Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

1 tiểu luận cao học mặt trận tổ quốc việt nam với vai trò giám sát, phản biện xã hội trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.56 KB, 20 trang )

TÊN TIỂU LUẬN
“MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VỚI VAI TRÒ GIÁM SÁT,
PHẢN BIỆN XÃ HỘI TRONG LĨNH VỰC PHÒNG CHỐNG THAM
NHŨNG

Học viên:
Mã số học viên:
Lớp:

HÀ NỘI – NĂM 2016


MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ hiện nay cùng với việc phát triển kinh tế xã hội tệ nạn tham
nhũng xuất hiện và ngày càng có chiều hướng phát triển tăng cao cả về số lượng
và tính chất nghiêm trọng. Trong những năm qua, việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật về phòng chống tham nhũng đã được Đảng và nhà nước ta tiến hành, song
để đáp ứng nhu cầu về mặt thực tiễn đảm bảo hiệu quả trong phòng chống tham
nhũng, vai trò giám sát và pbản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc là vô cùng quan
trọng, bởi Nhà nước của chúng ta là của dân, do dân và vì dân. Chính người dân
mới là người tham gia giám sát, phản biện xã hội, MTTQ đại diện cho nhân dân,
nhận gánh nặng mà nhân dân giao phó. Giám sát, phản biện xã hội của MTTQ là
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật và chính sách cụ thể của nhà nước, góp phần
hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với thực tiễn của đời
sống xã hội, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và thể hiện được ý chí,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ngày càng trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Bởi vậy giám sát và phản biện xã


hội là trọng trách của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với đất nước, với dân, với
Đảng. Nhằm làm rõ hơn về vấn đề trên nên tôi đã chọm đề tài “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam với vai trò giám sát, phản biện xã hội trong lĩnh vực phòng
chống tham nhũng” làm đề tài nghiên cứu của mình. Do thời gian và kiến thức
còn hạn chế nên không tránh khỏi thiếu sót, rất mong các thầy, cô góp ý thêm.
1.2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu.
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu.
2


Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về vai trò của Mặt trận tổ quốc
trong phòng chống tham nhũng và các quy định hiện hành của pháp luật tham
nhũng trong các văn bản pháp luật. Làm rõ những nguyên nhân và đặc điểm của
tham nhũng cũng như thực tế tham nhũng tại Việt Nam. Từ đó đưa ra một số
kiến nghị giải pháp nhắm nâng cao hiệu quả của phòng chống tham nhũng ở
nước ta.
Mục đích nghiên cứu.
Đề tài này tôi nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ hơn thực trạng tham
nhũng của nước ta và xác định vai trò mặt trận tổ quốc trong giám sát và phản
biện xã hội trước vấn đề này và đề ra những giải pháp khắc phục.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp thống kê
1.4 Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm hai chương
và 4 tiết.


3


NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1.1 Khái niệm về tham nhũng
1.1.1. Khái niệm:
Trên thế giới bàn về khái niệm tham nhũng, cho đến nay đã có nhiều tổ
chức, nhà nghiên cứu làm rõ nội hàm của khái niệm này và đã có nhận thức
tương đối thống nhất của giới khoa học cũng như của các chính khách trong
nước và thế giới.
Theo Liên Hợp Quốc: Bản Hiệp Ước của Liên Hợp Quốc về Chống Tham
Nhũng (UNCAC) không định nghĩa tham nhũng. Các thành viên tham dự Hội
nghị của Liên Hợp Quốc về các Biện Pháp Chống Tham Nhũng, Quản Trị Hiệu
Quả và Nhân Quyền năm 2006 cũng không đạt tới đồng thuận về một định nghĩa
chung cho tham nhũng, mà chỉ nói một các chung chung về tham nhũng như là
“sự lạm dụng quyền lực công để theo đuổi lợi ích tư.”
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI), tham
nhũng là hành vi "của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái
pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân".
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới: tham nhũng là “lạm dụng công
quyền để tư lợi”
Theo Vito Tanzi: Tham nhũng là “hành động cố tình không tuân thủ các
nguyên tắc công minh nhằm trục lợi cho cá nhân hoặc cho những kẻ có liên quan
tới hành động đó”.
Theo Michael Johnston: Tham nhũng là “sự lạm dụng chức vụ công hay
của cải công cho lợi ích tư”.


4


Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các
bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống...và đặc biệt là bằng
công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất. Đặc biệt là các quy định của
pháp luật đã có từ khá sớm.
Theo điều 1 của Pháp lệnh phòng chống tham nhũng số 03/1998/PLUBTVQH10 ngày 26 tháng 02 năm 1998: Tham nhũng là “hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố
ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập
thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”.
Theo điều 10 khoản 2 của Luật phòng chống tham nhũng số 55 Quốc Hội
XI ngày 29 tháng 11 năm 2005: Tham nhũng là “hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Như vậy, nhìn chung các khái niệm tham nhũng của Việt Nam không khác
gì nhiều so với thế giới cũng đều mang những đặc điểm nhất định.
1.1.2- Đặc điểm tham nhũng:
Đặc điểm chung của tham nhũng đó là “sự lợi dụng quyền lực nhà nước để
trục lợi riêng” với những dấu hiệu sau: Người có chức vụ, quyền hạn trộm cắp,
tham ô tài sản của nhà nước; Lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng quá đáng
thông qua việc sử dụng không chính thức địa vị chính thức của mình; Tạo ra sự
xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân
để mưu cầu trục lợi.
Ở Việt Nam, trên quan điểm tổng thể đã nêu ra những đặc trưng cơ bản
của tham nhũng như sau:
Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền
hạn làm việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp
từ trung ương đến địa phương, cán bộ trong Đảng và các đoàn thể.

5



Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức
vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với
công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây
thiệt hại chung cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.
Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi
cho bản thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.
1.2. Mặt trận tổ quốc và vai trò giám sát và phản biện xã hội.
1.2.1. Mặt trận tổ quốc
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối
hợp và thống nhất hành động của các thành viên."
1.2.2. Vai trò của mặt trận tổ quốc
Trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, Đảng độc quyền lãnh đạo xã hội,
thì Mặt trận tổ quốc là tổ chức có vai trò to lớn trong việc xây dựng Đảng và tạo
điều kiện cho Đảng làm tốt các vai trò của mình, trong đó có việc giám sát và
phản biện xã hội. Điều này Đảng đã có chủ trương và Hiến pháp cũng đã quy
định, vấn đề là tổ chức giám sát, phản biện thế nào cho thiết thực và có hiệu quả
trong xã hội. Đây cũng là nội dung rất quan trọng mà Đại hội Mặt trận toàn quốc
lần thứ VIII tiếp tục thảo luận để tạo sự thống nhất cao và có những quyết định
mạnh mẽ thực hiện tốt hơn vai trò quan trọng này. Quan điểm của Đảng đã rõ,
Hiến pháp cũng đã khẳng định, Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã nêu rõ vai trò
giám sát và phản biện của Mặt trận. Vấn đề là tổ chức thực hiện thế nào cho tốt.

6



Chương II.
THỰC TRẠNG VAI TRÒ GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI TRONG
LĨNH VỰC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA MẶT TRẬN
TỔ QUỐC VIỆT NAM
2.1. Thực trạng về tham nhũng ở nước ta
Trong những năm qua xu thế chung của thế giới là có xu hướng tăng về số
vụ cũng như tính chất nghiêm trọng của tham nhũng, nhìn chung các nhóm nước
phát triến cao có trình độ lập pháp và kinh nghiệm trong đấu tranh phòng chống
tham nhũng thì tỷ lệ tham nhũng thường thấp hơn so với các nhóm nước nghèo
và nhóm nước đang phát triển. Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế đã công bố bảng
xếp hạng năm 2015 về “cảm nhận tham nhũng”. Trong 168 quốc gia và vùng
lãnh thổ, Việt Nam đứng thứ 112, vẫn ở mức 31/100 điểm
Cho thấy tình trạng tham nhũng ở nước ta là rất cao so với thế giới và
khu vực Đông Nam Á. Theo một báo cáo mới nhất về tham nhũng của Việt
Nam so với khu vực thì chúng ta chỉ xếp trên bốn nước là Indonesia,
Philipines, Laos và Campuchia. Chứng tỏ tham nhũng ở nước ta vẫn không hề
giảm gì so với thực tế.
Theo nhiều tổng hợp đánh giá của cách cơ quan nhà nước và một số nhà
nghiên cứu, thì thực trạng tham nhũng của nước ta hiện nay có thể khái quát
rằng, tình trạng tham nhũng ở nước ta là khá phổ biến, xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi.
Ở đâu có vấn đề liên quan đến mối quan hệ về lợi ích vật chất và tinh thần thì ở
đó đều xảy ra tham nhũng.
Những hành vi tham nhũng rất đa dạng, phổ biến là hành vi tham ô tài sản,
nhận hối lộ, dùng tài sản công để biếu xén, hối lộ, lừa đảo chiếm tài sản của Nhà
nước, của nhân dân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm gây khó khăn, phiền hà,
sách nhiễu cho tổ chức, cá nhân để vụ lợi, thu vén quyền lợi cá nhân, lập quỹ trái
phép, sử dụng ngân sách không đúng quy định để hưởng lợi. Các hành vi tham
7



nhũng đã và đang xảy ra ở hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ sản xuất
kinh doanh, liên doanh liên kết, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất
đai, quản lý và sử dụng ngân sách, thuế, ngân hàng, hải quan, xuất nhập khẩu, tư
pháp, giáo đục, y tế thực hiện chính sách xã hội trong quản lý hành chính, công
tác xã hội... Có đủ mức độ tham nhũng của cá nhân, của tập thể, tham nhũng
không có tổ chức và tham nhũng có tổ chức gồm nhiều đối tượng tham gia.
Những thiệt hại do tham nhũng gây ra rất lớn, có vụ tham nhũng về kinh tế làm
thiệt hại cho Nhà nước, nhân dân tới hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng, làm thoái
hóa, biến chất hàng loạt cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cao cấp của Đảng
và Nhà nước. Cái thiệt hại đáng kể hơn, nặng nề hơn là tham nhũng đã làm xấu
chế độ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào tương lai của một chế độ tốt đẹp
mà Đảng ta đang phát động xây dựng.
Thống kê về chỉ số tham nhũng của nước ta trong nhưng năm gần đây
cho thấy rằng số lượng vụ tham nhũng cũng như số người vi phạm ngày càng
tăng, mặc dù chúng ta đã có những giải pháp nhất định trong đấu tranh phòng
chống tham nhũng ở nước ta trong những năm gần đây. Hiện nay tham nhũng ở
nước ta là khá phổ biến và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ cũng như tính
chất nghiêm trọng gây thiệt hại cho nhà nước rất lớn. Đặc biệt tham nhũng trong
các cơ quan công quyền ngày càng lớn và tinh vi, đã xuất hiện sự móc nối giữa
các cá nhân trong cơ quan nhà nước nhằm che đậy các hành vi tham nhũng của
mình khi hát hiện thì thường có liên quan đến rất nhiều người trong đó có cả
những người giữ chức vụ chủ chốt trong Đảng và cơ quan nhà nước. Một thực
trạng tham nhũng phổ biến nữa hiện nay là tham nhũng chính sách xảy ra rất phổ
biến và thường là những vụ án lớn gây thất thoát rất lớn cho tài sản nhà nước
cũng như làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào trong nước, giảm các kênh
cung cấp vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế đối với các dự án mang tính an sinh
xã hội của nước ta.
8



Tham nhũng bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp
mọi ngành, ở đâu người ta cũng thấy có tham nhũng và không có tiền lót tay sẽ
không giải quyết được công việc, ngay cả khi đã đầy đủ các điều kiện và thủ tục
pháp luật qui định. Nạn quà cáp biếu xén khi đến cửa quan đã trở thành “tập
quán”, phong tục trong xã hội ta. Chúng ta có thể gặp hiện tượng này ở bất kỳ
đâu nơi có hoạt động công quyền, chẳng hạn như đến UBND xã, phường làm
giấy khai sinh cho con, chứng nhận giấy tờ... cũng phải có quà cho cán bộ, vào
cơ quan cũng phải xu nịnh bảo vệ... Đặc điểm này đã gây nhức nhối, làm băng
hoại đạo đức của cán bộ công quyền, đe doạ sự tồn tại của nhà nước, sự bền
vững của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cơ
quan hành pháp mà còn xảy ra nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến
hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án, thi hành án). Sự tham
nhũng ở các cơ quan này đã làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện
hoặc không được xử lý, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu
quả vô cùng nặng nề. Tham nhũng xảy ra trong một bộ phận cán bộ quân đội,
nhất là số làm kinh tế, phụ trách tài chính - hậu cần có trách nhiệm cấp phát
trang, thiết bị cho Quân đội. Đây là lĩnh vực tương đối khép kín, các cơ quan
chuyên trách kiểm tra, thanh tra của nhà nước không vào được do đặc điểm bí
mật quân sự. Ở nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường có một dạng tham
nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ với các quan chức để mưu lợi
riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu tư, cho doanh nghiệp,
chạy chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá, gây mất đoàn kết nội
bộ cơ quan. Tham nhũng trong một bộ phận làm báo chí (phóng viên, biên tập
viên, người có trách nhiệm của các báo và quản lý hoạt động báo chí). Do tư lợi
mà những người này dùng báo chí để doạ dẫm, vòi vĩnh doanh nghiệp và quan
chức, dùng báo chí để phục vụ mưu đồ của người này, người kia, muốn hại ai thì
dùng tiền để đưa lên báo chí gây rối xã hội. Tham nhũng đã xuất hiện trong đông
9



đảo cán bộ cấp cơ sở, những “quan lại” mới ở nông thôn bớt xén tiền do dân
đóng góp, tiền từ đầu tư của nhà nước, tiền thuế, tiền viện trợ nhân đạo của các
cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
Như vậy, tham nhũng mang tính phổ biến, nhỏ nhặt là đặc điểm quan
trọng nhất của nạn tham nhũng ở nước ta và cũng chính nó làm cho tham
nhũng trở nên trầm trọng. Thực trạng này rất nguy hiểm không những nó làm
xói mòn lòng tin của nhân dân vào chế độ ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng và
phát triển của đất nước mà còn làm băng hoại đạo đức xã hội, phá hoại các giá
trị truyền thống văn hoá của dân tộc - vốn là nguồn sức mạnh của dân tộc ta từ
trước đến nay.
Nguyên nhân tham nhũng.
Là nước ta đang nghèo cơ chế để đảm bảo ổn định đời sống của cán bộ
công chức còn thấp, nhiều cán bộ công chức đồng lương không đảm bảo sinh
hoạt gia đình, dẫn đến sự nhiệt tình trong công việc không cao, nhận thức về hậu
quả của tham nhũng đối với đất nước của một số cán bộ còn non kém .
Cơ chế pháp lý để xử lý các đối tượng tham nhũng là không cao và chưa
đủ tính răn đe, cơ chế pháp lý vừa thiếu lại vừa yếu nên nhiều vụ không biết
xử lý như thế nào hoặc xử lý qua cho xong, tâm lý nể nang trong quá trình xử
lý các đối tượng vi phạm trong cán bộ công chức là nguyên nhân tái phạm lại
tham nhũng.
Phần lớn các biện pháp can thiệp vào thị trường của chính phủ đều mang
tính chất cấm đoán, tức là các chủ thể kinh tế không được phép làm điều gì đó
trừ phi chính phủ công khai cho phép một số được làm như vậy. Điển hình là
việc cấp phép nhập khẩu. Chỉ những công ty được cấp phép nhập khẩu mới được
nhập một số loại hàng hóa nào đó và chỉ với số lượng cụ thể đã nêu trong giấy
phép. Điều đó chắc chắn sẽ gây ra sự khan hiếm trên thị trường, cung không
được tính toán theo chi phí cận biên của các nhà sản xuất, nhập khẩu mà thông
10



qua số lượng được áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính. Với số lượng bị khống
chế như vậy, giá cả do cầu quyết định (tức là số tiền người tiêu dùng sẵn sàng trả
để mua thêm một đơn vị hàng hóa) sẽ cao hơn chi phí sản xuất, nhập khẩu của
nó. Sự chênh lệch đó chính là lợi ích kinh tế và sẽ được chia nhau sau khi mọi
giao dịch đã được tiến hành. Bằng cách đút lót để được cấp phép nhập khẩu, một
phần của số bổng lộc sẽ rơi vào túi kẻ đi hối lộ, và phần còn lại (dưới hình thức
đút lót) sẽ rơi vào túi kẻ nhận hối lộ. Rõ ràng, nếu không đưa ra quy định cấp
phép nhập khẩu thì sẽ không có bổng lộc, và do vậy sẽ không có tham nhũng. Có
một số trường hợp tham nhũng không liên quan tới bổng lộc, nhưng loại tham
nhũng phổ biến nhất và có hậu quả nghiêm trọng lại gắn liền với thái độ vòi vĩnh
bổng lộc. Càng có nhiều quy định bất di bất dịch của chính phủ thì càng hạn chế
hoạt động của thị trường tự do và do vậy càng gây ra nhiều tham nhũng. Tuy
vậy, ngoài nội dung các đạo luật cho phép chính phủ ban hành các quy định thì
điều quan trọng là phải xem xét những quy định này và quá trình thực hiện nó
được cụ thể hóa như thế nào. Đối với việc cụ thể hóa các quy định, để có thể
thực thi một cách hiệu quả, những quy định này phải đơn giản, rõ ràng và ai
cũng có thể dễ dàng hiểu được. Các quy định càng phức tạp, mập mờ và khó
hiểu bao nhiêu, càng có nhiều cơ hội cho tham nhũng bấy nhiêu. Có thể thấy một
ví dụ tiêu biểu trong hàng loạt các mức thuế nói chung và áp dụng mức thuế cho
các sản phẩm cụ thể tương tự nhau. Nếu mức thuế với một mặt hàng nào đó là
3% và đối với mặt hàng tương tự khác là 30% thì sẽ có động lực rất mạnh cho
tham nhũng nhằm phân loại sai hàng hóa và giảm thuế bất hợp pháp bằng cách
áp dụng mức thuế thấp hơn.
Hơn nữa, luật tố tụng – các quy định liên quan tới việc thực hiện các quy
định pháp luật khác – cũng có vai trò quan trọng đối với tham nhũng. Đạo luật
phức tạp và không minh bạch quy định cụ thể trình tự tố tụng chậm chạp (những
trình tự tố tụng mà không có thời hạn quy định cụ thể hoặc không có thời hạn
11



chót), với sự tùy tiện của các cán bộ trong quá trình thực hiện, sẽ tạo ra một cơ
hội lớn cho tham nhũng. Không chỉ đạo luật đó tạo ra động cơ cho tham nhũng
mà nó còn giảm thiểu khả năng bị phát hiện, do đó làm cho những kẻ hối lộ và
nhận hối lộ không còn tin nhiều vào những mối đe dọa với chúng.
Như vậy, từ những nguyên nhân trên đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải
quan tâm hơn đến vấn đề tham nhũng, đòi hỏi phải chữa tận gốc tệ nạn này, góp
phần tạo lòng tin của nhân dân vào chế độ và ngày càng đưa đất nước phát triển
giàu mạnh.
2.2. Vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt
Nam.
Giám sát và phản biện xã hội là nhiệm vụ quan trọng trong công tác tham
gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của MTTQ và các tổ chức đoàn thể.
Trong đó, giám sát đã được quy định trong Hiến pháp 1992 và trong một số văn
kiện của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước. Còn phản biện xã hội là chức
năng mới, vừa được xác định trong Văn kiện Đại hội X, XI của Đảng.
Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ
và các tổ chức đoàn thể là rất lớn. Trong đó, hoạt động giám sát chủ yếu dựa trên
3 hình thức:
- Tham gia giám sát với cơ quan quyền lực Nhà nước;
- Vận động nhân dân giám sát;
- Tự mình giám sát.
Thực tế những năm qua, MTTQ các cấp luôn chủ động thực hiện vai trò
giám sát thông qua việc tham gia với Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực
HĐND, các ban của HĐND các cấp giám sát việc chấp hành và thực hiện pháp
luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; tham gia việc tuyển chọn bổ nhiệm
Thẩm phán, Kiểm sát viên; giám sát công tác xét đặc xá. Động viên nhân dân
thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt
12



động Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng ở xã, phường,
thị trấn; tổng hợp kiến nghị của nhân dân để phản ánh cho các cơ quan có thẩm
quyền xem xét xử lý. Tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức vụ chủ chốt cấp xã
và trưởng thôn. Giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các
cấp; tổ chức các đoàn giám sát việc chấp hành thực hiện pháp luật ở một số cơ
quan, đơn vị; việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân… Qua đó, đã góp ý,
kiến nghị cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục các hạn chế thiếu sót
trong công tác điều hành, quản lý nhà nước và việc chấp hành pháp luật. Đặc biệt
là vai trò của mặt trận tổ quốc trong vấn đề phòng chống tham nhũng đã được cụ
thể hoá trong nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước. Nghị quyết đại hội XI của
Đảng ghi rõ: “Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và
các cơ quan thông tin đại chúng trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống
tham nhũng”. Điều 85 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định rõ vai trò, trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc về vấn đề này.
Ngày 21-4-2006, thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Luật Phòng,
chống tham nhũng, Mặt trận ban hành Nghị quyết số 03/NQ-MTTW về Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tham gia thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng.
Trong Nghị quyết này, Mặt trận đã triển khai nhiều nội dung và biện pháp
thực hiện cụ thể.
Thứ nhất, tổ chức tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân Luật Phòng,
chống tham nhũng.
Sau khi Nghị quyết số 03/NQ-MTTW của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam được ban hành, bước đầu Mặt trận đã tiến hành tuyên truyền
Luật trong các tầng lớp nhân dân. Trong quá trình đó, Mặt trận kết hợp nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân về vấn đề này để kịp thời phản ánh lên trên.
Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị, trình bày tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá

13



X, đã phản ánh sự ủng hộ, hoan nghênh của nhân dân đối với việc Đảng đưa ra
Nghị quyết về phòng, chống tham nhũng.
Thứ hai, thực hiện công tác giám sát để phòng, chống tham nhũng
Có thể nói, giám sát là hoạt động đạt được hiệu quả nhất trong công tác
phòng, chống tham nhũng của Mặt trận.
Để kịp thời nắm bắt được những điều nhân dân phản ánh, kiến nghị có liên
quan đến tham nhũng, Mặt trận các cấp bố trí cán bộ tiếp dân tại trụ sở và cử cán
bộ tham gia tiếp dân định kỳ cùng chính quyền. Trong quá trình tiếp dân, Mặt
trận kịp thời phát hiện những vụ việc có liên quan đến tham nhũng để trình lên
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Ngoài việc tiếp dân, Mặt trận còn tổ chức
hòm thư phát hiện tham nhũng. Thông qua hai hình thức này, nhiều vụ việc tiêu
cực do nhân dân phát hiện đã được Mặt trận chuyển đến các cơ quan hữu quan
xem xét.
Trong công tác giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan Nhà nước. Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn đã tích cực
phát huy vai trò của mình. Nhiều nơi Ban Thanh tra nhân dân hoạt động tích cực,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nên được nhiều cá nhân, tổ chức liên quan
ở địa phương cung cấp thông tin, tài liệu về việc khiếu nại, tố cáo, giúp cho công
tác giám sát được tốt hơn. Thông qua việc tích cực tham gia giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo, Mặt trận góp phần hạn chế tham nhũng.
Ngoài công tác giám sát, Mặt trận các cấp còn thực hiện việc quản lý kinh
tế trong chính đơn vị mình, quản lý tốt các nguồn quỹ do nhân dân đóng góp để
xoá đói, giảm nghèo, ủng hộ đồng bào bị thiên tai... Mặt trận thường xuyên tập
hợp, kiến nghị bức xúc của nhân dân, qua đó phát hiện những hành vi tiêu cực,
đề nghị với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Trong quá trình thực
hiện công tác hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu
14



Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận kiên quyết loại khỏi
danh sách hiệp thương đối với những người đã phát hiện có vi phạm chính sách,
pháp luật, tham nhũng, vi phạm đạo đức, lối sống. Để khuyến khích nhân dân
phát hiện, Mặt trận kiến nghị Nhà nước có cơ chế bảo vệ những người dũng cảm
tố cáo chính xác những hành vi tham nhũng.
1.3. Những giải pháp nâng cao vai trò giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận tổ quôc
Một là, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò của MTTQ trong điều
kiện một Đảng cầm quyền với yêu cầu xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Chỉ đạo, phối hợp và tạo điều kiện để MTTQ và các đoàn thể ở địa phương
tổ chức thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội. Các tổ chức, cá
nhân khi nhận sự phản biện cần có thái độ cầu thị, tin tưởng, tiếp thu ý kiến phản
biện đúng, dũng cảm nhận khuyết điểm và sửa chữa sai lầm nếu có.
Hai là, để giám sát và phản biện xã hội có chất lượng và hiệu quả, thì chủ
thể giám sát và phản biện phải mạnh, phải có bản lĩnh, có trình độ chuyên môn,
có năng lực nhìn nhận, phân tích, đánh giá vấn đề. Vì vậy, các cấp ủy đảng cần
quan tâm làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ có tâm, có tầm làm
công tác Mặt trận và các đoàn thể. Chú trọng cán bộ trẻ, có năng lực, trình độ cả
về chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị. Chỉ có xác định đúng đắn nhu cầu
cán bộ mới có thể chủ động tạo nguồn cán bộ, tránh được tình trạng chắp vá
hoặc điều động cán bộ một cách chủ quan, tuỳ tiện.
Bên cạnh đó, cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, khuyến khích những người
có tâm, có tầm vào làm việc. Mặt khác, các cấp ủy đảng và chính quyền cần có
thái độ thực sự cầu thị trong việc lắng nghe ý kiến góp ý của Mặt trận và các
đoàn thể. Nói cách khác, chỉ khi nào các cấp ủy đảng và chính quyền từ Trung
ương đến địa phương thực sự xem Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là lực

15



lượng giám sát và phản biện tích cực, thì khi ấy tính chính xác và khả năng thực
thi đầy đủ những chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước vào trong đời
sống xã hội mới được đảm bảo.
Ba là, thực hiện tốt mối quan hệ giữa tổ chức Đảng, chính quyền với
MTTQ và các đoàn thể. Cần xây dựng quy chế và xác định rõ mối quan hệ giữa
Đảng với Mặt trận. Đảng phải đặt trong mối quan hệ vừa là người lãnh đạo của
Mặt trận, đồng thời là thành viên của Mặt trận. Chỉ có xác định đúng mối quan
hệ đó mới tạo điều kiện để MTTQ và các đoàn thể thực hiện tốt chức năng giám
sát và phản biện xã hội. Xây dựng cơ chế thích hợp nhằm phát huy vai trò của
các tổ chức thành viên, nhân sĩ, trí thức, Hội đồng tư vấn vào hoạt động phản
biện xã hội. Quy định cụ thể và đầy đủ về quyền hạn, trách nhiệm của MTTQ
đối với các tổ chức thành viên; về trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền đối với
những kiến nghị, phản ánh của MTTQ và của nhân dân trong quá trình giám sát
phản biện. Như vậy, MTTQ mới thể hiện đúng và đầy đủ vai trò là tổ chức liên
minh chính trị rộng lớn, đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất.
Để hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể phát huy
hiệu quả, nhất thiết phải có một hệ thống cơ chế đầy đủ, đủ mạnh. Vì vậy, đề
nghị Quốc hội trong sửa đổi Hiến pháp và Luật MTTQ Việt Nam lần này phải có
những sửa đổi, bổ sung cơ bản về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của MTTQ
và các tổ chức đoàn thể. Sớm xây dựng và ban hành luật về giám sát của nhân
dân. Đánh giá đúng thực trạng để bổ sung hoàn chỉnh các quy định pháp luật để
MTTQ và các tổ chức đoàn thể thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã
hội trong thực tế.
Năm là, muốn giám sát và phản biện được, MTTQ Việt Nam phải giữ
được một vị thế của một chủ thể giám sát và phản biện xã hội độc lập. Do đó,
Đảng và Nhà nước cần tạo cho Mặt trận thực sự có được vị trí tương đối độc lập,
16



không còn lệ thuộc nhiều vào Nhà nước về tổ chức, cán bộ và tài chính. Có quy
định cụ thể về việc biểu dương khích lệ những người làm tốt công tác giám sát,
phản biện, bảo vệ những người trung thực, thẳng thắn trong đấu tranh giám sát,
phản biện.
Giám sát và phản biện xã hội là trách nhiệm của MTTQ và tổ chức đoàn
thể đối với dân, với Đảng. Đảng là thành viên lãnh đạo của Mặt trận, Đảng cần
tạo mọi điều kiện để Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ lịch sử: đưa giám sát và phản
biện xã hội vào cuộc sống, trở thành một nếp sinh hoạt thường xuyên ở mọi nơi
trong cả nước.

17


KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu vai trò của mặt trận tổ quốc trong phòng chống tham
nhũng ở nước ta đã cho thấy được tổng quan về thực trạng tham nhũng và những
vấn đề lý luận đặt ra Đảng và nhà nước ta những biện pháp khắn phục trong đó
vai trò của mặt trận tổ quốc được nâng cao cả về mặt lý luận và thực tiễn. Qua đề
tài cho thấy một phần lớn số vụ tham nhũng mặt trận tổ quốc phát hiện, kiến
nghị các cấp giải quyết nhưng trên thực tế vẫn chưa thấm vào đâu so với thực
trạng chung và yêu cầu đặt ra cho

18


MỤC LỤC

19




×