Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

vai trò giám sát phản biện xã hội là quan trọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.73 KB, 19 trang )

LỜI GIỚI THIỆU

Hiện nay, giám sát và phản biện xã hội là một trong những vấn đề đang
được các nhà nghiên cứu quan tâm. Quan sát cuộc sống chúng ta có thể thấy
giám sát và phản biện là một hoạt động diễn ra hàng ngày. Phản biện là một nhu
cầu của cuộc sống bởi nhờ có nó con người có thể loại bỏ những yếu tố sai để
tiệm cận tới sự hợp lý trong các quyết định, các hành vi của mình. Trong khoa
học, phản biện cũng là một trong những cách thức chủ yếu để các nhà nghiên
cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học. Còn trong đời sống xã hội giám sát và
phản biện là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ. Phản
biện xã hội là một vấn đề hoàn toàn không mới, loài người đã làm quen với khái
niệm này từ rất sớm và biến nó trở thành công cụ hữu hiệu để tạo ra nền dân
chủ, tạo sự phát triển về chính trị của nhiều quốc gia tiên tiến. Trong thời đại
ngày nay, phản biện xã hội là một trong những vấn đề hệ trọng, cần nghiên cứu,
nhất là đối với các quốc gia đi sau, các quốc gia đang phấn đấu cho nền dân chủ.

I. MỞ ĐẦU
1


Trong Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng, khi nói về vấn
đề tiếp tục "đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng", Đảng ta đã đề cập đến vấn đề "xây dựng quy chế giám
sát, phản biện xã hội" của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định
lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán
bộ.
Gần đây, vấn đề phản biện xã hội được nhiều nhà nghiên cứu, chính trị
gia và nhiều nhà hoạch định chính sách quan tâm.Vậy, đó có phải là một yêu cầu
của thực tế, một xu thế khách quan? Cần quan niệm về phản biện xã hội như thế
nào? Đó là những vấn đề đang được đặt ra. Phản biện xã hội là phát huy dân chủ


và quyền làm chủ của nhân dân, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc
tham gia quản lý nhà nước... Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách
nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Phản biện xã hội là nhu cầu cần thiết đòi hỏi bắt buộc của quá trình
lãnh đạo và điều hành đất nước, khắc phục tệ quan liêu... và tư duy mổ xẻ vấn đề
dưới nhiều chiều cạnh. Trong khoa học lý luận có thể khẳng định, chính quá
trình phê phán và phản biện đã góp phần rất lớn vào sự hình thành, phát triển
của chủ nghĩa Mác - Lênin - một học thuyết lý luận khoa học và cách mạng.
Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa Mác được phát triển trong phê phán và đấu tranh.
Qua đó, có thể xem đấu tranh, tranh biện - phản biện nhìn dưới giác độ triết học
như là mặt đối lập của một chỉnh thể thống nhất. Nội dung bài tiểu luận này sẽ
giải quyết vấn đề quan trọng của giám sát và phản biện xã hội trong hệ thống
chính trị Việt Nam.

II. NỘI DUNG
2


Cho đến nay, chưa có những công trình tổng kết thực tiễn phản biện xã
hội để khái quát thành lý luận, hoặc được định nghĩa ở từ điển. Nếu chiết tự theo
nghĩa Hán - Việt thì chữ phản có 5 nghĩa: nghĩa thứ nhất là trái, đối lại với chữ
chính (bên kia mặt phải là mặt trái); nghĩa thứ hai là trả lại, trở về; nghĩa thứ ba
là nghĩ, xét lại (như "Cử nhất nguy dĩ tam ngung phản", tức là "Cất một góc thì
nghĩ thấu ba góc kia" hay như tự phản = tự xét lại mình); nghĩa thứ tư là trở,
quay (như phản thủ = trở tay) và nghĩa thứ năm là trái lại, phản đối, trái lại
không chịu (một âm là phiên, nghĩa là lật lại, ví dụ, phiên án nghĩa là lật lại án,
không cho rằng xử như thế là đúng). Chữ biện là phân tích (nếu gắn chữ phản
với chữ biện có nghĩa là xét các sự vật rồi phân định ra xấu, tốt. Vì thế mới có
câu "kẻ ngu gọi là bất biện thúc mạch - Không phân biệt lúa, đỗ"). Nó cùng
nghĩa với chữ tranh biện, biện bác - một lối tranh biện về sự - lý.

Theo cách cắt nghĩa trên, nếu gắn kết chữ phản với chữ biện, ta có thể
hiểu Phản biện là đặt lại, xét lại hoặc tự xét lại một sự việc, một vấn đề trên cơ
sở những lập luận, phân tích khách quan, khoa học có sức thuyết phục nhằm
phân định rõ cái tốt với cái xấu, cái đúng với cái sai, cái được khẳng định với cái
phải phủ định, cái được với cái chưa được, cái hoàn thiện với cái chưa hoàn
thiện... Mục đích của phản biện xã hội là nhằm đáp ứng đúng những yêu cầu tất
yếu, khách quan do cuộc sống đặt ra; đưa sự việc, vấn đề trở về đúng với chân
giá trị của nó. Cái giá trị đó là kết quả của một quá trình nhận thức biện chứng
và có ý nghĩa như một chân lý khách quan.
1. Khái niệm hệ thống chính trị, đặc trưng phản biện xã hội và so
sánh với một vài khái niệm có liên quan
Hệ thống chính trị, tổng thể các tổ chức thực hiện quyền lãnh đạo, quản
lý, thực hiện quyền lực chính trị được xã hội và pháp luật thừa nhận. Hệ thống
chính trị của một quốc gia, một chế độ có chức năng, nhiệm vụ thực hiện mục
tiêu chính trị, lợi ích của quốc gia, dân tộc, của giai cấp và đảng chính trị cầm
quyền và thể hiện nền dân chủ tương ứng. Ở Việt Nam, thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đã xóa bỏ nhà nước phong kiến và chính quyền
thuộc địa thiết lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước cách
mạng kiểu mới. Hệ thống chính trị từ năm 1945 bao gồm Đảng Cộng sản cầm
quyền, Nhà nước cộng hòa dân chủ, tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất (Việt
Minh, Liên Việt) và các đoàn thể quần chúng. Trong thời kỳ miền Bắc quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (năm 1954-1975) và cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội
(năm 1975-1986) với vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản và Nhà nước thực
3


hiện chức năng, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, đó là hệ thống chuyên chính
vô sản.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được thực hiện từ Đại hội VI Đảng
Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) trong đó có đổi mới sự lãnh đạo của Đảng,

vai trò quản lý của Nhà nước và chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội.
Thuật ngữ hệ thống chính trị được chính thức sử dụng từ Nghị quyết Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (tháng 3/1989) và cơ cấu
tổ chức hệ thống chính trị được ghi trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6/1991) và bổ sung, phát triển năm
2011.
Phản biện xã hội, theo nghĩa từ ngữ, phản có nghĩa là nghĩ, xét
lại, biện là phân tích, biện luận. Nếu gắn phản với biện có nghĩa là phân
định xấu, tốt, trên cơ sở phân tích, biện luận. Theo nghĩa trên, có thể hiểu phản
biện là đặt lại, xét lại một sự việc, một vấn đề trên cơ sở lập luận, phân tích một
cách khách quan khoa học có sức thuyết phục, nhằm phát hiện hoặc đưa các
chính kiến trở về đúng giá trị của nó. Ban đầu khái niệm phản biện thường dùng
để nhận xét, đánh giá chất lượng một công trình khoa học, sau đó dần mở rộng
ra lĩnh vực chính trị - xã hội.
Phản biện xã hội là sự phản tư của các lực lượng xã hội đối với những
kiến tạo chính sách, thể chế... trực tiếp liên quan đến quyền lợi của các thành
viên trong cộng đồng, từ đó giúp các cơ quan hữu quan điều chỉnh chủ trương,
chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Như vậy, về bản chất, phản biện
xã hội là sự tương tác, giao thoa về quan điểm, tư tưởng giữa các lực lượng
(chính trị, kinh tế, xã hội) trong một cộng đồng. Do đó, thực tiễn và chất lượng
của hoạt động phản biện nói lên tính chất tiến bộ, trình độ dân chủ, văn minh
của cộng đồng. Nghiên cứu phản biện xã hội, vì vậy, không thuần túy là nghiên
cứu một hiện tượng mang tính liên chủ thể (chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội)
mà còn tạo tiền đề để đánh giá những vấn đề cốt yếu, nền tảng của toàn bộ hệ
thống xã hội.
Thời gian gần đây, khi phản biện xã hội được nêu ra và thu hút sự quan
tâm rộng rãi của dư luận thì đã xuất hiện nhiều sự giải thích nội hàm của khái
niệm này, như: Phản biện xã hội là đưa ra các lập luận, phân tích nhằm phát
hiện, chứng minh, khẳng định, bổ sung hoặc bác bỏ một đề án, dự án xã hội đã
được hình thành và công bố trước đó, cơ sở lý thuyết cho khái niệm phản biện

4


xã hội bằng việc phân tích một số điểm cốt lõi của khái niệm phê bình/phê phán
xã hội (social criticism). Phản biện góp phần điều chỉnh các khuynh hướng kinh
tế, văn hóa, chính trị, làm cho các khuynh hướng đó trở nên khoa học hơn, đúng
đắn hơn và gần gũi với đời sống con người hơn. Phản biện là hoạt động cung
cấp các thông tin, tư liệu cùng các ý kiến phân tích, đánh giá tính khả thi và các
kiến nghị về sự phù hợp của nội dung đề án đối với mục tiêu và các điều kiện
ràng buộc ban đầu hoặc thực trạng đặt ra. Phản biện xã hội là sự phản biện nói
chung, nhưng có quy mô và lực lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân, và
các nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên
quan.
Từ nhiều khái niệm trên có thể rút ra những đặc trưng chung nhất của
phản biện xã hội như sau:
Một là, phản biện là một hoạt động phân tích độc lập. Đây là một yếu tố
rất quan trọng bảo đảm tính khách quan và chính kiến của chủ thể phản biện.
Mất đi yếu tố này thì phản biện sẽ giảm hoặc không còn giá trị. Phản biện xã hội
là xem xét, phân tích, lập luận các mặt khác nhau của một vấn đề để tiệm cận
chân lý. Đó là đặc điểm chung giống như mọi loại phản biện khác. Phản biện xã
hội được tiến hành bởi lực lượng xã hội, thông qua các tổ chức xã hội được hình
thành theo nguyên tắc tự lập, tự nguyện, tự dưỡng; hoặc được tiến hành một
cách trực tiếp bởi các thành viên của xã hội. Phản biện xã hội nhằm vào mọi lĩnh
vực hoạt động diễn ra trong đời sống xã hội, từ khâu hoạch định đến khâu tổ
chức thực hiện mọi chủ trương, chính sách, pháp luật, bao gồm cả sự việc liên
quan đến bộ máy tổ chức và con người thực hiện.
Từ luận giải nêu trên có thể rút ra: Phản biện xã hội là sự phản ánh chính
kiến của xã hội đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật do hệ thống lãnh
đạo, quản lý đề ra, thể hiện qua những nhận xét, đánh giá, phân tích có căn cứ và

có sức thuyết phục, được thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các chủ
thể phản biện; có chức năng chuyển tải nhu cầu, nguyện vọng của xã hội đến hệ
thống lãnh đạo và quản lý. Phản biện xã hội có tác dụng thúc đẩy nền dân chủ xã
hội và củng cố thể chế xã hội. Hình thức phản biện xã hội tùy thuộc vào truyền
thống văn hóa chính trị, trình độ tổ chức xã hội của từng nơi, từng thời kỳ lịch
sử.

5


Hai là, để hiểu rõ hơn khái niệm phản biện xã hội, có thể so sánh với một
vài khái niệm có liên quan nhưng dễ bị lẫn lộn hay ngộ nhận. Thí dụ:
- Trưng cầu dân ý (Hiến pháp 1946 gọi phúc quyết toàn dân). Trưng cầu
dân ý là việc nhà cầm quyền hỏi để người dân trả lời, còn phản biện xã hội là
việc để cho nhân dân nhận xét đánh giá, góp ý với người lãnh đạo và quản lý
nhằm tìm ra phương án tốt nhất có lợi cho nhân dân. Với trưng cầu dân ý, nhân
dân bày tỏ chính kiến (đồng ý hay không đồng ý) đối với phương án đưa ra mà
không cần tranh luận, còn phản biện xã hội phải thông qua tranh luận mới đi đến
quyết định đồng ý hay không đồng ý. Do đó, phản biện xã hội thể hiện trình độ
phát triển cao của nền dân chủ và chỉ đạt được chất lượng tốt khi có sự chuẩn bị
một cách chu đáo. Trưng cầu dân ý chỉ thật sự có tác dụng khi người dân có đầy
đủ thông tin cần thiết về vấn đề được hỏi ý kiến. Nếu thiếu minh bạch thông tin,
thì trưng cầu dân ý chỉ là sự trả lời phương án (đồng ý hay không đồng ý) mà
người dân không ý thức được đầy đủ sự đúng - sai của phương án đã lựa chọn,
không lường được những hậu quả bởi quyết định lựa chọn của bản thân mình.
- Phản bác: Phản biện có nội hàm rộng hơn so với phản bác. Trong quá
trình phản biện có thể đi đến phản bác, nhưng phản biện không chỉ là để phản
bác mà phản biện còn đi đến bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh, và khẳng định cái
đúng, cái hay, cái ưu điểm trong những vấn đề được phản biện mà tác giả của nó
nhiều khi chưa tự thấy rõ. Do đó, phản biện với ý nghĩa đúng đắn và toàn diện,

kể cả phải sử dụng đến phương án phản bác, thì nó vẫn mang động cơ xây dựng.
- Phản kháng: Phản biện xã hội không phải là sự phản kháng mà là nhằm
lựa chọn phương án tốt nhất. Phản kháng là hoạt động chống đối nhằm đả kích,
gạt bỏ phương án xã hội được đưa ra, do có sự đối lập về mục tiêu và bản chất
xã hội. Phản kháng không chỉ là việc đối chọi về lập luận, ý kiến, mà còn thể
hiện ở nhiều hình thức khác. Phản biện xã hội và phản kháng xã hội tuy khác
nhau về bản chất, nhưng đôi khi lại có quan hệ với nhau. Phản kháng xã hội có
thể xảy ra nếu không làm tốt phản biện xã hội. Phản biện xã hội là một giải pháp
để phát hiện mâu thuẫn và hóa giải mâu thuẫn, tạo nên sự đồng thuận xã hội,
phòng ngừa nguy cơ xảy ra phản kháng xã hội. Do vậy, có thể nói rằng nếu
khước từ phản biện xã hội hay không làm tốt phản biện xã hội thì sẽ tạo mầm
mống cho phản kháng xã hội.
Ranh giới giữa phản biện xã hội và phản kháng xã hội có thể phân biệt về
mặt học thuật, nhưng trong thực tế biểu hiện của chúng thì phức tạp hơn nhiều.
6


Phản biện xã hội có tính xây dựng, nhưng trong những trường hợp, tình huống
cụ thể bị lợi dụng để phục vụ cho các hoạt động phản kháng, ít nhất là trong việc
tập hợp lực lượng, tạo tình huống chính trị, gây áp lực dư luận xã hội.
Từ khái niệm trên cho thấy phản biện xã hội là một hoạt động không thể
tiến hành một cách giản đơn, ngẫu hứng hoặc chủ quan, duy ý chí. Phản biện xã
hội đòi hỏi phải có mục đích rõ ràng, đúng đắn, có trách nhiệm chính trị cao; đòi
hỏi trình độ, năng lực trí tuệ và trình độ, năng lực tổ chức; đòi hỏi phải có
phương pháp khoa học và phù hợp với thực tiễn. Những yêu cầu đó phải được
bảo đảm bằng một cơ chế thích hợp để hoạt động phản biện xã hội phát huy tốt
vai trò tích cực của nó.
2. Vai trò quan trọng của giám sát, phản biện xã hội trong hệ thống
chính trị Việt Nam
Giám sát, phản biện xã hội là hai công tác hết sức quan trọng. Trên thế

giới, nước nào cũng vậy, đặc biệt là đối với những nước chỉ có một Đảng duy
nhất lãnh đạo, đều rất coi trọng công tác giám sát, phản biện xã hội. Trước đây,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã thực hiện việc giám
sát, phản biện xã hội, nhưng chưa thường xuyên và chưa có văn bản nào quy
định cụ thể nên hiệu quả còn rất hạn chế. Vì đây là công tác cần thiết, rất quan
trọng, nên ngày 12 tháng 12 năm 2013, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban
hành Quyết định số 217-QĐ/TW về Quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Như vậy, từ đây giám
sát và phản biện xã hội trở thành một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Vai trò
quan trọng của giám sát, phản biện xã hội trong hệ thống chính trị Việt nam
được thể hiện ở một số nội dung sau:
Một là, phản biện xã hội giúp điều tiết xung đột lợi ích giữa các nhóm xã
hội để tạo ra đồng thuận xã hội
Giám sát, phản biện xã hội mang tính nhân dân, tính dân chủ, tính xây
dựng, và tính khoa học. Giám sát, phản biện xã hội có vai trò rất to lớn. Xã hội
là một tập hợp của nhiều nhóm lợi ích, ở đó, mỗi nhóm theo đuổi một chiến lược
sinh tồn riêng. Trong quá trình phát triển, các nhóm có nguy cơ mâu thuẫn về
quyền lợi, dẫn đến những ẩn ức, ức chế xã hội (trong trường hợp không được
giải tỏa); cao hơn, có thể dẫn đến các hoạt động chống đối, bạo lực, gây nên tình
trạng căng thẳng xã hội thường trực, thậm chí là tiền đề cho các cuộc khủng
7


hoảng chính trị - xã hội trên diện rộng. Giám sát góp phần thực hiện đúng các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các
chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng; kịp thời
phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém để kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp; phát hiện những nhân tố mới, những mặt tích cực để kịp thời phổ biến
nhân rộng, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, làm

cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát,
chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà
nước, đoàn thể… ; Từ đó kiến nghị bổ sung, sửa đổi những nội dung thiết thực,
góp phần đảm bảo tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội và đảm
bảo tính hiệu quả; đồng thời góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, các lực lượng xã hội
sẽ tìm ra một giải pháp thích đáng để giải quyết mâu thuẫn. Xã hội đã được bổ
sung một cơ chế đối thoại, phản biện để điều hòa mâu thuẫn, cân đối lợi ích giữa
các nhóm liên quan. Nếu chúng ta xem xã hội như một chỉnh thể toàn vẹn thì
vận động xã hội là quá trình trao đổi liên tục các dòng năng lượng/dòng vốn
(hiểu theo nghĩa rộng) giữa các lực lượng xã hội. Mâu thuẫn/xung đột xã hội sẽ
làm gián đoạn phương thức luân chuyển năng lượng này cho đến khi cơ chế đối
thoại, phản biện xã hội xuất hiện. Nếu trưng cầu dân ý là đi tìm sự đồng thuận
đơn giản thì phản biện là đi tìm sự đồng thuận có chất lượng khoa học. Đấy là sự
khác nhau về chất lượng giữa phản biện và hỏi ý kiến nhân nhân. Để có được sự
đúng đắn thì trong mọi quyết sách nhà nước phải đo sự đồng thuận của xã hội
thông qua phản ứng của nhân dân. Để đo được tính đồng thuận xã hội cần phải
xây dựng thiết chế cho nó trước, nếu nhân dân chưa biết gì về dân chủ thì không
thể trưng cầu ý kiến nhân dân về dân chủ. Trong một xã hội không dân chủ thì
nhân dân không có trách nhiệm, mỗi một người không có trách nhiệm mà chúng
ta lấy ý kiến của những người không có trách nhiệm thì ý kiến ấy cuối cùng
phản ánh cái gì? Đấy chính là căn cứ để các nhà chính trị bỏ qua ý kiến của nhân
dân.
Sở dĩ không có sự đồng thuận trong các xã hội không phát triển là do
người ta vẫn nhầm lẫn giữa phản biện và hỏi ý kiến nhân dân. Muốn có sự đồng
thuận có chất lượng, chúng ta buộc phải xây dựng thiết chế phản biện. Phản biện
xã hội góp phần tái tạo, phục hồi trạng thái cân bằng vốn đã bị phá vỡ trước đó,
mở đường cho trạng thái đồng thuận xã hội xuất hiện. Khi một xã hội trở nên
8



đồng thuận, bản thân nó đã tự tạo cho mình những tiền đề phát triển mới. Các
chính sách trước khi thực hiện không những cần phải được đo đạc rất cẩn thận,
mà còn phải được xử lý về mặt số liệu, từ đó chúng ta mới có được những chính
sách phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống. Sẽ rất mất thì giờ nếu chúng ta chỉ biểu
diễn sự đồng thuận bằng các phương pháp trưng cầu dân ý một cách không
chuyên nghiệp. Vì đồng thuận xã hội là điều kiện cần để phát triển các nguồn
vốn cộng đồng, mở rộng mạng lưới xã hội mà ở đó, các thành viên dễ dàng
tương tác với nhau nhờ cùng chia sẻ những niềm tin và giá trị chung, góp phần
nâng cao chất lượng đời sống xã hội.
Hai là, phản biện xã hội là một hoạt động khoa học
Phản biện là một hành vi xác định tính khoa học của hành động của con
người, xuất hiện khi con người chuẩn bị hành động. Phản biện làm cho mỗi một
hành vi được tiến hành trên cơ sở có một sự xác nhận có chất lượng khoa học
đối với nó. Nếu không có phản biện có nghĩa là con người mặc nhiên hành động
mà không thèm đếm xỉa đến sự xác nhận của xã hội về tính phù hợp, tính đúng
đắn của hành động đó. Phản biện xã hội là một khái niệm chính trị, là biểu hiện
đặc trưng chuyên nghiệp nhất của cái gọi là đời sống dân chủ. Phản biện trong
một xã hội dân chủ là môt loại "phản hành động" ("phản hành động" chứ không
phải là "phản động"). Nó xuất hiện song song cùng với các hành động, và có
biểu hiện phản biện với các hành động đó.
Trong mỗi một xã hội bao giờ cũng có nhiều nhóm lợi ích khác nhau. Các
nhóm lợi ích bao giờ cũng có nhu cầu tiến hành hành động vì một mục tiêu nào
đó, nên mỗi khía cạnh hay mỗi lĩnh vực của đời sống con người bao giờ cũng có
những cách lý giải khác nhau và do đó có những cách hành động khác nhau để
đạt được mục tiêu. Phản biện tạo ra một giai đoạn đệm cho quá trình hành động
tự nhiên của các nhóm lợi ích, đó là giai đoạn thảo luận và thỏa thuận. Phản biện
làm cho các hành vi chính trị, kinh tế và xã hội trở nên ít chủ quan hơn, tức là sự
xung đột của các nhóm lợi ích đã được điều chỉnh thông qua thảo luận và thoả

thuận. Nói cách khác, phản biện làm cho những cuộc xung đột trên thực tế trở
thành cuộc xung đột của thảo luận, tức là biến sự xung đột lợi ích trong hành
động thành các xung đột lợi ích trong thảo luận.
Nếu một xã hội không có phản biện và mỗi hành động đều được đương
nhiên tiến hành thì đấy là cách thể hiện rõ rệt nhất tính chất phi dân chủ của xã
hội. Bởi vì mỗi một hành động chính trị bao giờ cũng là kết quả thỏa thuận của
9


các khuynh hướng chính trị, một hành động chính trị chỉ có thể được tiến hành
khi nó là sự thúc bách của nhu cầu đời sống và để cân đối các nguyện vọng khác
nhau của đời sống. Ví dụ trong đời sống hằng ngày của tôi chẳng hạn, nếu tôi
luôn cố gắng tạo ra các không gian chính trị trong khuôn khổ tổ chức mình để
các phản biện được thực hiện một cách tự nhiên thì chính các phản biện này sẽ
làm cho các hành động của tôi trở nên có chất lượng khoa học và do đó kéo theo
cả chất lượng chính trị của chúng, làm cho các hành động ấy trở nên đúng đắn.
Chính vì vậy, để có một xã hội có chất lượng hành vi đúng đắn cần phải khẳng
định tầm quan trọng của các hoạt động phản biện. Phản biện là một đòi hỏi
khách quan của đời sống. Nói một cách khái quát, phản biện là một thể hiện của
các phản hành động xuất hiện một cách tự nhiên trong một xã hội mà ở đó mỗi
con người đều tự do bày tỏ các nguyện vọng của mình. Phản biện góp phần điều
chỉnh các khuynh hướng kinh tế, văn hoá, chính trị, làm cho các khuynh hướng
đó trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời sống con người hơn.
Cho đến lúc này, ở nhiều nơi, trong một số hệ thống chính trị dường như
vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về cái gọi là phản biện. Tất nhiên, trong
bất cứ một hệ thống chính trị nào người ta cũng không thể bỏ qua nhân dân
được, cho nên tất cả mọi chính sách trong khi xây dựng đều được hỏi ý kiến
nhân dân. Nhưng hỏi ý kiến nhân dân là việc trưng cầu dân ý một cách không
chuyên nghiệp và hoàn toàn không phải là phản biện. Phản biện là một hoạt
động khoa học, phản biện là tranh luận một cách khoa học chứ không phải là hỏi

xem anh có đồng ý với tôi hay không. So với trưng cầu dân ý, phản biện hoàn
toàn khác về chất. Trưng cầu dân ý là hỏi dân. Phản biện không phải là hỏi dân.
Phản biện không phải là nhân dân trả lời, mà là nhân dân nói tiếng nói của mình
được chuẩn bị một cách chuyên nghiệp bằng trí tuệ, bằng sự thông hiểu lẫn cả
dự đoán về sự xung đột lợi ích khi tiến hành một hành động xã hội. Về bản chất
chính trị, phản biện là một quyền tự do được xây dựng trên cơ sở quyền tự do
ngôn luận. Nếu không xác lập quyền phản biện tức là quyền tự do ngôn luận mà
trưng cầu dân ý thì chỉ có hai khả năng: gật và lắc. Nhưng cả gật và lắc đều diễn
ra trong im lặng. Im lặng không phải là ngôn luận. Ngôn luận là bày tỏ ý kiến
một cách có hệ thống và có cơ sở khoa học. Đấy là một hoạt động của xã hội
dân chủ, nhưng không phải là sinh hoạt cộng đồng đơn giản mà là hoạt động
thông qua một hệ thống tranh luận chuyên nghiệp.

10


Ba là, phản biện xã hội góp phần khắc phục những khiếm khuyết của các
kiến tạo chính sách - thể chế, qua đó nâng cao chất lượng quản trị của bộ máy
nhà nước
Khi hoạt động phản biện diễn ra, người ta hiểu rằng, trước đó, đã tồn tại
một số vấn đề nhất định trong sự kiến tạo chính sách của cơ quan nhà nước
chuyên trách công việc này và khiếm khuyết ấy có thể làm cho bản thân chính
sách, quyết định đó trở nên bất khả thi khi áp dụng vào điều kiện thực tế - không
loại trừ khả năng gây nên những hiệu ứng tiêu cực cho các đối tượng trực tiếp
của chúng, chẳng hạn các cộng đồng dân tộc thiểu số hay các nhóm dân cư nông
thôn. Cho nên, phản biện xã hội thực chất là đưa ra một cách nhìn khác của cộng
đồng đối với chất lượng và triển vọng của chính sách vừa được ban hành - một
cách nhìn khách quan hơn so với cách nhìn mang tính chủ quan của người trong
cuộc. Hơn nữa, vì đại diện cho trí tuệ và lương tâm cộng đồng, nên cách nhìn
phản biện này cũng hàm chứa tinh thần mới mẻ, khoa học và thực tiễn.

Trong ý nghĩa tích cực của nó, giám sát, phản biện xã hội không có mục
đích phủ định sạch trơn hay tìm cách đánh đổ kiến tạo chính sách của cơ quan
công quyền. Ngược lại, nó giúp cơ quan kiến tạo chính sách nhận ra những vết
rạn hay lỗ hỏng của bản thân chính sách, kể cả việc đề xuất các hướng đi hay
giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế ấy. Nói một cách hình ảnh, phản biện
xã hội vạch ra một ranh giới cho sự vận động của chính sách: bên này là khả thi,
bên kia là bất khả thi, để phân biệt đâu là quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Tất nhiên, phản biện xã hội không phải là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi
vấn đề. Nhưng, khi một kiến tạo chính sách đặt ra nhu cầu phản biện thì các hoạt
động phản biện bao giờ cũng mang đến nhiều lựa chọn hơn cho người ra chính
sách.
Trở lại vấn đề, giám sát, phản biện xã hội đưa đến một tác động kép: một
mặt, nó trực tiếp nâng cao tính hiệu quả của quá trình lập định chính sách; mặt
khác, từng bước thay đổi tư duy kiến tạo chính sách, kể cả tư duy quản lý của
giới kỹ trị theo hướng bám sát thực tiễn hơn.
Bốn là, giám sát, phản biện xã hội góp phần nâng cao trách nhiệm xã hội
của cộng đồng, phát triển ý thức về quyền và nghĩa vụ của người công dân, qua
đó từng bước hình thành môi trường xã hội dân chủ, tiến bộ.
Do bản chất xã hội của nó, các hoạt động giám sát, phản biện xã hội
thường gây ảnh hưởng đáng kể lên đời sống cộng đồng. Trong thời đại bùng nổ
11


thông tin ngày nay, vai trò tích cực của cộng đồng truyền thông càng giúp đẩy
mạnh tạo ra một trường tương tác xã hội (social interaction sphere) giữa cộng
đồng trí thức (phát hiện và lý giải vấn đề), cộng đồng truyền thông và cộng đồng
xã hội hưởng ứng thông tin và hình thành dư luận. Quá trình tương tác ấy phá vỡ
sự tồn tại khép kín của cá nhân, nối kết cá nhân với cộng đồng rộng lớn bên
ngoài, từ đó giúp họ hình thành nên tính năng động xã hội - một phẩm chất
không thể thiếu của người công dân hiện đại. Bởi vậy, diễn trình của hoạt động

phản biện thường đi từ quan điểm của một nhóm hạt nhân ban đầu rồi lan tỏa
dần ra cộng đồng. Thông qua quá trình này, cộng đồng dần nắm bắt được căn
nguyên xuất hiện của hoạt động phản biện, từ đó dấy lên nhu cầu quan tâm,
nhận thức vấn đề đang được đặt ra. Dư luận xã hội sẽ được hình thành trong
điều kiện đó. Dư luận này một mặt hậu thuẫn cho nhóm hạt nhân trực tiếp tham
gia phản biện, mặt khác, ít nhiều tác động tới quan điểm, thái độ của giới quy
hoạch chính sách - giúp họ có thêm thông tin đầu vào từ phía cộng đồng.
3. Phản biện xã hội sẽ tạo điều kiện nền tảng để hình thành hệ thống
thể chế chính trị minh bạch, dân chủ, tiến bộ
Kinh nghiệm quốc tế và trong nước ngày càng cho thấy rằng, hệ thống
chính trị ổn định có vai trò đòn bẩy đối với tốc độ và chất lượng phát triển của
toàn xã hội. Cần xây dựng quy chế và xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng với
Mặt trận. Đảng phải đặt trong mối quan hệ vừa là người lãnh đạo của Mặt trận,
đồng thời là thành viên của Mặt trận. Chỉ có xác định đúng mối quan hệ đó mới
tạo điều kiện để MTTQ (Mặt trận Tổ quốc) và các đoàn thể thực hiện tốt chức
năng giám sát, phản biện xã hội. Xây dựng cơ chế thích hợp nhằm phát huy vai
trò của các tổ chức thành viên, nhân sĩ, trí thức vào hoạt động phản biện xã hội.
Quy định cụ thể và đầy đủ về quyền hạn, trách nhiệm của MTTQ đối với các tổ
chức thành viên; về trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền đối với những kiến
nghị, phản ánh của MTTQ và của nhân dân trong quá trình giám sát phản biện.
Như vậy, MTTQ mới thể hiện đúng và đầy đủ vai trò là tổ chức liên minh chính
trị rộng lớn, đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân.
Một là, phản biện xã hội phản ánh dư luận xã hội thực tế hiện nay
Theo chúng tôi, có thể hiểu phản biện xã hội là sự phản ánh những dư
luận xã hội, kiến nghị và kháng nghị của cộng đồng xã hội, của tập thể, gia cấp
(xây dựng trên mối quan hệ chung về sản xuất, gia đình, chính trị, văn hoá:
phong tục, tập quan, lễ giáo...) về một hay nhiều sự việc, vấn đề có liên quan đến
12



lợi ích chung của cộng đồng trên cơ sở tổng hợp, phân tích, lập luận (luận giải)
khách quan, khoa học, có tính thuyết phục nhằm phân định rõ giữa cái tốt với cái
xấu, cái đúng với cái sai, cái hoàn thiện với cái cần tiếp tục hoàn thiện... nhằm
đáp ứng đúng những yêu cầu do cuộc sống đặt ra, thoả mãn được lợi ích chung
của cộng đồng dân cư, cũng như của toàn xã hội.
Sứ mệnh lãnh đạo, quản lý mọi mặt đời sống xã hội của đất nước hiện nay
thuộc về Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những năm qua, nhiều văn kiện, nghị
quyết, dự thảo luật, nhiều quyết sách quan trọng... đã tranh thủ được ý kiến rộng
rãi của các tầng lớp nhân dân. Đại biểu của dân ngày càng phát huy được vai trò
và trách nhiệm của mình, phản ánh được ý chí, nguyện vọng và kiến nghị của
dân thông qua các phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội;
Hội đồng nhân dân các cấp... Sự điều chỉnh kịp thời và triển khai có hiệu quả
những quyết sách, dự án lớn đó chẳng những chứng tỏ "ý Đảng hợp với lòng
dân", mà còn thể hiện "hiệu ứng" tích cực của phản biện xã hội. Những kết quả
đó được thể hiện qua "kênh" công khai, có tổ chức, có chủ đích cụ thể, việc
thẩm định các kế hoạch, đề án, dự án… Tuy nhiên, tình trạng lộng quyền, lạm
quyền, quan liêu, tham nhũng; tình trạng "vừa đá bóng vừa thổi còi", đặt công
luận, dư luận xã hội trước "một sự đã rồi"... đang còn khá nhức nhối. Những yêu
cầu phát triển dân trí và thực hiện dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền...
trong giai đoạn cách mạng mới đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa chất lượng và
hiệu quả của hoạt động phản biện xã hội.
Muốn vậy, phải xây dựng được cơ chế phản biện phù hợp và phải có
những người có năng lực thực hiện sự phản biện ấy. Hai yêu cầu này gắn chặt
với nhau, bởi cơ chế cũng do con người sáng tạo ra. Vấn đề tiên quyết là phải có
sự thống nhất về mặt nhận thức. Tư duy của mỗi người sẽ trở nên trì trệ, lười
biếng và nghèo nàn, ít có khả năng suy xét toàn diện vấn đề nếu con người chỉ
biết chấp nhận một cách máy móc những cái gọi là chân lý hiển nhiên, những từ
ngữ quen thuộc và sáo mòn. Hơn nữa, con người sẽ mắc thói quen lặp lại, không
suy nghĩ thấu đáo về những điều mà họ đã nghe hoặc đọc được. Điều nguy hiểm
hơn là nó dễ dẫn người ta tới những hành vi thụ động và bản năng... Chính sự

độc lập suy nghĩ và mạnh dạn phê phán là yếu tố bảo đảm cho sự ra đời những
phát minh và sáng tạo. Sự phê phán biểu hiện ở việc không bằng lòng, không
thoả mãn, thậm chí hoài nghi và tiếp tục bổ sung, sáng tạo trước những vấn đề
tưởng như đã được giải quyết xong. Ngay toán học - một khoa học chính xác mà
cũng chỉ có được một số tiên đề, huống hồ cuộc sống với đầy rẫy những vấn đề
13


đòi hỏi chúng ta phải chứng minh, luận giải. Có thể nói, không một điều gì có
thể trở thành chân lý nếu không được thực tiễn xác nhận là đúng đắn, nếu không
đứng vững trước những cuộc tranh luận và phê phán, trước các câu hỏi nghi vấn
cũng như những đòi hỏi phải đặt lại vấn đề. Những cái đúng bao giờ cũng phát
triển lên từ quá trình đấu tranh, phủ định cái sai. Chân - Thiện - Mỹ bao giờ
cũng tồn tại, phát triển từ sự đấu tranh, phê phán cái Giả - Ác - Xấu. Đó là quy
luật phát triển của chân lý và cũng chính là quy luật phát triển của chủ nghĩa
Mác, quy luật phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Những người cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình; hơn
ai hết, cần quán triệt sâu sắc tinh thần ấy. Chúng ta cần lắng nghe những ý kiến
phản biện, cần khơi dậy bầu không khí "cởi mở, thẳng thắn và dân chủ" để nắm
bắt đúng những vấn đề, những “nhu cầu thực” nảy sinh trong xã hội và được
phản ánh qua dư luận xã hội. Đây là một trong những "kênh" chủ yếu và thật sự
là vấn đề rất cần được nghiên cứu hiện nay.
Ở nước ta, vấn đề dư luận xã hội, nắm bắt dư luận xã hội, điều tra xã hội
học... thực ra cũng không phải là những vấn đề quá mới. Tuy nhiên, chúng ta
còn tiến hành trong phạm vi nhỏ lẻ và hạn hẹp, chủ yếu để phục vụ cho việc
nghiên cứu chuyên biệt, hoặc mang tính bổ trợ hơn là đặt nó trong kênh của
công tác tư tưởng chính trị để đo tâm trạng xã hội, phục vụ cho việc bảo vệ và
giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Việc làm đó là đúng, nhưng chưa đủ. Sự ổn

định chính trị - xã hội không có nghĩa mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội
vẫn mãi như thế. Bởi, đó sẽ là sự ổn định trong trì trệ, trở thành vật cản của phát
triển. Suy cho cùng, theo quan điểm triết học Mác - Lênin vận động là tuyệt đối,
đứng im chỉ là tương đối, chúng ta không thể tiếp tục phát triển nếu ta cứ tự
bằng lòng "gặm nhấm ánh hào quang của quá khứ", tự thoả mãn với mình. Cần
nhận thức rõ rằng, phản biện xã hội đúng đắn là nhằm bảo đảo quyền lãnh đạo
của Đảng, nhằm củng cố và tăng cường niềm tin của dân đối với Đảng, trực tiếp
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Về vấn đề này, tuy chúng ta đã
và đang làm, nhưng chưa xác định một cách rõ ràng về định tính, định lượng.
Một nhà sư phạm đương đại đã có lý khi nói rằng, nếu ngợp dưới tán một cây
đại thụ, người ta khó xác định được cái cây ấy, nhưng nếu lùi ra xa khỏi tán cây,
chúng ta sẽ dễ nhận rõ ngay cây ấy là cao hay thấp.
14


Với quan niệm như vậy, chúng ta có thể xác định dư luận xã hội là một
trong những "kênh" chủ yếu của phản biện xã hội. Bởi lẽ, nó loại bỏ được tình
trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi", đồng thời, phản ánh những đòi hỏi bức xúc
của cá nhân, của tập thể trong một không gian và thời gian nhất định. Trong tính
xã hội của nó, dư luận lan truyền, phát triển một cách tự nhiên, công khai, "nửa
kín, nửa hở" và cả bằng hình thức "ngầm", "rỉ tai" từ người này qua người khác.
Tuy nhiên, cái khó ở đây là, làm thế nào để phân định giữa phản biện xã hội có
tính xây dựng và những dư luận "ngầm" có ý đồ xấu, chống đối, phá hoại, làm
mất ổn định chính trị - xã hội.
Hai là, phản biện xã hội thể hiện năng lực và trách nhiệm xã hội của giới
trí thức
Theo Phạm Trọng Luật, chức năng cơ bản của người trí thức là truyền bá
những giá trị văn hóa tinh hoa của dân tộc và nhân loại cho cộng đồng [1].
Trong khi đó, Karl Marx nhấn mạnh đến một chức năng khác của người trí thức:
chức năng phê phán [2]. Đối với người trí thức, mục đích tối hậu của công việc

phê phán/phản biện là nhằm vạch ra những khuyết tật của xã hội đương tồn - cái
thường được biểu hiện qua chính sách của cơ quan công quyền, từ đó thức tỉnh
cộng đồng nhận ra những vấn đề mà họ đang phải đối diện, những vấn đề mà
nếu không tìm ra hướng giải quyết sẽ nguy hại cho công cuộc phát triển của toàn
xã hội. Mà nhận thức, một khi được khai sáng, có khả năng được cụ thể hóa
thành những xung lực vật chất mạnh mẽ, làm thay đổi chiều hướng vận động xã
hội.
Công tác phản biện xã hội thuộc về trách nhiệm của toàn cộng đồng. Tuy
nhiên, với ưu thế đặc biệt về năng lực và do sự thôi thúc lương tâm, người trí
thức luôn nhận lãnh trách nhiệm của người tiền phong. Họ thường nhạy cảm
phát hiện ra các vấn đề mới của cuộc sống, đặt chúng trong một hệ quy chiếu
rộng lớn của đời sống cộng đồng, từ đó đánh giá những tác động lợi - hại của
chúng đối với lợi ích trước mắt và lâu dài của xã hội. Dĩ nhiên, rất nhiều vấn đề
như thế đã trực tiếp bắt nguồn từ các kiến tạo chính sách của cơ quan công
quyền và các kiến tạo này, đến lượt chúng trở thành đối tượng của công tác phản
biện.
Với hai đặc tính là tự do tư tưởng, ngôn luận và phản biện xã hội, giới trí
thức đã góp phần tạo nên tính chất dân chủ, khai phóng cho đời sống xã hội. Cơ
chế phản biện xã hội là toàn bộ những cách thức, phương pháp điều hành với
15


những công cụ trong không gian và thời gian nhất định, tuân thủ động phản biện
xã hội để đạt được mục đích của nó. Để phản biện xã hội có điều kiện hình
thành và phát triển, điều kiện tiên quyết là cần kết hợp giữa việc ban hành - áp
dụng - duy trì các định chế dân chủ và đáp ứng yêu cầu tham gia vào không gian
công cộng của người dân - những người đã và đang thay đổi nhận thức về quyền
và nghĩa vụ của họ từ quá trình tiếp xúc với giới trí thức: không thể lựa chọn
giữa việc bảo vệ các định chế dân chủ và yêu cầu tham gia của nhân dân; không
có giải pháp nào khác ngoài sự kết hợp giữa hai mặt đó...[3]. Hoạt động phản

biện xã hội không thể chỉ dựa trên những lời khuyến cáo hoặc bằng hô hào động
viên tính tự giác, mặc dù những yếu tố đó đóng vai trò quan trọng, không thể coi
nhẹ, mà phải dựa trên nền tảng pháp lý mới mang lại kết quả thiết thực cho phản
biện xã hội.
Cơ chế phản biện xã hội mang tính lịch sử, do đó không thể thoát ly khỏi
những điều kiện thực tế cho phép để đề ra những yêu cầu quá cao không thực
hiện được. Cơ chế đó phải tính đến những yếu tố thuận lợi và khó khăn, thách
thức, hạn chế để đặt ra những yêu cầu khả thi. Không xây dựng được một cơ chế
như vậy, hoạt động phản biện xã hội vẫn chỉ là những mong muốn, hay tiến
hành một cách tượng trưng. Muốn vậy, phải có một cơ chế để khảo sát, điều tra,
khai thác, thẩm định, xử lý và cuối cùng thực hiện sự phản biện xã hội cần thiết.
Trước mắt, theo chúng tôi, phản biện xã hội cần tập trung vào những nội dung
sau: chống tham nhũng, lãng phí; giải quyết vấn đề đất đai và xây dựng cơ bản,
vấn đề quy hoạch và phát triển nông thôn, cải cách hành chính; tính cạnh tranh
của hàng hoá; giá điện, nước, xăng dầu; cước phí lưu thông, bảo đảm an toàn
giao thông; vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.
Ba là, cơ chế thực hiện sự phản biện xã hội phải bằng luật, pháp lệnh và
các phương tiện thông tin đại chúng.
Bằng và thông qua cơ chế này, phản biện xã hội sẽ được thực thi như một
quá trình tự giác. Ý chí, nguyện vọng, trí tuệ của nhân dân được đề lên thành
luật (thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp). Các cơ quan báo chí,
xuất bản, các phương tiện thông tin đại chúng phải thực sự trở thành diễn đàn
của nhân dân; nắm bắt, phản ánh một cách chính xác dư luận quần chúng. Các
đoàn thể chính trị - xã hội phải thật sự là nơi phản ánh rõ nét và sinh động những
mong muốn, nguyện vọng, đề xuất của các nhóm xã hội và cá nhân, lắng nghe ý
kiến và chia sẻ những thông tin để hình thành và phát triển các ý tưởng, ; đồng
16


thời, nâng cao hơn nữa tính xã hội của tổ chức mình để có thể phản ánh được

nhiều hơn, rộng rãi hơn và chất lượng hơn.
Đối với những dư luận ngầm, không công khai, hoặc tự phát: cần tiến
hành một quá trình riêng, cần có sự gặp gỡ, liên kết nghiên cứu giữa một bên là
những cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người có trách nhiệm với một bên là các
chuyên gia xã hội học am hiểu sâu sắc, thông thạo chuyên môn về điều tra xã
hội học nói chung và nghiên cứu dư luận xã hội nói riêng. Trong điều kiện đã
tồn tại xã hội dân chủ thực sự, hoạt động phản biện do giới trí thức khởi xướng
sẽ hình thành nên một không gian công cộng (public sphere) mà những sinh hoạt
gắn liền với nó được quy về cái gọi là nền văn hóa công luận (public culture).
Trong phản biện xã hội, giới trí thức thực hiện các diễn đàn trao đổi học thuật
hay ngoài học thuật và thực hiện sự nối kết giữa họ với xã hội bên ngoài sẽ ngăn
ngừa tính độc đoán, áp đặt của các hệ thống chính trị và các phong trào xã hội có
nguy cơ bị chính trị hóa. Đồng thời, tiến hành xây dựng những mô hình nghiên
cứu thử nghiệm và kịp thời tổng kết, đánh giá các mẫu điều tra dư luận xã hội để
đo lường về mức độ hài lòng hoặc không, và có kiến nghị hay giải pháp tiếp
theo…
Để đảm bảo chất lượng và hiệu quả phản biện, cũng như tính khả thi của
nó, phải có một cơ quan chuyên trách các vấn đề về phản biện xã hội độc lập về
mặt tổ chức, gọn về số lượng, tinh thông về nghiệp vụ với một đội ngũ cán bộ
tâm huyết, mẫn cán, có phẩm chất đạo đức trong sáng, trung thực và có bản lĩnh
dũng cảm. Cuối cùng, cần có chế độ, chính sách tương xứng cùng với cơ chế
bảo đảm xã hội cho những lực lượng tham gia phản biện xã hội - một nhiệm vụ
vẻ vang nhưng cũng đầy thách thức.

17


III. KẾT LUẬN
Thể chế chính trị không chỉ tạo cơ sở pháp lý mà còn kích thích và định
hình chiều hướng vận động của các nguồn lực xã hội. Ở các quốc gia phát triển,

với sự tồn tại của một nhà nước pháp quyền dân chủ và nền kinh tế thị trường
lành mạnh, phản biện xã hội diễn ra như một hiện tượng tất yếu, tự nhiên của
đời sống. Để hoạt động giám sát, phản biện xã hội phát huy hiệu quả, nhất thiết
phải có một hệ thống cơ chế đầy đủ, đủ mạnh. Vì vậy, Quốc hội trong lần sửa
đổi Hiến pháp 2013 và Luật MTTQ Việt Nam đã có những bổ sung cơ bản về vị
trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của MTTQ và các tổ chức đoàn thể, để xây
dựng và ban hành luật về giám sát và phản biện xã hội. Phản biện xã hội sẽ đánh
giá đúng thực trạng để bổ sung hoàn chỉnh các quy định pháp luật thực hiện tốt
chức năng giám sát trong thực tế. Sự tương tác qua lại thường xuyên giữa nhà
nước - thị trường - xã hội thông qua cơ chế phản biện xã hội đã giúp các nhà
hoạch định chính sách giảm thiểu được xung đột, căng thẳng xã hội, điều chỉnh
năng lực quản trị của bộ máy nhà nước, cũng như phát triển trách nhiệm xã hội,
ý thức cộng đồng ở từng cá nhân và tập thể. Trong điều kiện lý tưởng, phản biện
xã hội trở thành cơ chế đảm bảo sự cộng hưởng liên tục giữa các lực lượng trong
xã hội, nhờ vậy, đảm bảo tính bền vững cho lộ trình phát triển của xã hội Việt
Nam hiện nay.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Theo Hán - Việt, chữ phản gồm 5 nghĩa; 1) trái, đối lập với chữ chính;
2) trả lại, trở về; 3) nghĩ, xét lại; 4) trở, quay; 5) trái lại, phản đối, trái lại không
chịu.
2. Trần Đăng Tuấn: Câu hỏi đặt ra từ cuộc sống: Phản biện xã hội, Nxb
Đà Nẵng, 2006, tr.160.
3. Xem: Phản biện xã hội. , ngày 27-2-2015.
4. Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30-1-2002 của Thủ tướng Chính
phủ Về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội

Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
5. Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.182-183.
6. Phạm Trọng Luật, Học thức và trí thức: lịch sử một trận phân thân,
/>7. Dẫn theo Paul Alexandre Baran (1961), Thế nào là người trí thức
(Phạm Trọng Luật dịch),
/>8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khóa X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.12.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.201
10. John Stuart Mill (2008), Chính thể đại diện (Nguyễn Văn Trọng dịch),
Nxb Tri thức, Hà Nội, tr. 10.
11. Dẫn theo Bùi Văn Nam Sơn (2011), Văn hóa và văn hóa chính trị,
/>Tri-BVNS.htm
12. />
19



×