã hội.

9

Ban Chấp hành Trung ương, Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Namvà các
đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013của Bộ Chính trị)

10


- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội với các cơ quan, tổ chức có liên quan; không làm trở ngại
các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát và phản biện xã hội.
- Bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang tính xây dựng.
- Tôn trọng các ý kiến khác nhau, nhưng không trái với quyền và lợi ích

hợp pháp, chính đáng của thành viên, đoàn viên, hội viên, lợi ích quốc gia, dân
tộc10.
1.1.1.6. Phương thức giám sát xã hội, phản biện xã hội
+Có nhiều phương thức, cách làm khác nhau để thực hiện giám sát và phản
biện xã hội nhưng trước hết, những phương thức này đều phụ thuộc vào quy
định pháp lý, sau nữa phụ thuộc vào nội dung, yêu cầu, đặc điểm cụ thể của các
cấp độ chủ thể.
+Nếu căn cứ vào nội dung và yêu cầu trong giám sát và phản biện xã hội
ở Việt Nam hiện nay, cần quan tâm đến các phương thức sau:
-Giám sát và phản biện thông qua cơ chế dân chủ trực tiếp của công dân;
-Giám sát và phản biện xã hội thông các tổ chức đại diện cho các nhóm
lợi ích (ở Việt Nam là các tổ chức chính trị- xã hội tập hợp trong MTTQ Việt
Nam).
- Giám sát, phản biện xã hội thông qua báo chí- truyền thông;
+Xem thêm điều 7 và điều 11 về Phương pháp giám sát, phản biện xã hội
(Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội)
1.1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chức năng giám sát, phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.1.2.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

10

Ban Chấp hành Trung ương, Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Namvà các
đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013của Bộ Chính trị)

11


+MTTQ Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh

sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18-11-1930 11. Trải qua các thời kỳ cách
mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc
Việt Nam - một nhân tố góp phần quan trọng trong thắng lợi của sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+Vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt nam trong Hệ thống chính trị và
đời sống xã hội:
-Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã
hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám
sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại
nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Điều đó khẳng định Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị
nước ta.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 5 đã thông qua ngày 12/6/1999, trong đó
đã khẳng định:"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính
trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí nguyện
vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, nơi
hiệp thương phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần
giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân
11

Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị thành lập Hội Phản đế
Đồng Minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất (ngày nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.


12


giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" (khoản 2, Điều 1)
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (bổ sung) 2014, Điều 1 chỉ rõ: “1. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân; nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ; giám sát, phản biện xã hội;
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất
hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Như vậy, vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do chính nhân
dân, chính lịch sử xác định và thừa nhận.
-Thực tiễn của cách mạng Việt Nam càng khẳng định vị trí, vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta từ trước đến nay:
Thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt
trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp
cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội phản đế đồng minh (1930-1936)
và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939).Tiếp theo Mặt trận Việt
Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đến thắng lợi.Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời
(1955) đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất

nước nhà.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đã cùng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các
lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam đoàn kết nhân dân cả nước làm
13


tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc XHCN,
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan
trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ cách mạng mới.
Con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường với nhiều thành phần kinh tế, đại diện cho mỗi thành phần
kinh tế là một bộ phận trong nhân dân, một lực lượng xã hội. Cùng với sự cạnh
tranh kinh tế để phát triển là sự phân hoá giầu nghèo. Nhiều tổ chức xã hội, nghề
nghiệp ra đời. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ, sự giao lưu văn
hoá sẽ tác động đến lối sống và cách nghĩ của mỗi người và của mọi tầng lớp
trong xã hội. Mặt khác, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu thực hiện
chiến lược diễn biến hoà bình nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trong giai đoạn mới của cách mạng, với
nền dân chủ ngày càng phát triển thì vai trò, của Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân ngày càng quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề hơn.
Nâng cao vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống
chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quan trọng
đối với sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm cho sự phát
triển vững chắc của đất nước ta hiện nay.
1.1.2.2. Chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam hiện nay
a)Chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam thể hiện trong các

nội dung các Văn kiện của Đảng và chủ trương

hiện hành của Nhà nước
Trong thể chế nhất nguyên chính trị ở nước ta, MTTQ Việt Nam là thiết
chế chính trị –xã hội (có tính độc lập tương đối) để đảm đương chức năng giám
sát và phản biện các quyết sách cũng như hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Nhận thức rõ điều đó, từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã xác định chức năng
giám sát của Mặt trận. Tuy nhiên, về phản biện xã hội phải đến Đại hội X của
14


Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên mới đề cập. Theo đó, Đảng ta chỉ rõ:
“Phát huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân tham gia xây dựng đường lối chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”12. Tiếp đó, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) được thông tại Đại hội XI của Đảng cũng tái khẳng định:
“Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo
và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng,
Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”13
Hiến pháp năm 1992, Luật MTTQ Việt Nam năm 1999, 2014, Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác cũng đã có các quy định về MTTQ Việt Nam giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước và tham gia góp
ý vào dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Đó cũng là một hình thức phản
biện xã hội: “Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát
mang tính nhândân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà

nước, nhằm gópphần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch,vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của nhân dân.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử,cán bộ, công chức theo quy định
của pháp luật”
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 cũng đã
hiến định: “MTTQ Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân dân; đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng
thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước,

12

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.305
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội ,
2011, tr 87.
13

15


hoạt động đối ngoại Nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”14
Ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
quyết định ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các
đoàn thể chính trị - xã hội” 15; “Quy định về MTTQ, các đoàn thể chính trị xã
hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” 16, trong
đó quy định chi tiết về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam.
b)Theo tinh thần đó, dựa vào nội dung các Văn kiện của Đảng và chủ
trương hiện hành của Nhà nước, có thể hiểu:
+“Giám sát” là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị

nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử,
công chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
“Phản biện xã hội” là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị
đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước.“Giám sát và phản biện xã hội” là giám sát và phản biện của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.“Cơ quan, tổ
chức” là cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan đảng, cơ quan nhà nước, các đơn vị sự
nghiệp và doanh nghiệp.
-Mục đích, tính chất, nguyên tắc giám sát và phản biện xã hội; chủ thể
giám sát và phản biện xã hội và các nội dung cơ bản của hoạt động giám sát và
phản biện xã hội được quy định cụ thể trong “Quy chế giám sát và phản biện xã
hội của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội” 17; “Quy định về MTTQ, các
đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền”18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Tóm lại, trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, giám sát, phản biện xã
hội là cách thức, công cụ để nhân dân tham gia và quá trình xây dựng và thực
14

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(năm 2013)
15
Quyết định Số 217-QĐ/TW của BCHTƯ ngày 12 tháng 12 năm 2013
16
Quyết định Số 218-QĐ/TW của BCHTƯ ngày 12 tháng 12 năm 2013
17
Quyết định Số 217-QĐ/TW của BCHTƯ ngày 12 tháng 12 năm 2013
18
Quyết định Số 218-QĐ/TW của BCHTƯ ngày 12 tháng 12 năm 2013


16


hiện các quyết sách chính trị, để hiện thực hóa nguyên tắc pháp lý mỗi hay mọi
công dân đều có thể tham gia vào công việc của nhà nước - trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các tổ chức đại diện; đó cũng là con đường tạo lập sự đồng
thuận giữa lực lượng cầm quyền với quần chúng nhân dân (xã hội) thông qua
sự thỏa thuận có tính thể chế.
1.2. CƠ SỞ CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
- Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm?
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999, 2014
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân số 31/2004/QH11 ngày 3 tháng 12 năm 2004.
- Nghị định số 50/2001/NĐ-CP, ngày 16 tháng 8 năm 2001 quy định chi
tiết một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Nghị định số: 99/2005/NĐ-CP, ngày 28/7/2005 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra nhân dân về tổ chức và hoạt động
của Ban thanh tra nhân dân.
- Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN, ngày 17
tháng 4 năm 2008 của chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam về hướng dẫn thi hành điều 11, điều 14, điều 16, điều 22 và điều 26 của
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn.
- Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội số 34/2007/PL-UBTVQH11, ngày 20 tháng 4 năm 2007.
- Quyết định số: 80/2005/QĐ-TTG, ngày 18/04/2005 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành quy chế giám sát đầu tư cộng đồng.

17



- Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ chính trị về ban
hành quy chế giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị xã hội.
- Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-KH&ĐT-UBTWMTTQ VN-TC,
ngày 04 tháng 12 năm 2008 của Bộ kế hoạch đầu tư Ban thường trực Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam- Bộ tài chính về việc hướng dẫn thực
hiện quyết định số 80/2005/QĐ-TTg, ngày 18 tháng 04 năm 2005 của Thủ
tướng Chính phủ.
- Thông tri số 28/TTr-MTTW-BTT ngày 17/4/2014 của Ban Thường trực
Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam về việc Hướng dẫn thực hiện một số

điều của Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội;Quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể chính trị - xã hộivà nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền…
1.3.CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.3.1. Đặc điểm, tình hình xã Mò Ó, Huyện Đăk Rông
TRÌNH BÀY THÊM
1.3.1.1.Điều kiện tự nhiên
1.3.1.2.Kinh tế - xã hội
1.3.1.3.Dân tộc, tôn giáo
Xã Mò Ó có 05 thôn. Dân số 1.835 ngàn người, trong đó hơn 80% là đồng
bào dân tộc thiểu số. Trên địa bàn xã có 02 dân tộc anh em sinh sống, dân tộc Kinh
và dân tộc Vân kiều; 02 Tôn giáo chính là: Phật giáo và Tin lành.
1.3.2. Thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam xã Mò Ó hiện nay
1.3.2.1. Một số kết quả

18



Được sự quan tâm chỉ đạo của Thường trực Đảng ủy; sự phối hợp của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân, các tổ chức thành viên, Ban
Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã kịp thời cụ thể hóa các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thành
những chương trình hành động trong hệ thống Mặt trận từ xã đến thôn.
Ủy ban MTTQ Việt Nam xã đã chủ động xây dựng kế hoạch phối hợp
với các tổ chức thành viên, các cơ quan hữu quan đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nước, quy định của địa phương, thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội gắn với cuộc vận đông toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; cuộc vận động ngày vì người nghèo;
cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam…
Ủy ban MTTQ Việt Nam xã đã phối hợp với Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân xây dựng quy chế phối hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến chính sách pháp luật; xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp với Hội
đồng Nhân dân, tham gia giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội, y tế, giáo dục, các chương trình an sinh xã hội…vv. Đồng thời Ban
Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã xây dựng kế hoạch tổ chức tốt các
Hội nghị tiếp xúc cử tri với đại biểu Hội đồng nhân dân xã và Tổ đại biểu
HĐND tỉnh tại huyện Đakrông; tham gia đầy đủ các cuộc họp liên tịch của Hội
đồng nhân dân –Uỷ ban nhân dân xã, đóng góp ý kiến vào việc chuẩn bị nội
dung, chương trình, thời gian tổ chức các kỳ họp Hội đồng Nhân dân xã. Ban
Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã xây dựng kế hoạch giám sát và phản
biện theo chương trình công tác hàng năm, kịp thời hướng dẫn Ban công tác
Mặt trận các thôn triển khai các chương trình, kế hoạch giám sát phù hợp với
tình hình thực tiễn địa phương, tăng cường hoạt động của Ban thanh tra nhân
dân và ban giám sát đầu tư cộng đồng; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vận

động nhân dân tham gia giám sát các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử,
cán bộ, công chức ở khu dân cư.
19


Việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của MTTQ ở xã đã
được thể chế hóa và có những thành quả đáng kể. Để thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ xã chủ trì và phối hợp
với các tổ chức đoàn thể xây dựng kế hoạch giám sát việc bình xét, rà soát hộ
nghèo và việc giải quyết cho hộ nghèo vay vốn ưu đãi. Thông qua các cuộc
giám sát, đoàn giám sát phát hiện một số vấn đề bất cấp trong quá trình triển
khai thực hiện như:
Việc bình xét hộ nghèo, hộ cận nghèo tại một số thôn chưa được tổ chức
một cách bài bản, mỗi lần họp bình xét là hộ này xin vào hộ nghèo, hộ kia thắc
mắc, bỏ phiếu kín nhưng lại thiếu tính khách quan, công bằng. Quá trình điều
tra, rà soát, bình xét còn bộc lộ tư tưởng cục bộ, dòng họ, nể nang, chiếu cố, đôi
lúc chưa xác định đúng đối tượng, gây thắc mắc, trong nhân dân. Hiện nay đang
tồn tại một nghịch lý, đó là nhiều hộ dân không muốn thoát nghèo, tuy đã đạt
các tiêu chí của hộ thoát nghèo nhưng vẫn muốn được công nhận là hộ nghèo để
được hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Thực tế này là một khó khăn,
trở ngại cho công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hiện nay.
Tổng nguồn vốn tín dụng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, nhất là đối
với chương trình cho hộ nghèo vay vốn mặc dù nguồn vốn này đã tăng, phần lớn
cho hộ nghèo vay là vốn ngắn hạn. Hạn mức cho vay tín dụng còn thấp, lãi suất
và thời gian cho vay, hạn mức tối đa cho vay chưa linh hoạt để tạo điều kiện cho
hộ gia đình chủ động thực hiện các giải pháp sinh kế thoát nghèo phù hợp, chủ
yếu dựa vào định mức của từng chương trình tín dụng. Trên thực tế hạn mức
hiện nay chưa phù hợp đối với một số ngành nghề sản xuất và một số vùng trồng
cây công nghiệp. Tỉ lệ hộ nghèo được vay vốn ở mức tối đa không nhiều, một số
chương trình tín dụng chưa lồng ghép mục đích với hạn mức tín dụng cho vay.

Những kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế trong quá trình thực
hiện việc bình xét hộ nghèo và giải quyết cho hộ nghèo vay vốn đã được Ban
Thường trực Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã tổng hợp, gửi các cơ quan
chức năng xem xét, giải quyết.
20


Ban Thường trực Ủy Ban MTTQ Việt Nam xã phối hợp với Tổ đại biểu
Hội đồng nhân dân tỉnh tiến hành giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật
trong lĩnh vực xây dựng nông thôn mới; việc thực hiện chính sách pháp luật
với người có công với cách mạng trên địa bàn xã; phối hợp với Thường trực
Hội đồng Nhân dân tiến hành giám sát các chuyên đề. Năm 2014, thực hiện
chương trình rà soát chính sách với người có công của Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Lao động Thương binh- xã hội. Ủy ban MTTQ
Việt Nam xã cùng các tổ chức thành viên phối hợp với Phòng lao động thương
binh và xã hội rà soát được 4709 trường hợp, trong đó có 1849 người có công
đang được hưởng đúng chế độ ưu đãi, 602 người có công được được hưởng
chế độ ưu đãi nhưng chưa đầy đủ; 1095 người có hồ sơ đang làm thủ tục đề
nghị được hưởng chế độ chính sách.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã đã hướng dẫn và tự kiểm tra tham gia
thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn; trong công tác chỉ đạo tổ chức và
hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Qua
đó xây dựng các giải pháp thiết thực nhằm tập trung đẩy mạnh hoạt động của
Ban Thanh tra nhân dân trong việc giám sát thực hiện chính sách pháp luật, công
tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn.
Trong những năm qua, Ban thanh tra nhân dân xã đã giám sát 07 vụ
việc, phát hiện 02 vụ vi phạm; Ban giám sát đầu tư của cộng đồng đã giám sát
03 dự án, công trình, phát hiện 01 vụ vi phạm gửi các cấp có thẩm quyền xem
xét, giải quyết. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam xã tiếp nhận 05 đơn
thư khiếu nại, tố cáo đã chuyển 01 đơn cho các cơ quan có thẩm quyền giải

quyết. Kết quả đã góp phần ngăn chặn và đẩy lùi những sai phạm từ cơ sở, kịp
thời khắc phục những thiếu sót, sơ hở trong quản lý điều hành, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch,
vững mạnh.
Việc thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở đã góp phần thiết thực nâng cao ý
thức và trách nhiệm làm chủ của công dân, góp phần củng cố hệ thống Chính trị
21


ở xã ngày càng vững mạnh, đồng thời làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày
càng có trách nhiệm và gắn bó với dân hơn.
Uỷ ban MTTQ Việt Nam xã và các tổ chức thành viên đã tích cực tham
gia góp ý, đề xuất, kiến nghị đối với dự thảo một số chính sách, chương trình,
dự án, tham gia góp ý kiến vào các dự thảo Luật, (Luật thủ tục hành chính;
Luật đất đai sửa đổi); tổ chức lấy ý kiến nhân dân góp ý vào Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp 2013 vừa qua thực sự là đợt sinh hoạt chính trị- pháp lý dân chủ,
rộng khắp trong toàn xã hội, thu hút được sự quan tâm và tham gia đông đảo
của các tầng lớp nhân dân toàn xã. Bước đầu Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân đã tổ chức được 05 hội nghị với 1.215 lượt người tham gia và có 52
lượt ý kiến góp ý vào dự thảo Hiến pháp, qua đó đã huy động được trí tuệ, tâm
huyết của người dân tham gia tích cực vào xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp, góp phần phát huy quyền làm chủ, nâng cao nhận thức và ý thức trách
nhiệm của mỗi người dân, đồng thời tăng cường sự đồng thuận của nhân dân
trong việc xây dựng Hiến pháp.
Triển khai xây dựng dự án Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi) theo
chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội Khoá XIII, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc xã cùng các tổ chức thành viên và Hội đồng tư vấn Dân chủ Pháp
luật tham gia đóng góp về sửa đổi Luật MTTQ Việt Nam. Đồng thời, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu
HĐND tỉnh tại huyện tham gia tổ chức việc góp ý kiến vào các dự án Luật,

Pháp lệnh có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như: Luật
hộ tịch; Luật hòa giải cơ sở; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cư trú;
Luật đất đai (sửa đổi); Luật tiếp công dân; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật hôn nhân và gia đình; đồng thời chủ động tham gia xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương theo quy định của Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân.

22


Để thực hiện tốt các quy định của Luật khiếu nại tố cáo và Thông tri số 06
của Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam về việc hướng dẫn
công tác Mặt trận thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo. Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc xã đã chủ động phối hợp với chính quyền và các tổ chức thành viên của
Mặt trận thực hiện tốt việc giải quyết đơn khiếu nại tố cáo của công dân ở địa
phương, nhất là những vụ việc khiếu nại, tố cáo có tính chất bức xúc, kéo dài,
đông người; kịp thời chuyển các đơn thư đến cấp có thẩm quyền giải quyết theo
quy định của pháp luật. Qua đó đã động viên nhân dân trên địa bàn phát huy
quyền làm chủ; hạn chế thấp nhất tình trạng khiếu kiện vượt cấp của công dân ở
cơ sở.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình Ban thường trực Ủy ban Mặt
trận tổ quốc Việt Nam xã đã tiến hành giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân; tham mưu, xin ý kiến của cấp ủy Đảng xây
dựng các kế hoạch, chương trình giám sát đối với hoạt động của đại biểu Hội
đồng Nhân dân xã trên một số lĩnh vực như: Nội dung giám sát được tập trung
vào việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu theo quy định của pháp luật, trước hết
đại biểu Hội đồng Nhân dân xã phải là người gương mẫu trong việc chấp hành
Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng các quy tắc sinh hoạt của cộng đồng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tham gia đầy đủ các kỳ họp của Hội

đồng Nhân dân xã.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã đã tổ chức được
15 điểm tiếp xúc cử tri với đại biểu Hội đồng Nhân dân xã tại 05 thôn với hơn
1.600 lượt người tham dự. Nhìn chung các vị đại biểu HĐND xã đã thực hiện tốt
chức trách của người đại biểu, chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND xã Mò
Ó được nâng lên rõ rệt, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan dân cử ở địa phương. Qua đánh giá tổng hợp của Mặt trận Tổ quốc các đại
biểu Hội đồng nhân dân xã đều hoàn thành tốt chức trách của người đại biểu
trong công tác tiếp xúc cử tri và trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri.

23


Trong nhiệm kỳ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã đã phối hợp với
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã chỉ đạo các địa phương hàng năm tổ
chức hội nghị ở khu dân cư; giữa và cuối nhiệm kỳ tổ chức hội nghị nhân dân ở
thôn, để các đại biểu Hội đồng nhân dân báo cáo kết quả hoạt động của mình
trước nhân dân, thông qua đó để nhân dân trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến đối
với các đại biểu. Qua kết quả hoạt động hàng năm, Mặt trận Tổ quốc và Thường
trực Hội đồng nhân dân cùng cấp tiến hành đánh giá, xếp loại chất lượng đại
biểu Hội đồng nhân dân và thông báo kết quả cho các đại biểu biết để phát huy
ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, phấn đấu thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của
người đại biểu nhân dân.
Giám sát đại biểu Hội đồng nhân dân xã về việc tuyên truyền đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết
của HĐND đối với cử tri và nhân dân. Có thể nói việc giám sát, đánh giá chất
lượng đại biểu Hội đồng nhân dân xã là chức năng của Mặt trận Tổ quốc theo
Luật Mặt trận quy định, quá trình triển khai đã được sự quan tâm lãnh đạo của
cấp ủy, sự phối kết hợp chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân với
Mặt trận Tổ quốc và các ngành, các cấp.

Việc đẩy mạnh công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động
của đại biểu Hội đồng nhân dân xã được các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng
hộ, là dịp nhân dân được tham gia, đóng góp ý kiến cho những đại biểu đại diện
cho ý chí nguyện vọng của mình. Hoạt động giám sát có hiệu quả sẽ góp phần
xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, về thực chất cũng là ý
nguyện của nhân dân.
1.3.2.2.Đánh giá chung
* Ưu điểm
Nhìn chung trong những năm qua, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ
quốc xã Mò Ó đạt được kết quả rất đáng khích lệ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã
đã kịp thời phối hợp với các tổ chức thành viên, các cơ quan hữu quan để xây
24


dựng kế hoạch, chương trình giám sát phù hợp với tình hình địa phương, thông
qua các cuộc giám sát đã kịp thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quá trình
triển khai Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, nâng cao
nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử trong quá
trình thực thi công vụ, công tác phản biện xã hội cũng đạt được nhiều kết quả.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã và các tổ chức thành viên ngày một thể hiện rõ vai
trò chủ thể phản biện xã hội đối với Đảng, Nhà nước thông qua việc phản ánh,
kiến nghị với Đảng, Nhà nước cũng như các cơ quan có thẩm quyền về dự thảo
các chủ trương, chính sách, đề án, dự án, pháp luật liên quan đến quyền và lợi
ích cơ bản của nhân dân, đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Những kết quả đạt được đã góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân,
đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao, nhân dân
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của nhà nước, góp phần
giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
* Hạn chế và nguyên nhân
Nhìn vào thực tế hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và

các đoàn thể xã Mò Ó vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là đối với các tổ chức đoàn
thể. Thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, do hệ thống cơ chế giám sát và phản biện xã hội còn thiếu. Các
quy định về hoạt động giám sát, phản biện của MTTQ và các đoàn thể còn nằm
rải rác ở rất nhiều văn bản. Luật MTTQ Việt Nam quy định: “MTTQ Việt Nam
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức
theo quy định của pháp luật”. Cụ thể hóa nội dung này, Nghị định 50/2001/NĐCP hướng dẫn thi hành Luật MTTQ Việt Nam chưa quy định rõ về nội dung
giám sát, phạm vi giám sát, các cơ chế điều kiện đảm bảo hoạt động giám sát,
nhất là việc xử lý các kiến nghị sau giám sát. Ở một số văn bản bản pháp luật
khác tuy có quy định trách nhiệm giám sát của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể,
nhưng các điều luật này cũng chỉ chung chung. Còn nội dung, hình thức, cách
25


×