Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Giáo trình môn văn hóa cộng đồng phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 49 trang )

Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
văn hiến, dân tộc ta là một dân tộc văn hóa, nền văn hóa nước ta không ngừng phát
triển xứng đáng với tầm vóc dân tộc ta trong lịch sử và trong thế giới hiện đại.

Chương2: VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM
1. Tiến trình văn hóa Việt Nam
Tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành 6 giai đoạn: văn hóa tiền sử,
văn hóa Văn Lang - Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hóa Đại Việt, văn
hóa Đại Nam và văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành ba lớp: lớp văn hóa
bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với
phương Tây.
1.1. Lớp văn hóa bản địa
Lớp văn hóa bản địa được hình thành qua hai giai đoạn: giai đoạn văn hóa
tiền sử và giai đoạn văn hóa Văn Lang - Âu Lạc.
Thành tựu lớn nhất ở giai đoạn văn hóa tiền sử của cư dân Nam-Á là sự hình
thành nghề nông nghiệp lúa nước.
Trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng, Đông Nam Á là một. C.O.Sauer
cho rằng đây chính là trung tâm nông nghiệp cổ xưa nhất. Còn theo các tài liệu cổ
thực vật học thì việc cây lúa có nguồn gốc từ đây là điều không còn nghi ngờ gì:
trung tâm thuần dưỡng lúa là vùng đông nam Himalaya và khu vực sông nước
Đông Nam Á. Các tác giả Lịch sử Việt Nam khẳng định: "Trên cơ sở kinh tế hái
lượm phát triển ở vùng rừng nhiệt đới, các bộ lạc Hòa Bình đã thực hiện một bước
nhảy có ý nghĩa lớn lao trong đời sống nhân loại: phát minh nông nghiệp... Đông
Nam Á là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm nhất". Ở các di
chỉ khảo cổ khác nhau của Việt Nam như Sũng Sàm, Tràng Kênh, Gò Bông, Đồng
Đậu, Gò Mun... đã phát hiện được những dấu tích của bào tử phấn lúa, vỏ trấu, gạo
cháy, mảnh chõ xôi... có niên đại xưa tới vài nghìn năm trước Công nguyên.
Tổ tiên người Hán khi định cư ở lưu vực sông Hoàng Hà mới chỉ trồng kê,
mạch, đậu. Nghề trồng lúa là học từ các dân tộc phương Nam. Những kết quả khảo
cổ ở bắc Trung Hoa cho phép kết luận rằng việc này diễn ra vào cuối thiên niên kỉ


thứ III trước Công nguyên. Nhà Đông phương học Nga nổi tiếng D.V. Deopik
(1977, tr. 265) đã viết: "Vào thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên, ở trung tâm
vùng Đông Á ta chỉ thấy một chấm nhỏ của văn minh trồng kê Ngưỡng Thiều
(Janshao), lạc hậu hơn so với văn hóa đồ gốm có hoa văn vùng trung tâm Đông
Dương. Ở bắc Đông Á không có những nôi nông nghiệp lớn… Những nền văn hóa
trồng lúa vùng sông Dương Tử thời kì Long Sơn (Lunshan) và muộn hơn thực chất
đều là ngoại vi của nôi trồng lúa Đông Dương".
Từ Đông Nam Á cổ đại, lúa và kĩ thuật trồng lúa đã lan tới bờ Địa Trung Hải
47


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
vào nửa đầu của thiên niên kỉ I trước Công nguyên (Chesnov, 1976, tr. 86). Còn ở
các hòn đảo Nhật Bản, nó mới chỉ được đưa tới qua con đường Hoa Bắc từ trước
Công nguyên không lâu (Arutjunov 1962). Không chỉ chữ đạo trong tiếng Hán bắt
nguồn từ chữ gạo mà ngay cả các chữ rice, riz, ris, Reis,… trong các ngôn ngữ châu
Âu cũng có nguồn gốc từ tiếng Đông Nam Á cổ đại (dấu vết này còn thấy ở tên
thần lúa Yang Sri của các dân tộc Tây Nguyên).
Ngoài cây lúa và kĩ thuật trồng lúa, còn phải kể đến một số thành tựu đặc biệt
khác của Đông Nam Á cổ đại: (a) Việc trồng dâu nuôi tằm để làm đồ mặc và tục
uống chè; (b) Việc thuần dưỡng một số gia súc đặc thù như trâu, gà (tiếng Hán phải
đặt ra kết hợp "thủy ngưu" (bò nước) để chỉ con trâu; còn trong cuốn Nguồn gốc
các loài, E. Darwin đã khẳng định rằng nguồn gốc của con gà nuôi là xuất phát từ
con gà rừng Đông Nam Á); (c) Việc làm nhà sàn để ở và dùng các cây thuốc để
chữa bệnh. Truyền thuyết phương Nam đã đánh dấu giai đoạn văn hóa này bằng
hình ảnh Thần Nông, nhân vật thần thoại này đã được bổ sung vào kho tàng văn
hóa Trung Hoa.
Giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc kế tục giai đoạn tiền sử cả về không
gian văn hóa, thời gian văn hóa và thành tựu văn hóa. Nếu dựa vào thư tịch cổ và

truyền thuyết thì có thể hình dung giai đoạn này khởi đầu từ khoảng giữa thiên niên
kỉ III trước Công nguyên.
Truyền thuyết Hồng Bàng thị (Họ Hồng Bàng) kể rằng vua đầu tiên của họ
Hồng Bàng tên là Lộc Tục, cháu bốn đời của Viêm Đế (gọi như vua xứ nóng) họ
Thần Nông, con một nàng tiên ở núi Ngũ Lĩnh. Lộc Tục lên làm vua phương Nam
vào khoảng năm 2879 trước Công nguyên, lấy hiệu là Kinh Dương, đặt tên nước là
Xích Quỷ (xích như đỏ - màu của phương Nam theo Ngũ hành; quỷ như thần; Xích
Quỷ như Thần phương Nam). Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp hồ Động Đình,
phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên),
phía đông giáp bể Nam Hải. Kinh Dương Vương Lộc Tục lấy con gái vua hồ Động
Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc
Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm con trai. Một nửa theo
cha xuống bể, nửa kia theo mẹ lên rừng. Đến đất Phong Châu (vùng Việt Trì ngày
nay), cùng tôn người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Vua Hùng.
Về mặt không gian, bờ cõi nước Xích Quỷ theo truyền thuyết trải dài từ Bắc
Trung Bộ đến hồ Động Đình chính là địa bàn cư trú của người Nam-Á - Bách Việt,
là khu vực tam giác không gian gốc của văn hóa Việt Nam. Bờ cõi nước Văn Lang
của các vua Hùng sau này là một bộ phận của không gian gốc đó, cũng như người
Lạc Việt là một bộ phận của khối cư dân Nam-Á - Bách Việt. Nhà sử học Nga P.V.
Pozner (1980, tr. 89) khẳng định: "Sự tồn tại của các lãnh tụ người Lạc (Việt) với
tên hiệu chung "Hùng" là một sự kiện lịch sử....; truyền thuyết về Kinh Dương
Vương và Lạc Long Quân phản ánh truyền thống sử học truyền khẩu về địa bàn cư
trú cổ xưa của các bộ lạc tiền Việt, cho nên, theo nghĩa đó, nó cũng mang tính lịch
sử"
48


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
Về mặt thời gian, thiên niên kỉ thứ III trước Công nguyên (mà trong đó có

mốc truyền thuyết là năm 2879!) ứng với giai đoạn đầu thời đại đồ đồng, cũng
chính là thời điểm hình thành chủng Nam-Á (Bách Việt). Thành tựu văn hóa chủ
yếu của giai đoạn Văn Lang - Âu Lạc, sau nghề nông nghiệp lúa nước, chính là
nghề luyện kim đồng. Cả trên phương diện này, vai trò của vùng văn hóa Nam-Á
đối với khu vực cũng hết sức to lớn; đồ đồng Đông Sơn và ảnh hưởng của nó đã
tìm thấy khắp nơi - từ nam Trung Hoa, Thái Lan đến toàn bộ vùng Đông Nam Á
hải đảo.
Tập thể tác giả cuốn Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam (1994, tr. 302) đã viết:
"Kĩ thuật luyện kim, đúc đồng của người Đông Sơn đã đạt đến trình độ điêu luyện
đáng kinh ngạc. Trống đồng, thạp đồng là những di vật tiêu biểu nhất cho trình độ
kĩ thuật và bàn tay tài hoa của những người thợ đúc Đông Sơn. Đỉnh cao không thể
phủ nhận này đã khiến trước đây, nhiều học giả phương Tây không thể tin vào
nguồn gốc bản địa của văn hóa Đông Sơn nói chung, kĩ thuật luyện kim Đông Sơn
nói riêng. Họ đi tìm nguồn gốc ở tận đất Trung Nguyên, phương Bắc, thậm chí còn
tìm ở nơi xa tít bên trời Tây… Kết quả nghiên cứu khảo cổ học vài thập kỉ qua đã
chứng minh rằng, nghề luyện kim đồng thau đã ra đời ở đất này từ rất lâu trước sự
ra đời của văn hóa Đông Sơn. Luyện kim Đông Sơn là sự phát triển kế tục, không
đứt quãng của luyện kim các giai đoạn văn hóa tiền Đông Sơn". Theo Trần Quốc
Vượng (1986, tr. 482) thì chữ "đồng" trong tiếng Hán được phiên âm từ tiếng Đông
Nam Á cổ đại (Tày: toong; Việt: đồng).
Nhà Đông phương học Nga G.G. Stratanovich (1977) cho biết: "Bốn kiểu
trống đồng Đông Sơn mà các nhà nghiên cứu khác nhau đã phân ra và ba kiểu
chuông… của tôi thực ra chỉ là những biến thể của cùng một loại sản phẩm từ cùng
một vùng sản xuất đồ đồng lớn nhất. Vùng này có thể hình dung dưới dạng một tam
giác lớn: hai điểm tận cùng của cạnh đáy là Đông Sơn ở phía đông và Mogaung
(bắc Mianma - TNT) ở phía tây. Đỉnh tam giác nằm trong khoảng giữa hồ Động
Đình và hồ Poian". Ông viết tiếp: "trước đây thậm chí cả đồ đồng Đông Sơn cũng
bị tưởng rằng bắt nguồn từ phương Bắc. Bây giờ tình hình đã thay đổi, Người ta
biết đến không chỉ nguồn quặng đồng phong phú của Việt Nam, mà cả những mỏ
đồng, cũng như mỏ vàng và bạc khác nữa. Giả thuyết về nguồn gốc phương Nam

của đồ đồng nhà Ân trở nên có cơ sở... Niên đại của văn hóa Đông Sơn giờ đây
được đẩy về khoảng giáp ranh giữa các thiên niên kỉ II-I trước Công nguyên.
Một chuyên gia có tiếng về Đông Nam Á, giáo sư nhân chủng học Mĩ W.G.
Solheim II đã viết (1971): "Các nhà sử học Âu, Mĩ thường hay lí luận rằng lối sống
mà ta gọi là văn minh thoạt tiên bắt nguồn từ vòng cung phì nhiêu miền Cận Đông,
hoặc trong những vùng sườn đồi lân cận… Tuy nhiên, những khám phá mới đây ở
vùng Đông Nam Á đã buộc chúng ta phải xem xét lại những quan niệm này. Những
vật dụng đã được đào lên và đem phân tích trong vòng 5 năm qua cho ta thấy rằng
con người ở đây đã bắt đầu trồng cây, làm đồ gốm và đúc đồ dùng bằng đồng sớm
hơn hết thảy mọi nơi trên trái đất… sớm hơn các dân tộc Cận Đông, Ấn Độ và
49


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
Trung Hoa tới cả hàng mấy ngàn năm".
Giai đoạn từ 2 - 3 nghìn năm trước Công nguyên cho đến vài trăm năm trước
Công nguyên đã tạo nên một đỉnh cao rực rỡ trong lịch sử văn hóa dân tộc và có
ảnh hưởng lớn đến toàn khu vực. GS Hà Văn Tấn (1983) nhận định: "ảnh hưởng
của văn hóa Đông Sơn lên phía Bắc, theo lưu vực sông Nguyên, sông Tương, đến
đất Sở là đã rõ ràng". Vào đầu giai đoạn này, đỉnh cao đó là thành tựu chung của
các dân tộc Đông Nam Á cổ đại. Không phải vô cớ mà D.V. Deopik (1977) gọi thế
kỉ V trước Công nguyên là "thế kỉ của phương Nam". Đúng như Ja.V. Chesnov
(1976, tr. 6) nhận xét: "Về hàng loạt phương diện của văn hóa - từ sản xuất nông
nghiệp cho đến lĩnh vực thần thoại - Đông Nam Á đã có những ảnh hưởng lớn,
vượt rất xa ra ngoài ranh giới những láng giềng trực tiếp của nó... Việc tạo nên
những thứ như cây lúa trồng, nghề luyện kim đồng, hoặc những thành tựu văn hóa
khác... là kết quả sáng tạo của rất nhiều dân tộc lớn nhỏ đã tạo nên trong suốt chiều
dài lịch sử nhiều nghìn năm của mình cái thế giới độc đáo được gọi là Đông Nam
Á". Chính những thành tựu của thế giới Đông Nam Á cổ đại mà trong đó có phần

đóng góp của tổ tiên các dân tộc Việt Nam ấy đã làm nên cái nền vững chắc cho sự
phát triển của văn hóa Việt Nam sau này.
Chữ viết của lớp văn hóa bản địa là vấn đề trước đây hầu như chưa được đặt
ra. Đơn giản là vì, trong một thời gian dài, dưới áp lực của định kiến "lấy Trung
Hoa làm trung tâm", người ta không thể hình dung được rằng phương Nam có thể
có một nền văn hóa riêng chứ đừng nói gì đến chữ viết. Đến nay, dưới ánh sáng của:
(a) Những nhận định mới về quy mô, tầm cỡ và vai trò của văn hóa phương Nam
trong lịch sử văn hóa khu vực; (b) Những ghi chép của sử sách Trung Hoa về một
thứ chữ "khoa đẩu" (hình con nòng nọc bơi) của người phương Nam. (c) Những cứ
liệu về dấu vết chữ viết đã phát hiện được: trên những phiến đá ở thung lũng Sapa,
trên qua đồng Thanh Hóa, trên lưỡi cày Đông Sơn, trên trống đồng Lũng Cú, ở
vùng Mường Thanh Hóa (hình nòng nọc!); ta hoàn toàn có thể nghĩ đến giả thuyết
về sự tồn tại của một nền văn tự phương Nam "trước Hán và khác Hán" (chữ dùng
của GS. Hà Văn Tấn).
1.2. Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực
Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực còn lại được hình thành qua
2 giai đoạn: giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc và giai đoạn văn hóa Đại Việt. Đặc
trưng chung của lớp văn hóa này là sự song song tồn tại của hai xu hướng trái
ngược nhau: Một bên là xu hướng Hán hóa về mặt văn hóa và bên kia là xu hướng
chống Hán hóa và Việt Nam hóa các ảnh hưởng Trung Hoa.
Giai đoạn văn hóa thời chống Bắc thuộc khởi đầu từ trước công nguyên và
kéo dài đến khi Ngô Quyền giành lại được đất nước. Những đặc điểm chủ yếu của
giai đoạn văn hóa này là:
Ý thức đối kháng bất khuất và thường trực trước nguy cơ xâm lăng từ phía
phong kiến phương Bắc. Sự ra đời của quốc hiệu "Nam Việt" từ trước Công nguyên,
50


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng

trong đó yếu tố chỉ phương hướng "nam" lần đầu tiên xuất hiện (và sẽ tồn tại trong
hầu hết các quốc hiệu về sau) đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức của dân tộc
về hiểm họa xâm lăng thường trực từ phía phong kiến phương Bắc mà từ đời
Tần-Hán trở đi đã trở thành một đế quốc hùng mạnh bậc nhất khu vực.
Tinh thần đối kháng thường trực và bất khuất ấy đã bộc lộ mạnh mẽ qua các
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43), Triệu Thị Trinh (246), Lí Bôn với nước
Vạn Xuân (544-548), Triệu Quang Phục (548-571), Mai Thúc Loan (722), Phùng
Hưng (791), cha con họ Khúc (906- 923), Dương Diên Nghệ (931- 937) và đạt đến
đỉnh cao ở cuộc khởi nghĩa thắng lợi của Ngô Quyền (938).
Đặc điểm thứ hai của giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc là sự suy tàn của
nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc, sự suy tàn này bắt nguồn từ: (1) sự suy thoái tự
nhiên có tính quy luật của một nền văn hóa sau khi đạt đến đỉnh cao; (2) sự tàn phá
cố tình của kẻ xâm lược phương Bắc với âm mưu đồng hóa thâm độc.
Sử gia Tư Mã Thiên chép rằng từ đời Tần, Trung Hoa "đã chiếm cả thiên hạ,
cướp lấy đất Dương Việt… đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt". Thời
Hán, Mã Viện đưa dân Trung Quốc sang ở lẫn để đồng hóa người Việt, sử cũ gọi họ
là dân Mã lưu (do Mã Viện lưu lại). Năm 231, Tiết Tông dâng sớ lên vua Ngô
Hoàng Võ kể rằng "Vua Hán Võ Đế giết Lữ Gia (thừa tường Nam Việt – TNT),
chia nước Việt thành 9 quận, đặt ra quan thứ sử quận Giao Chỉ. Từ đó những tội
nhân Trung Quốc chạy sang, ở lẫn với dân, dạy học sử sách (Trung Hoa - TNT) và
phổ cập phong tục lễ hóa của Trung Quốc".
Đặc điểm thứ ba là giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc đã mở đầu cho quá
trình giao lưu - tiếp nhận văn hóa Trung Hoa và khu vực, cũng tức là mở đầu cho
quá trình văn hóa Việt Nam hội nhập vào văn hóa khu vực. Điều thú vị ở đây là, tuy
tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với Trung Hoa, nhưng trong giai đoạn này, Việt
Nam tiếp nhận văn hóa Trung Hoa chưa nhiều, Nho giáo hầu như chưa có chỗ đứng
trong xã hội Việt Nam. Lí do của sự kiện này rất đơn giản: đó là văn hóa đến theo
vó ngựa xâm lăng, do kẻ xâm lược tìm cách áp đặt vào. Trong khi đó thì Phật giáo
đến Việt Nam (ban đầu trực tiếp từ Ấn Độ, sau đó qua ngả đường Trung Hoa) một
cách hòa bình, nên được người Việt Nam tự giác tiếp nhận. Cho nên, cùng với sự

chống Bắc thuộc quyết liệt về mặt chính trị, nét chủ đạo của giai đoạn này là xu
hướng chống Hán hóa về mặt văn hóa và Việt Nam hóa các ảnh hưởng Trung Hoa.
Chính do có xu hướng chống Hán hóa mạnh mẽ như vậy cho nên, mặc dù
ngay từ đầu Công nguyên, các thái thú Tích Quang, Nhâm Diên ra sức truyền bá
điển lễ hôn nhân và gia đình theo lối Trung Hoa; Sĩ Nhiếp vào thế kỉ II ra sức mở
trường dạy học để truyền bá văn hóa Trung Hoa và thủ tiêu văn tự ngôn ngữ Việt;
Tô Định, Mã Viện ra sức thiết lập nền pháp chế hà khắc bằng gươm giáo, suốt các
thế kỷ này văn hóa Trung Hoa nói chung và Nho giáo nói riêng vẫn không thể nào
bắt rễ sâu được vào làng xã Việt Nam. Trong sử sách Trung Hoa thời kì này, những
đoạn viết về Phật giáo Giao Châu thì nhiều mà nói về Nho giáo thì rất ít. Dân Mã
lưu do Mã Viện đưa sang không những không thực hiện được nhiệm vụ đồng hóa
51


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
người Việt và làm chỗ dựa cho chính quyền mà, trái lại, còn bị Việt hóa hoàn toàn.
Nhờ đã có được nền móng vững vàng tạo nên từ đỉnh cao rực rỡ trong lớp
văn hóa bản địa, tinh thần Văn Lang - Âu Lạc vẫn tồn tại như một mạch ngầm
trong suốt thời kì chống Bắc thuộc, để khi bước sang giai đoạn văn hóa Đại Việt,
chỉ sau ba triều đại (Ngô - Đinh - Tiền Lê) lo việc gây dựng lại, văn hóa Việt Nam
đã khôi phục và thăng hoa nhanh chóng. Giai đoạn Đại Việt trở thành đỉnh cao thứ
hai trong lịch sử văn hóa Việt Nam với hai cột mốc: Lí-Trần và Lê (Đại Việt là
quốc hiệu chủ yếu của nước ta trong thời kì này).Truyền thống tổng hợp bao dung
của văn hóa dân tộc (lớp văn hóa bản địa), được tiếp sức bởi văn hóa Phật giáo giàu
lòng bác ái (giai đoạn chống Bắc thuộc), đã làm nên linh hồn của thời đại Lí-Trần.
Văn hóa Lí-Trần chứng kiến thời kì hưng thịnh nhất của Phật giáo và, cùng với nhu
cầu xây dựng và củng cố nhà nước trung ương tập quyền, đánh dấu thời điểm Việt
Nam chính thức tiếp nhận Nho giáo. Đồng thời, với tinh thần tổng hợp bao dung,
nó cũng mở rộng cửa cho việc tiếp thu cả Đạo giáo. "Tam giáo đồng quy " trên cơ

sở truyền thống dân tộc đã khiến cho văn hóa Việt Nam thời Lí-Trần phát triển
mạnh mẽ về mọi phương diện.
Thế là, Nho giáo (và cùng với nó là văn hóa Trung Hoa) mà trong suốt thời
Bắc thuộc đã không thể thâm nhập sâu rộng được, thì giờ đây, từ khi được nhà Lí
mở cửa và đặt nền móng (xây Văn Miếu thờ Khổng Tử năm 1070, lập trường Quốc
Tử Giám năm 1076,...), đã thâm nhập mỗi ngày một mạnh. Đến giữa thời Trần,
Nho giáo Việt Nam đã trở thành một lực lượng đáng kể trong triều đình, các Nho sĩ
tự khẳng định bằng cách quay lại công kích Phật giáo và các triều vua trước. Đến
thời Lê, Nho giáo đạt đến độ thịnh vượng nhất và nắm trong tay toàn bộ guồng máy
xã hội. Xu hướng tiếp nhận văn hóa Trung Hoa (Hán hóa) trở thành chủ đạo. Tính
cách trọng động (cứng rắn, độc tôn...) đã thâm nhập dần vào xã hội Việt Nam; nhà
nước tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo; pháp luật phỏng theo Trung Hoa; phụ
nữ, con hát ngày một bị khinh rẻ... Văn hóa Việt Nam thời kì này chuyển sang một
đỉnh cao kiểu khác: văn hóa Nho giáo.
Việc giao lưu với Trung Hoa dẫn đến việc dùng chữ Hán làm văn tự. Chữ
Nôm - chữ của người Nam (chữ "nôm" gồm bộ khẩu và chữ "nam"), một trong
những sản phẩm của cuộc giao lưu này - manh nha từ cuối giai đoạn chống Bắc
thuộc và hình thành vào đầu giai đoạn Đại Việt, được dùng trong sáng tác văn
chương và đặc biệt được đề cao dưới triều đại nhà Hồ và Tây Sơn. Vua Quang
Trung đã sử dụng chữ Nôm làm văn tự chính thức trong các chiếu chỉ của mình và
từng có kế hoạch giao cho La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp tổ chức dịch các sách vở
kinh điển từ Hán sang Nôm.
1.3. Lớp văn hóa giao lưu với văn hóa phương Tây
Sau cùng là lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Cho đến nay, lớp này gồm
hai giai đoạn: văn hóa Đại Nam và văn hóa hiện đại Tại đây cũng có hai xu hướng
trái ngược: Một bên là xu hướng âu hóa, bên kia là xu hướng chống âu hóa và Việt
Nam hóa các ảnh hưởng phương Tây. Song biểu hiện của chúng không phân rõ theo
52



Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
từng giai đoạn mà đan cài trong không gian và thời gian.
Giai đoạn văn hóa Đại Nam được chuẩn bị từ thời các chúa Nguyên và kéo
dài hết thời Pháp thuộc và chống Pháp thuộc. Tên gọi Đại Nam xuất hiện từ thời
Minh Mạng, đó là quốc hiệu chủ yêu của nước ta trong giai đoạn này (thời Gia
Long, quát hiệu nước ta là Việt Nam). Văn hóa tại Nam có các đặc điểm:
a) Từ những tiền đề mà triều đại Tây Sơn đã chuẩn bị, với sự hoàn tất của
nhà Nguyễn, lần đầu tiên nước ta có được sự thống nhất về lãnh thổ và tổ chức
hành chính từ Đồng Văn đến Cà Mau.
b) Sau thời kì hỗn độn Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn, đến nhà Nguyên. Nho giáo lại
được phục hồi làm quốc giáo, nhưng nó ngày một suy tàn.
c) Khởi đầu quá trình thâm nhập của văn hoá phương Tây, cũng là khởi đầu
thời kì văn hóa Việt Nam hội nhập vào nền văn hoá nhân loại. Sự giao lưu đó đã
làm văn hóa Việt Nam biến đổi về mọi phương diện: Lối tư duy phân tích phương
Tây đã hổ sung khá nhuần nhuyễn cho lối tư duy tổng hợp truyền thống; ý thức về
vai trò cá nhân được nâng cao dần bổ sung cho ý thức cộng đồng truyền thống; đô
thị ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, quá trình đô thị hóa diễn
ra ngày một nhanh hơn. Tất cả đã khiến cho lịch sử văn hoá Việt Nam lật sang trang
mới.
Giai đoạn văn hóa hiện đại được chuẩn bị từ trong lòng văn hóa Đại Nam: Sự
giao lưu với phương Tây mở đầu bằng giai đoạn Đại Nam đã thổi vào Việt Nam
luồng gió mới với những tư tưởng của K. Marx, V.I. Lênin. Từ những năm 30-40
trở lại đây, rõ ràng là văn hóa Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới. Tuy nhiên,
vì văn hóa là tiếp nối, thời gian văn hóa là khái niệm mờ, một giai đoạn văn hóa
ngắn nhất (như Đại Nam) cũng phải tính bằng vài thế kỉ cho nên may chục năm tồn
tại của giai đoạn văn hóa hiện đại chưa cho phép tổng kết đầy đủ những đặc điểm
của nó: Đây là giai đoạn văn hóa đang định hình. Tuy nhiên, có thể dự đoán một
cách chắc chắn rằng đây là giai đoạn mà, sau một thời kì suy thoái kéo dài, không
những văn hóa Việt Nam sẽ phục hưng mà còn phát triển mạnh mẽ về mọi phương

diện, đạt tới một đỉnh cao mới.
Lớp văn hóa giao lưu với phương Tây đem đến một sản phẩm của cuộc giao lưu
mới: chữ Quốc ngữ
1.4. Tác động của kinh tế thị trường với những thay đổi của văn hóa
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đứng trước
những thử thách mới, trong đó có những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đòi hỏi
chúng ta phải có nhận thức đúng và giải quyết một cách hợp lý.
Nghiên cứu mối liên hệ nội tại của phát triển văn hóa với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để thực hiện sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, chính
trị và văn hóa, xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn.
53


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
Mối liên hệ nội tại của phát triển văn hóa với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Nghiên cứu chủ đề mới của phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nghiên cứu quan hệ của văn hóa
tiên tiến với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc chuyển đổi từ thể
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta làm cho sản phẩm văn hóa ngày càng phong phú, thị
trường văn hóa ngày càng sôi động là một thực tế ai cũng nhìn thấy. Bên cạnh
những mặt tích cực, nhiều sản phẩm phản văn hóa, phản khoa học, chỉ coi trọng lợi
ích tiền bạc làm cho thị trường văn hóa bị ảnh hưởng tiêu cực (như sự xuất hiện
tràn lan các loại sản phẩm kích dục, bạo lực, mê tín dị đoan…). Tuy nhiên, nếu chỉ
căn cứ vào những hiện tượng tiêu cực này để đổ lỗi cho kinh tế thị trường mà
không nhìn thấy mặt tích cực của nó thì sẽ rơi vào phiến diện, hơn thế, vô hình
trung đối lập văn hóa tiên tiến với kinh tế thị trường. Bởi vậy, dưới điều kiện kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa phải trả lời một câu
hỏi lý luận quan trọng: phát triển văn hóa và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa bài trừ lẫn nhau hay thống nhất biện chứng với nhau? Câu
trả lời sẽ là sự kết hợp hai yếu tố "thị trường" và "định hướng xã hội chủ nghĩa"
hàm chứa một ý nghĩa văn hóa bao trùm: chúng ta chỉ có thể thực hiện được
phương châm này một khi ý nghĩa văn hóa chi phối toàn bộ nền kinh tế thị trường
của chúng ta. Nói khác đi, ở đây văn hóa và kinh tế hòa quyện vào nhau để bảo
đảm cho xã hội phát triển trong tính lành mạnh độc đáo của nó.
Trong tổng thể xã hội, cả bốn hệ thống văn minh kinh tế, chính trị, văn hóa,
sinh thái phải nằm trong một chỉnh thể hữu cơ gắn bó, thúc đẩy lẫn nhau, không thể
tách rời vì sự biệt lập từng bộ phận sẽ kéo lùi phát triển. Chỉ có sự phát triển nhịp
nhàng giữa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tạo ra sự phát triển hài hòa giữa
văn minh vật chất và văn minh tinh thần mới bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội. Văn hóa phản ánh gương mặt tinh thần của nhân dân và trình độ văn
minh của dân tộc, là lực lượng tinh thần và nhân tố trí lực có tác dụng thúc đẩy phát
triển toàn diện xã hội. Sự phát triển văn hóa trong việc thỏa mãn nhu cầu văn hóa
ngày một tăng cao của nhân dân, nâng cao tinh thần yêu nước, tố chất văn hóa khoa
học và tố chất đạo đức tư tưởng của toàn dân tộc, hình thành lý tưởng và khát vọng
chung của tất cả mọi thành viên trong xã hội, thực sự là nền tảng tinh thần và trụ
cột tinh thần quan trọng không gì thay thế được. Phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự chọn lựa tất nhiên để phát triển sức sản xuất xã hội
nhằm tiến tới hiện đại hóa đất nước. Do đó, phát triển văn hóa tiên tiến song song
với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là để giải
phóng và phát triển sức sản xuất xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng
cao của nhân dân. Nó thống nhất một cách nội tại trong thực tiễn xây dựng xã hội
chủ nghĩa. Văn hóa tiên tiến phải là thứ văn hóa thích ứng với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường
54



Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển. Phát triển văn hóa tiên tiến là động lực tinh
thần nâng đỡ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nguồn cơ sở vật chất bảo đảm
phát triển văn hóa tiên tiến.
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nguồn
thực tiễn để phát triển văn hóa tiên tiến. Văn hóa tiên tiến Việt Nam hiện nay vừa
bắt nguồn từ lịch sử văn hiến mấy nghìn năm của dân tộc đồng thời gắn chặt với
thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tính tiên tiến của nó không
những thể hiện ở sự tiếp nối hiệu quả truyền thống văn hóa lâu đời mà quan trọng
nhất là thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của thời đại mới. Sức sống cơ bản của văn
hóa mới chủ yếu bắt nguồn từ hoạt động sáng tạo hiện thực của hàng chục triệu
nhân dân. Chuyển biến từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi xã hội rộng lớn và
sâu sắc. Xây dựng văn hóa đương đại nước ta nếu không xuất phát từ thực tiễn
xanh tươi này, không gắn với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để hút
lấy dưỡng chất hiện đại và năng động (kể cả những sự bình đẳng tín dụng, hiệu quả
cạnh tranh,…) thì sự phát triển văn hóa tiên tiến rất dễ trở thành một khẩu hiệu
trống rỗng và một khái niệm xơ cứng. Mặt khác, bước vào thời đại kinh tế tri thức,
sự phát triển con người là sự tổng hợp giữa con người kinh tế với con người văn
hóa. Do năng suất lao động ngày càng cao, thời gian lao động rút ngắn, vì thế, thời
gian dành cho phát triển con người văn hóa ngày càng tăng. Hơn nữa, do tác động
của phát triển khoa học theo hướng nhân văn, trong người lao động tri thức, con
người văn hóa sẽ ngày càng trội hơn. Đó là cơ sở vững chắc bảo đảm cho sự phát
triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng
chính là cái gốc của phát triển văn hóa.
Thứ hai, cùng với sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật hiện đại và sự phát triển
của kinh tế, cơ sở vật chất của phát triển văn hóa cũng có nhiều biến đổi sâu sắc.
Một mặt, hàm lượng khoa học – kỹ thuật của sản phẩm văn hóa ngày càng cao,

phương thức chuyển tải hiện đại liên tục xuất hiện, sản xuất và truyền bá văn hóa
ngày càng mở rộng và hiệu quả nhờ vào những thành tựu mới như máy tính, thông
tin vệ tinh, mạng. Mặt khác, văn hóa và kinh tế ngày càng hòa nhập vào nhau.
Trước đây, người ta thường cho rằng văn hóa thuộc thượng tầng kiến trúc xa rời
kinh tế và chỉ tác động đến sức sản xuất một cách gián tiếp. Tuy nhiên, trong điều
kiện kinh tế thị trường, việc sản xuất sản phẩm văn hóa như sách báo, sản phẩm
video không chỉ mang ý nghĩa là sản phẩm truyền bá quan niệm, tư tưởng mà còn
là một loại vật hóa. Những sản phẩm do ngành công nghiệp văn hóa chế tác nên
chính là kết quả của quá trình nhất thể hóa văn hóa kinh tế. Theo đó, văn hóa không
còn đơn thuần là những quan niệm, tư tưởng có tác dụng gián tiếp đối với sức sản
xuất, mà còn với hình thức của một ngành công nghiệp mới năng động có hiệu suất
kinh tế cao là công nghiệp văn hóa. Tóm lại, trong thời đại kinh tế tri thức, văn hóa
và kinh tế, khoa học kỹ thuật – kinh tế – văn hóa ngày càng gắn bó chặt chẽ thì
55


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
sáng tạo ban đầu của văn hóa tuy vẫn mang tính cá thể nhưng việc sản xuất nó đã
được sự hỗ trợ mạnh mẽ và hiệu quả của khoa học – kỹ thuật trình độ cao, có khả
năng thâm nhập thị trường một cách mạnh mẽ. Sự phát triển văn hóa tiên tiến ngày
càng chịu sự chi phối của trình độ khoa học – kỹ thuật cao hay thấp và thực lực
kinh tế lớn hay nhỏ. Vì vậy, chỉ có phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đưa sản xuất văn hóa vào quỹ đạo thị trường và thúc đẩy ngành công
nghiệp văn hóa phát triển mạnh mẽ, thì phát triển văn hóa tiên tiến mới có cơ sở
kinh tế vật chất hùng hậu. Một minh chứng sinh động là nhiều đơn vị văn hóa như
báo chí, nhà xuất bản, đài truyền hình từ tình trạng vắng vẻ trước đây dần trở thành
cơ sở sản xuất văn hóa sôi động, theo đó khả năng tự tích lũy sản xuất văn hóa và
tự phát triển không ngừng được nâng cao.
Thứ ba, sản xuất văn hóa khi trở thành một ngành công nghiệp vận hành theo

quy tắc thị trường, thì thị trường sẽ trở thành cơ chế thực hiện của phát triển văn
hóa tiên tiến. Một mặt, thị trường trở thành biểu đồ xác định nhu cầu văn hóa tinh
thần của con người, từ đó dắt dẫn người sản xuất văn hóa đáp ứng những nhu cầu
đa dạng ấy. Đồng thời do mục đích của văn hóa là hướng tới phục vụ đông đảo
quần chúng nhân dân, nên về cơ bản thị trường văn hóa nước ta hoàn toàn nhất trí
với lợi ích căn bản của quần chúng nhân dân, và thống nhất với phương hướng phát
triển của văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trong hơn hai mươi năm tiến hành đổi mới,
nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị đã xuất hiện và đạt hiệu quả xã hội cao, diện phủ
sóng của nó ngày càng mở rộng nhờ vào cơ chế thị trường. Nhưng cũng có nhiều
sản phẩm văn hóa có giá trị thấp kém lợi dụng thị trường để mở rộng ảnh hưởng
tiêu cực. Vì vậy, để chống lại sự xâm thực của những sản phẩm thứ cấp một cách
hiệu quả, cần phải tăng cường sản xuất những sản phẩm văn hóa có giá trị thực sự.
Việc khẳng định tính thống nhất của văn hóa với kinh tế thị trường như đã
nói ở trên không có nghĩa là phủ định tính khác biệt giữa chúng, và dẫu phát triển
văn hóa tiên tiến không thể tách rời khỏi kinh tế thị trường, nhưng không phải cứ
thực hiện kinh tế thị trường thì văn hóa đương nhiên sẽ phát triển. Đó là vì: một là,
văn hóa có tính đặc thù, có tính độc lập tương đối với kinh tế và chính trị. Sản
phẩm văn hóa một khi trở thành hàng hóa và bước vào thị trường tất phải chịu sự
chi phối của quy luật kinh tế thị trường, nhưng về bản chất, văn hóa là siêu kinh tế.
Văn hóa tiên tiến là kết quả hoạt động tinh thần của con người, có nhiều tầng nội
hàm lịch sử, đạo đức, thẩm mỹ hướng tới chân – thiện – mỹ. Với nội dung tinh thần
phong phú, văn hóa tác động vào thế giới tinh thần của con người, từ đó góp phần
hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan… Các giá trị văn hóa tinh
thần không phải cứ có tiền là giành được vì nhiều lúc nó vô giá. Hai là, thị trường
có tính hạn chế của nó và không phải bất cứ ở đâu thị trường cũng tỏ rõ được sức
mạnh của nó. Chẳng hạn, lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản rất khó sản sinh ra
hiệu quả kinh tế trực tiếp, tức thì, do đó nó không thích hợp với việc thông qua thị
trường để điều tiết. Ngược lại, nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị thấp kém nhưng
có khả năng gây hiếu kỳ nhiều khi lại bán rất chạy trên thị trường. Tại đây, thị
56



Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
trường không thể tự phân biệt được thiện – ác, đẹp – xấu trong các sản phẩm văn
hóa. Nếu không chú ý đến điều này, thì việc điều tiết thị trường sản phẩm văn hóa
rất dễ chệch hướng. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này là: sự phát triển văn
hóa tiên tiến lấy mục tiêu xã hội làm định hướng trong khi đó kinh tế thị trường lại
lấy lợi ích cá thể làm định hướng. Hai định hướng này không phải lúc nào cũng
nhất trí. Một số nhà sản xuất dễ rơi vào duy lợi mà quên mất mục tiêu xã hội của
văn hóa. Vì vậy, sự phát triển của văn hóa không thể tách rời kinh tế thị trường
nhưng lại không thể hoàn toàn bị thị trường hóa. Phải tìm được điểm kết hợp giữa
nhu cầu khách quan với quy tắc vận hành kinh tế thị trường của văn hóa.
Việc xây dựng và phát triển thị trường văn hóa cũng như việc phát triển công
nghiệp văn hóa là có tính tất yếu và tính hiện thực hợp lý. Bởi lẽ, sự phát triển của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có cơ chế công nghiệp
văn hóa và quy mô phát triển văn hóa tương ứng. Tuy nhiên, trong thực tế, so với
các quốc gia đang phát triển thì ở Việt Nam việc đầu tư sản xuất về văn hóa, khoa
học – kỹ thuật, giáo dục vẫn còn rất nhiều hạn chế. Điều đó cho thấy chúng ta nhận
thức chưa đầy đủ về vị trí và tầm quan trọng của công nghiệp văn hóa với tư cách
là trụ cột của kinh tế đương đại. Mặt khác, chúng ta chưa nhận thức được sự phát
triển hài hòa, lâu dài của văn hóa và kinh tế, không thấy hết sự tụt hậu của văn hóa
sẽ kéo lùi sự phát triển kinh tế về sau. Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải có chiến
lược phát triển tổng thể hợp lý. Ngoài ra, do sự phát triển mạnh mẽ của truyền
thông đương đại, toàn cầu hóa về lưu thông kinh tế cũng như giao lưu văn hóa ngày
càng mở rộng buộc chúng ta phải xem xét một cách nghiêm túc phương thức vận
hành của thị trường văn hóa để thích ứng, hiểu rõ quy luật kinh tế của giao lưu văn
hóa và định ra sách lược an ninh văn hóa của mình, từng bước hoàn chỉnh thể chế
văn hóa, thị trường văn hóa mang bản sắc Việt Nam.
Một số nguyên tắc chỉ đạo phát triển văn hóa dưới điều kiện kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Kiên trì tư tưởng xây dựng nền "văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc"
trong xu thế đa dạng hóa hình thái văn hóa
Đây là tư tưởng chủ đạo để phát triển văn hóa Việt Nam trong thời đại ngày
nay. Thực tiễn công cuộc đổi mới cho thấy phát triển kinh tế thị trường tất sẽ xuất
hiện xu thế đa dạng hóa hình thái văn hóa. Điều đó trước hết xuất phát từ chỗ văn
hóa có nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú của
nhân dân. Sự nghiệp đổi mới đã đem đến bức tranh văn hóa giàu màu sắc, sản
phẩm văn hóa ngày càng nhiều chủng loại, thị trường văn hóa ngày càng sôi động,
không gian chọn lựa của mọi người ngày càng rộng lớn. Tiến bộ của khoa học – kỹ
thuật hiện đại cũng góp phần thay đổi thể chuyển tải tin tức (mà biểu hiện rõ nhất là
quảng cáo trên internet và các video giới thiệu sản phẩm), hình thức văn hóa cũng
liên tiếp đổi mới, bổ sung, thay thế nhằm thu hút người tiêu dùng. Sự tiến bộ xã hội
và mức thu nhập, trình độ học vấn ngày càng cao thì nhu cầu văn hóa tinh thần của
mọi thành viên trong xã hội ngày càng đa dạng hóa và cá tính hóa. Mặt khác, sự
57


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
chênh lệch thu nhập giữa các thành viên trong xã hội ngày càng rộng cũng làm cho
quan niệm tiêu dùng, phương thức sinh hoạt của con người có những khác biệt ghê
gớm. Kinh tế thị trường tất nhiên sẽ dẫn tới đa nguyên hóa chủ thể lợi ích. Chủ thể
lợi ích khác nhau tất có sự khác nhau về quan niệm, tư tưởng, định hướng giá trị, ý
tưởng văn hóa, mục tiêu,… từ đó dẫn tới sự đa dạng hóa hình thái văn hóa. Hơn
nữa, trong môi trường mở cửa, các loại tư tưởng văn hóa, hình thức văn hóa, sản
phẩm tiêu dùng văn hóa đều có khả năng xóa bỏ mọi biên giới quốc gia. Chẳng hạn,
nước ngoài có mốt gì, thời thượng nào đều nhanh chóng dẫn tới những "cơn sốt"
thời thượng trong nước.
Kinh tế thị trường là kinh tế lấy con người làm gốc, sự tự chủ và sự chọn lựa

tự do của cá nhân là đặc trưng nổi bật. Văn hóa tiên tiến của nước ta là văn hóa
hướng tới việc thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần nhiều tầng bậc, đa dạng của
nhân dân. Đó là loại văn hóa có thể bao dung nhiều lợi ích, nhiều nhu cầu văn hóa
tinh thần của nhân dân, bao dung cả hình thái văn hóa có lợi cho phát triển sản xuất
xã hội. Vì vậy, về căn bản xu thế đa dạng hóa hình thái văn hóa không hề mâu
thuẫn với phương hướng phát triển lành mạnh của văn hóa.
Nhưng sự đa dạng hóa hình thái văn hóa không phải là đa dạng theo kiểu tự
do vô chính phủ. Nền văn hóa Việt Nam phải là nền văn hóa gắn liền với những tư
tưởng tiên tiến nhất của thời đại. Đây là cốt lõi tư tưởng để từ đó phát triển văn hoá
trong tính đa dạng và năng động của nó, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu văn hóa
của nhân dân.
- Tăng cường tầm kiểm soát vĩ mô của Nhà nước về lĩnh vực văn hóa và
chuyển biến phương thức quản lý văn hóa
Từ chỗ quản lý trực tiếp các đơn vị văn hóa và hoạt động văn hóa như trước
đây, trong bối cảnh kinh tế thị trường, nhiệm vụ chính của Nhà nước là kiểm soát
và điều chỉnh ở tầm vĩ mô. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để sự lãnh đạo và quản lý
của Đảng và Chính phủ đối với phát triển văn hóa đạt hiệu quả cao nhưng không
can thiệp quá sâu vào quá trình vận hành văn hóa.
Trước hết, sự chuyển đổi phương thức quản lý văn hóa không hề làm suy yếu
chức năng quản lý lĩnh vực văn hóa của Nhà nước. Phương thức quản lý mới phải
thích ứng với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường: không lấy chính quyền thay
thế thị trường mà biến ý chí của Đảng và Nhà nước thành pháp luật, pháp quy, hành
vi quy phạm yêu cầu các doanh nghiệp văn hóa tuân thủ, duy trì trật tự của thị
trường văn hóa, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, xúc tiến và thúc đẩy sự
trưởng thành và phát triển của thị trường văn hóa, định ra các tiêu chuẩn sản phẩm
văn hóa và dịch vụ văn hóa, thực thi giám sát chất lượng, trừng trị những hoạt động
kinh doanh văn hóa độc hại trên cơ sở luật pháp đã ban hành. Bằng cách kiểm soát
ở tầm vĩ mô, Nhà nước có những chính sách, điều chỉnh hợp lý để kinh doanh văn
hóa hoạt động trong quỹ đạo có lợi cho phát triển văn hóa tiên tiến.
Thứ hai, chú trọng giúp đỡ sự nghiệp văn hóa công ích. Sản xuất văn hóa có

58


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
thể chia thành hai loại: sản xuất văn hóa kinh doanh và sản xuất văn hóa công ích.
Các loại hình nghệ thuật bậc cao như văn học, nhạc giao hưởng, vũ ba-lê, ca kịch…,
hay những thiết chế văn hóa mang tính công ích như thư viện công cộng, nhà bảo
tàng quốc gia, nhà kỷ niệm, hội khoa học – kỹ thuật, hội mỹ thuật, hội văn hóa…
đều có thể phản ánh trình độ văn hóa của quốc gia và dân tộc, là bộ phận hợp thành
của văn hóa tiên tiến. Loại văn hóa mang tính công ích này khác với văn hóa mang
tính kinh doanh. Vì vậy, nó không thích hợp với việc lấy thị trường để điều tiết, đòi
hỏi Nhà nước áp dụng chính sách đặc thù để bảo vệ và nâng đỡ, trong đó bao gồm
việc quy hoạch xây dựng hạ tầng văn hóa công cộng, cung cấp tài chính đầy đủ,
hướng dẫn việc đầu tư vốn của xã hội.
Thứ ba, tích cực đào tạo chủ thể văn hóa vi mô có ưu thế cạnh tranh. Trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và toàn cầu hóa kinh tế, để giữ được tính tiên
tiến của văn hóa xã hội chủ nghĩa, yếu tố quyết định nằm ở việc định hướng hành
vi của người sản xuất văn hóa, ở chủ thể thị trường phát triển văn hóa tiên tiến có
khả năng và sức mạnh cạnh tranh. Vì vậy, phải chú ý đến cơ sở vi mô phát triển văn
hóa vì đây là những cơ sở có khả năng hiện thực hóa sức mạnh cạnh tranh thực sự.
Cụ thể, những lĩnh vực quan trọng liên quan đến hệ tư tưởng và chủ quyền văn hóa
quốc gia, an toàn văn hóa quốc gia như báo chí, xuất bản, đài phát thanh, đài truyền
hình… về cơ bản phải do Nhà nước điều hành. Đối với các lĩnh vực sản xuất và
dịch vụ văn hóa thông thường khác, có thể áp dụng hình thức doanh nghiệp văn hóa
đa dạng, hình thành chủ thể đầu tư đa nguyên, xây dựng các công ty đa quốc gia có
sức cạnh tranh ngày càng lớn. Vì vậy, tích cực thúc đẩy quá trình tập đoàn hóa các
thực thể văn hóa để hình thành một loạt tập đoàn doanh nghiệp văn hóa có thực lực
hùng hậu là một nhiệm vụ cấp bách.
- Mở cửa đi đôi với bảo vệ và phát triển văn hóa

Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa với thế giới bên ngoài
vì đóng cửa đồng nghĩa với tự hủy diệt mình. Việc mở cửa toàn diện về kinh tế tất
nhiên sẽ kéo theo sự mở cửa về văn hóa. Sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học – kỹ
thuật hiện đại đã làm cho quá trình truyền bá và giao lưu văn hóa diễn ra nhanh hơn,
rộng rãi hơn trên phạm vi toàn thế giới.
Vì vậy, khép kín văn hóa không những khó lòng tồn tại mà còn triệt tiêu cơ
hội phát triển. Bởi vậy, thông qua giao lưu văn hóa rộng rãi để thu hút tinh hoa của
văn hóa thế giới, tăng cường năng lực cạnh tranh của văn hóa dân tộc, năng lực
phòng ngự và năng lực chống lại rủi ro là vấn đề hết sức quan trọng trong chiến
lược phát triển văn hóa. Giao lưu văn hóa cũng đòi hỏi phải có chiến lược quảng bá
văn hóa Việt Nam ra thế giới một cách hiệu quả. Đây là khâu chúng ta còn yếu và
chưa được chú ý thích đáng. Tất nhiên, quá trình mở cửa về văn hóa phải gắn liền
với quá trình tự bảo vệ, chống lại những thứ sản phẩm phản văn hóa. Phần lớn sự
tấn công từ bên ngoài trong lĩnh vực văn hóa – tư tưởng đều được tiến hành qua thị
trường. Nhiều quan niệm giá trị của các nước tư bản phát triển được truyền bá vào
các nước khác, về cơ bản, đều thông qua việc tiêu thụ mang tính toàn cầu như điện
59


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
ảnh, tivi, video, sách báo… Trong số những sản phẩm văn hóa ấy, không phải
không có những sản phẩm ngụy văn hóa, phương hại đến nhân cách của con người.
Vì thế, phải hình thành những kế sách bảo vệ sự trong lành của sinh thái văn hóa
dân tộc.
Phải thấy rằng trong sự giao lưu của các nền văn hóa khác nhau, văn hóa dân
tộc phải nhanh chóng trở thành thực lực kinh tế đủ mạnh để chủ động trong việc
tiếp nạp các nguồn dưỡng chất văn hóa từ bên ngoài. Trong môi trường văn hóa
quốc tế rộng mở, ngành công nghiệp văn hóa càng lớn mạnh thì khả năng mở rộng
thị trường càng lớn. Tuy nhiên, ở đây phải có những bước đi hợp lý nếu không

muốn bị công nghiệp văn hóa nước ngoài chèn ép và làm cho suy sụp. Vì vậy, bảo
vệ văn hóa còn gắn liền với bảo vệ và phát triển công nghiệp văn hóa của dân tộc
mình. Nhưng bảo vệ đến mức khép kín và hạn chế giao lưu lại là hình thức tự làm
yếu đi sức cạnh tranh trước khi bị làm suy yếu. Bởi vậy, trong các giai đoạn phát
triển khác nhau phải có sự cân bằng giữa mở cửa và bảo vệ. Sản phẩm văn hóa là
một loại sản phẩm có tính mẫn cảm dân tộc cao độ. Ngay các quốc gia phát triển
phương Tây, việc mở cửa thị trường văn hóa của họ không bao giờ tràn lan mà có
sự tiết chế nhất định nào đó. Chính trong hiệp định chung thương mại – dịch vụ của
WTO cũng có nội dung cho phép thực thi các biện pháp bảo đảm. Việt Nam có thể
căn cứ vào nhu cầu bảo vệ an toàn văn hóa, căn cứ vào điều khoản của WTO để
định ra chính sách bảo vệ văn hóa một cách phù hợp.
Tất nhiên, toàn cầu hóa không có nghĩa là khuôn thế giới vào một mô hình
văn hóa duy nhất. Quá trình truyền bá, giao lưu văn hóa sẽ làm cho các dân tộc xích
lại gần nhau hơn, tính nhân loại được chú ý hơn, nhưng phát triển văn hóa không
thể làm mất đi truyền thống và bản sắc riêng của dân tộc. Phải biết học tập văn hóa
ưu tú của thế giới đồng thời với việc giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa của dân
tộc thì phát triển văn hóa mới thực sự đúng đắn và bền vững.
1.5. Văn hóa thanh niên
- Thanh niên, tiếp cận từ góc độ xã hội học - dân cư có thể định nghĩa là một
bộ phận phức hợp của dân cư của một quốc gia - dân tộc bao gồm tất cả các cá thể
ở trong độ tuổi từ 15 đến 29. Như vậy, bộ phận dân cư được gọi là “thanh niên” này
chỉ phân biệt một cách tương đối với các bộ phận dân cư khác của quốc gia - dân
tộc ấy trên một tiêu chí duy nhất là giới hạn độ tuổi. Nếu sử dụng thuật ngữ “nhóm
xã hội” để chỉ tập hợp xã hội - dân cư “thanh niên” này thì có thể thấy “nhóm” này
có đường ranh giới nhóm (group boundary) rất mong manh, chẳng khác nào hai sợi
dây ảo chắn giữa hai đầu một khúc sông luôn luôn chảy, bởi lẽ các thành viên của
nhóm liên tục vào ở đầu này và ra ở đầu kia do quy luật vận động tự nhiên của sự
“lớn lên” hay “già đi” của các thành viên. Và điều này cho thấy “thanh niên” là một
nhóm xã hội - dân cư “động” chứ không phải là một nhóm “tĩnh”, ổn định. Đặc
trưng này hàm chứa cả những ưu điểm và cả những nhược điểm của nhóm xã hội dân cư “thanh niên”. Một mặt, nhờ quy luật là nhóm “động” thường xuyên cho nên

nó luôn là chủ thể chuyển tải liên tục các giá trị liên thế hệ, nhưng mặt khác nó rất
60


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
khó xác lập cho mình những giá trị xác định có thể tạo nên một bản sắc nhóm bền
vững (sustainable group identity). Vì vậy, việc nghiên cứu, khám phá những định
hướng giá trị, xác định những chiều cạnh khách quan và chủ quan của văn hóa và
lối sống của nhóm này hết sức khó khăn và luôn hàm chứa độ dung sai và rủi ro
cao.
Với tính cách là một nhóm xã hội - dân cư, “thanh niên” không chỉ “động”
và phức hợp xét theo chiều dọc mà còn hết sức phức hợp theo chiều phẳng ngang,
bởi lẽ nó hàm chứa trong đó những cá thể ở độ tuổi thanh niên có nguồn gốc xuất
thân khác nhau, thuộc 2 mọi giai tầng trong xã hội, với các trình độ học vấn, tôn
giáo, sắc tộc, giới tính, thành thị và nông thôn và với nhiều ngành nghề khác nhau,
dưới sự tác động của nhiều định hướng ý thức hệ, tư tưởng, truyền thống, mô hình
ứng xử và với nhiều loại thói quen, tập tục vv... khác nhau. Hơn nữa, xét riêng về
độ tuổi thì nhóm xã hội - dân cư “thanh niên” cũng chỉ là một nhóm lớn, bao gồm
trong đó nhiều nhóm nhỏ thuộc các độ tuổi khác nhau. Một số người chia “thanh
niên” thành 3 tiểu nhóm (subgroup) ở các độ tuổi 14-17, 18-21, 22-25 (ở đây giới
hạn cho tuổi “vị thành niên và thanh niên” được tính từ 14 đến 25).
Trong khi đó một số nhà nghiên cứu khác lại chia “thanh niên” thành các tiểu
nhóm theo các độ tuổi 15- 19, 20-24 và 25-29. Trong một chuyên khảo xuất bản
gần đây, Đặng Cảnh Khanh lại chia “dân số thanh niên” thành hai nhóm lớn theo
các độ tuổi, 15 - 24 và 25 - 34 (ở đây giới hạn độ tuổi của thanh niên được tính từ
15 đến 34). Ngoài tiêu chí độ tuổi, nhóm xã hội - dân cư “thanh niên” còn có thể
được chia thành các tiểu nhóm khác nhau, như thanh niên thành thị, thanh niên
nông thôn (nếu lấy địa bàn cư trú làm tiêu chí phân biệt), hay thanh niên công nhân,
thanh niên nông dân hoặc thanh niên trí thức (nếu lấy nghề nghiệp làm tiêu chí

phân biệt)... Ngoài ra, các yếu tố khác như tộc người, tôn giáo, giới tính, giàu nghèo... cũng có thể được coi là tiêu chí để phân biệt các tiểu nhóm trong nhóm lớn
“thanh niên”. Qua đó có thể thấy “thanh niên” là một nhóm xã hội dân cư có tính
phức hợp (hetrogenousness) rất cao, hàm chứa trong đó nhiều sự đa dạng
(diversities) về độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú, định hướng giá trị,
lợi ích, tâm linh và các mô hình ứng xử (modes of behaviors) và lựa chọn xã hội
(social preferences)... Vì vậy, trong nghiên cứu về văn hóa thanh niên và lối sống
thanh niên cần phải đặc biệt lưu ý đến tính phức hợp và tính đa dạng cao của nhóm
xã hội - dân cư này, đồng thời phải luôn luôn đặt nhóm đó trong mối liên hệ với các
nhóm xã hội - dân cư, xã hội - nghề nghiệp, xã hội - giai cấp hoặc những cộng đồng
dân cư khác nhau để xem xét, tham chiếu.
Để khám phá và nhận diện đầy đủ hơn tính phức hợp và đa dạng trong cấu
trúc xã hội, trong định hướng giá trị, trong mô thức ứng xử và trong lối sống của
thanh niên thì nhất định các nghiên cứu, khảo sát về thanh niên cần phải dựa trên
hai cách tiếp cận căn bản là tiếp cận đa chiều (multi-dimensional approach) và liên
ngành (multi-disciplinary approach). Đây là một đòi hỏi có tính phương pháp luận
trong nghiên cứu về thanh niên, và thực tế đây là một đòi hỏi rất khó khăn mà nhà
61


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
nghiên cứu không dễ gì đáp ứng được, cho dù họ có ý thức đầy đủ và rõ ràng về
tính chính đáng của đòi hỏi này. Dù là nhóm xã hội - dân cư có tính phức hợp và đa
dạng rất cao như đã chỉ ra ở trên, “thanh niên” vẫn có những đặc điểm, đặc trưng
chung, tạo nên tính thống nhất (unity), những sự tương đồng (similarities) là cơ sở
cho độ cố kết của nhóm (group cohesion). Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê, “Điều tra
Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam”, 2003 ();
Tổng cục Thống kê, “Kết quả điều tra biến động dân số 1-4-2006”,
(); Đặng Cảnh Khanh, Xã hội học Thanh niên, Nxb Chính trị
Quốc gia, (H.2006, tr. 79); Cái chung, cái thống nhất căn bản nhất của “thanh niên”

chính là ở tuổi trẻ, ở độ tuổi “thanh niên” của tất cả các thành viên. Trong cuộc đời
của mỗi con người thì tuổi thanh niên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Xét từ góc độ
tâm - sinh lý thì đây là giai đọan con người chuyển biến từ một đứa trẻ thành một
người trưởng thành với sự hòan thiện cơ thể về mặt sinh học và những chuyển biến
về tâm - sinh lý, tình cảm rất điển hình của “tuổi dậy thì”. Xét từ góc độ “con người
-xã hội” thì tuổi thanh niên chính là giai đọan mỗi con người chuẩn bị hành trang
cho tòan bộ cuộc đời mình: học vấn, nghề nghiệp, thử nghiệm và lựa chọn văn hóa,
kinh nghiệm, lối sống trên cở sở định hình dần hệ giá trị của riêng mình, trở thành
công dân thực thụ với đầy đủ những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định, lựa chọn
bạn đời và lập gia đình (hay không lập gia đình)... Với ý nghĩa nhóm xã hội - dân
cư thì thanh niên cũng có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống của
mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia - dân tộc. Hồ Chí Minh từng nói: “Một năm bắt đầu
bằng mùa xuân, cuộc đời bắt đầu bằng tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc.”
Thanh niên là nhóm xã hội - dân cư có sứ mệnh đón nhận sự “trao truyền” giá trị,
bàn giao nhiệm vụ, ủy thác trách nhiệm, gửi gắm niềm tin của thế hệ đi trước (thế
hệ già đã và đang giữ vai trò lãnh đạo gia đình - cộng đồng - quốc gia dân tộc). Vì
vậy, có thể nói thanh niên chính là tương lai của toàn cộng đồng, dân tộc. Nếu thế
hệ thanh niên không được chuẩn bị chu đáo để tiếp nhận sự bàn giao sứ mệnh, kế
tục các thế hệ đi trước thì số phận và tương lai của tòan bộ cộng đồng quốc gia dân tộc sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Chính vì vậy mà các thế hệ đi trước (của tất cả
các dân tộc và trong nhiều thời đại lịch sử) đều thường rất quan tâm tới việc đào tạo,
rèn luyện, gây ảnh hưởng với thanh niên bằng nhiều phương thức khác nhau, chuẩn
bị để họ nhận lãnh trách nhiệm với dân tộc và cộng đồng, kế tục sự nghiệp của các
thế hệ đi trước.
Trong Di chúc của mình, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng và nhân dân ta: “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Do
tầm quan trọng của mối quan hệ liên thế hệ này mà sự giao phó - nhận lãnh, bàn
giao - kế tục, trao truyền - tiếp nhận giữa các thế hệ “già” và thanh niên cũng luôn
luôn nảy ra những xung đột phức tạp, đôi khi khá gay gắt. Về phía các thế hệ “già”,
họ thường có xu hướng trở nên bảo thủ, coi những lựa chọn, những chế định và
những mô hình, chính sách, quan niệm... của thế hệ đi trước là tuyệt đối đúng, lo

ngại thế hệ kế tục sẽ chỉnh sửa hoặc thay đổi, phủ nhận tất cả, mà quên rằng đó là
lựa chọn và quyết định có tính lịch sử của thế hệ của họ mà thôi. Hơn nữa, họ cũng
62


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
thường coi thanh niên là những người non nớt, không đủ bản lĩnh và kinh nghiệm
để thay thế cho thế hệ của họ, cho dù họ cũng từng trải qua thời thanh niên và ý
thức đầy đủ được rằng việc họ nhường chỗ cho thế hệ trẻ hơn là một tất yếu khách
quan. Về phía thanh niên thì không được quên rằng sứ mệnh của họ là người kế tục,
nhận lãnh trách nhiệm, sứ mệnh và các giá trị của các thế hệ già. Tuy nhiên, vì họ là
thế hệ của những người trẻ tuổi, là sản phẩm đích thực của thời đại mà họ đang
sống. Vì vậy họ là lớp người vô cùng năng động, không bị động mà luôn luôn chủ
động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang cho tương lai của bản thân mình và
của quốc gia - dân tộc. Vì vậy, bên cạnh những gì họ bị ảnh hưởng do tiếp nhận
những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi trước thì họ luôn luôn có lựa chọn của
riêng mình và thế hệ mình. Ngòai ảnh hưởng của thế hệ “cha chú” trong cộng đồng
gia đình hay quốc gia - dân tộc, trong thời đại tòan cầu hóa, họ còn chịu ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố văn hóa, tri thức, kinh nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng
đồng và cá nhân khác trên thế giới. Với tất cả những điều kiện đó, thanh niên
thường có xu hướng thử nghiệm nhiều khả năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ
còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho những thử nghiệm đó, vì đối với họ, dù có phạm
sai lầm vẫn có thời cơ làm lại, thử nghiệm lại. Và vì vậy, phần đông thanh niên
thường có xu hướng hoài nghi, kiểm chứng lại những lựa chọn, chế định và quan
niệm của thế hệ đi trước, thậm chí cố tình phủ nhận, làm khác, coi đó như một
phương thức để khẳng định tư cách “người lớn” của mình. Đó là nguyên nhân
thường dẫn đến những “lệch chuẩn” trong ứng xử văn hóa của thanh niên. Khi
những thử nghiệm bị thất bại, những “lệch chuẩn” bị lên án thì thanh niên sẽ rơi
vào tình trạng bi quan, chán nản, phản kháng và thậm chí là phạm tội. Tính trẻ,

năng động, ưa thử nghiệm và dễ phạm sai lầm và xung đột với thế hệ đi trước chính
là mẫu số chung, là đặc điểm chung của thanh niên ở mọi thời đại, mọi quốc gia dân tộc. Hơn nữa, càng về sau và càng ở các quốc gia - dân tộc văn minh, hiện đại,
tình trạng này càng bộc lộ rõ, phức tạp và gay gắt hơn. (Trong các xã hội thời cổ
đại và trung đại thì khỏang thời gian dành cho tuổi “thanh niên” của con người
thường rất ngắn, bởi khi đó con người “chưa kịp lớn đã phải già”, vừa bước qua
tuổi vị thành niên đã buộc phải làm người lớn với đầy đủ chức phận của mình. Còn
ở các nước chậm phát triển hiện nay thì nhìn chung tốc độ thay đổi tri thức, kinh
nghiệm, kinh tế và văn hóa là chậm hơn so với các nước phát triển. Vì vậy sự khác
biệt thế hệ giữa thanh niên và thế hệ già thường nhỏ hơn, đơn giản hơn nên các
“xung đột thế hệ” cũng dường như ít gay gắt và phức tạp hơn.) Qua những phân
tích ở trên thì có thể khẳng định tính trẻ và năng động là một trong những đặc trưng
chung của thanh niên ở tất cả các quốc gia - dân tộc và trong các thời đại lịch sử
khác nhau. Lịch sử đã chứng minh rằng các hệ tư tưởng, tôn giáo, học thuyết, chính
sách, chế định, pháp luật và luật tục thường là sản phẩm của các thế hệ lớn tuổi,
nhưng các khởi xướng (initiative) xã hội, văn hóa, lối sống các trào lưu và các phản
kháng xã hội - chính trị, các giáo phái, các dòng thời trang và âm nhạc… thường
xuất hiện trong thanh niên, bắt nguồn từ thanh niên. Cuối cùng đời sống các cộng
đồng, các quốc gia - dân tộc và toàn nhân loại chỉ tái lập được sự ổn định tương đối,
63


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
sự hài hòa và phát triển bền vững khi sự tương tác liên thế hệ và giữa thanh niên và
nhóm người “già” tìm được tiếng nói chung và đạt được những sự nhân nhượng
thích hợp (rational compromise), đồng thời những xung đột “bề ngang” giữa các
giai cấp và các nhóm xã hội khác nhau tìm được sự thỏa thuận về lợi ích.
Ngoài đặc trưng chung có tính bao trùm nói trên, trong mỗi cộng đồng cư
dân và mỗi quốc gia - dân tộc và ở từng thời kỳ lịch sử thanh niên còn có những
đặc điểm chung khác. Để khám phá những đặc điểm chung này cần có những khảo

sát liên ngành cụ thể. Văn hóa thanh niên cũng là một phạm trù được bàn luận khá
sôi nổi trên văn đàn khoa học ở Việt Nam và nước ngoài. Mặc dù phần đông các
nhà nghiên cứu đều có thể đồng ý với nhau về sự tồn tại khách quan của văn hóa
thanh niên, nhưng cách tiếp cận và định nghĩa về văn hóa thanh niên thì lại rất khác
nhau. Một cách tiếp cận và quan niệm được chấp nhận khá rộng rãi hiện nay là coi
văn hóa thanh niên là một loại “tiểu văn hóa” (subculture).
Người khởi xướng cách tiếp cận này chính là nhà xã hội học người Anh Dick
Hebdige với tác phẩm Subculture in the Meaning of Style (Tiểu văn hóa trong ý
nghĩa của phong cách) xuất bản lần đầu tiên vào năm 1979.6 Sau đó, một số học
giả khác cũng công bố những nghiên cứu về văn hóa thanh niên theo hướng tiếp
cận này. Có thể kể đến các công trình sau đây là tiêu biểu nhất: Brake, Michael
(1985) Comparative Youth Culture: The sociology of youth culture and youth
subcultures in America, Britain and Canada, Routledge, New York; Hall, Stuart &
Jefferson, Tony (1993) Resistance Through Rituals: Youth Subcultures in Post-war
Britain, Routledge, London và công trình của R. White, Youth Subculture: Theory,
History and the Australian Experience xuất bản tại Australia năm 1993. Xuất phát
từ những khảo sát về phong trào “Punk” xuất hiện trong thanh niên Anh vào những
năm 70 của thế kỷ trước, Hebdige cho rằng văn hóa thanh niên là một loại tiểu văn
hóa được nhận biết bởi tính đặc trưng của phong cách, ứng xử và các sở thích. Theo
Hebdige thì các thành viên của tiểu văn hóa này thường báo hiệu/bộc lộ tư cách
thành viên của mình thông qua những lựa chọn vật thể/hữu hình có tính biểu tượng
và rất điển hình về phong cách ăn mặc, đầu tóc và giày dép… Bên cạnh đó các yếu
tố phi vật thể/vô hình như sở thích chung, phương ngữ, tiếng lóng, loại hình âm
nhạc và cả những không gian tụ tập được ưa thích cũng đều là những yếu tố nhận
biết quan trọng. Theo Michael Brake thì các “tiểu văn hóa thanh niên” có thể được
định nghĩa là những hệ thống biểu đạt ý nghĩa (meaning systems), những mô thức
tự bộc lộ bản thân mình (modes of expression) hay phong cách sống (lifestyle) do
các nhóm yếu thế trong xã hội tạo nên nhằm để đối phó với các hệ thống đang
chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội - và điều này phản ánh những nỗ lực nhằm giải
quyết những mâu thuẫn có tính cấu trúc hình thành từ những môi trường xã hội

rộng lớn hơn. Cũng theo hướng này Stuart Hall và Tonny Jefferson cho rằng các
tiểu văn hóa thanh niên là các nỗ lực có tính nghi lễ và biểu tượng phản kháng lại
quyền uy của bá quyền tư sản (power of bourgeois hegemony) thông qua việc tiếp
nhận một cách có ý thức những cách ứng xử tỏ ra có thể đe dọa tới sự tồn tại của
64


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
trật tự hiện tồn.
Do vậy, các nghiên cứu về văn hóa thanh niên theo cách tiếp cận đối tượng
này với tính cách là một loại hình “tiểu văn hóa” thường tập trung vào phân tích
các biểu tượng văn hóa gắn với cách phục trang, loại hình âm nhạc được ưa thích
hoặc là những tác động hữu hình lên các thành viên của tiểu văn hóa đó. Đôi khi
người ta cũng so sánh tác động và ý nghĩa của những biểu tượng văn hóa đó đối với
các thành viên của nền văn hóa chủ đạo. Đây là cách tiếp cận và thao tác nghiên
cứu của trường phái xã hội học chức năng (functionalist sociology) khá thịnh hành
ở phương Tây sau Thế chiến II. Lý thuyết về tiểu văn hóa và cách tiếp cận này đã
mang lại cho việc nghiên cứu và những khảo sát có tính thực chứng về thanh niên
nói chung và văn hóa thanh niên nói riêng một cơ sở học thuật và công cụ phân tích
khá sắc bén, đặc biệt là khi đề cập tới những trào lưu mới lạ xuất hiện trong giới trẻ
phương Tây như phong trào hippies, punk, skinheads, kể cả phong trào hòa bình,
phản chiến và những dòng nhạc pop, rock, techno… Tuy nhiên, từ khi xuất hiện
cho tới nay lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận này trong nghiên cứu thanh niên
đã ngày càng bị phê phán mạnh mẽ. Có thể nhận thấy ngay một số “tử huyệt” của
lý thuyết về tiểu văn hóa thanh niên.
Thứ nhất, theo cách tiếp cận này thì bản chất của “tiểu văn hóa thanh niên”
chỉ là sự phản kháng xã hội của thanh niên đối với những chế định hiện tồn, hàm ý
do thế hệ “già” áp đặt cho xã hội. Đó là cách tiếp cận sẽ dẫn đến những ngộ nhận
về xung đột thế hệ như đã phân tích ở trên. Những xung đột mang tính phản kháng

đó là có thực, không ít khi hiện hữu bởi những phong trào thanh niên rộng lớn,
nhưng đó chỉ là một mặt của mối quan hệ liên thế hệ giữa thanh niên và các thế hệ
đi trước. Bên cạnh mặt phản kháng, phủ nhận, chối bỏ thì xu hướng tiếp nhận có
chọn lọc vẫn là xu hướng mang tính chủ đạo. Nếu không thừa nhận hoặc xem nhẹ
xu hướng này thì người ta sẽ không hiểu được tính liên tục của lịch sử nhân loại nói
chung và lịch sử của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc nói riêng, từ truyền thống tới hiện
đại, từ quá khứ đến tương lai và thậm chí cũng không phân tích được tính liên tục
và tính đứt đoạn trong sự phát triển nhân cách của mỗi con người. Hơn nữa, như
Shane Blackman chỉ ra trong một bài nghiên cứu gần đây, rằng cách tiếp cận này
không thể chỉ ra những biến đổi có tính cấu trúc của thanh niên và văn hóa thanh
niên. Như đã phân tích ở trên, mỗi thanh niên không chỉ mang trong mình “tư cách”
là một thanh niên, mà đồng thời anh/ chị ta còn đại diện cho gia đình mình, cộng
đồng mình, tôn giáo mình, sắc tộc của mình và giai cấp của mình. Vì vậy, thật là sai
lầm nếu quan niệm thanh niên chỉ là thanh niên, và chỉ là sản phẩm, đồng thời là
đại diện của “tiểu văn hóa thanh niên”.
Thứ hai, lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận này dường như chỉ quan tâm
tới những yếu tố bề mặt của văn hóa thanh niên, như cách phục trang, ngôn ngữ,
lọai hình vui chơi và một số phong cách sống điển hình... Như vậy, những nghiên
cứu theo hướng này tuy có làm được việc rất tốt là nhận dạng thanh niên và sự biến
đổi của văn hóa và lối sống thanh niên. Nhưng dường như cách tiếp cận này không
65


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
cho phép người ta khám phá những chiều sâu của văn hóa thanh niên, đặc biệt là sự
biến đổi của hệ giá trị văn hóa và các yếu tố làm nảy sinh và định hướng các xu
hướng biến đổi đó.
Do những “tử huyệt” như trên mà lý thuyết tiểu văn hóa và cách tiếp cận văn
hóa thanh niên dựa trên cơ sở của lý thuyết này chỉ có thể được coi như một hướng

bổ trợ đặc biệt. Theo chúng tôi, văn hóa thanh niên trước hết phải được coi là một
bộ phận không tách rời của văn hóa dân tộc. Nó có mối liên hệ hữu cơ với các bộ
phận và các thành tố khác của văn hóa dân tộc (suy rộng ra là cả nền văn hóa nhân
lọai) theo cả ba chiều: chiều dọc, chiều phẳng ngang và chiều sâu. Văn hóa thanh
niên, vì vậy, trước hết cũng phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc, với những đặc điểm
chung của nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, thanh niên là một
nhóm xã hội - dân cư đặc thù của cộng đồng quốc gia - dân tộc. Vì vậy nó cũng còn
có những đặc điểm, đặc trưng và sắc thái riêng của nó. Tuy nhiên, trước khi nói về
cái riêng, cái đặc thù của văn hóa thanh niên thì cần phải nhấn mạnh thêm một lần
nữa, rằng văn hóa thanh niên là một bộ phận hữu cơ của văn hóa dân tộc, xét theo
tất cả các chiều cạnh.
Những đặc điểm, đặc trưng và sắc thái riêng của văn hóa thanh niên bắt
nguồn từ chính vị thế đặc biệt của nhóm xã hội - dân cư thanh niên. Như đã chỉ ra ở
trên, nhóm này có đặc điểm là trẻ và năng động, nơi hệ giá trị chưa định hình và
đang kiểm nghiệm và thử nghiệm những gì họ nhận được từ thế hệ đi trước, tiếp
thu được từ thế giới bên ngòai, cọ sát lẫn nhau để sáng tạo ra hệ giá trị mới, mô
thức ứng xử mới, với những lựa chọn sống luôn luôn mới. Tất cả những quá trình
và hiện tượng này cũng xuất hiện ở các nhóm xã hội - dân cư khác, kể cả nhóm
người già, nhưng không tiêu biểu như ở thanh niên. Đặc điểm này khiến cho những
nhà nghiên cứu, đặc biệt là những người theo lý thuyết “tiểu văn hóa”, ngộ nhận,
cho rằng văn hóa thanh niên là một lọai hình khu biệt, thậm chí tương phản đối với
nền văn hóa chủ đạo của quốc gia - dân tộc. Một vấn đề có tính quy luật là: bất cứ
nền văn hóa nào cũng luôn luôn biến đổi cùng với thời gian, bởi văn hóa vừa là sản
phẩm, lại vừa là nền tảng và phương tiện cho họat động sáng tạo không ngừng của
nhân lọai. Trong quá trình biến đổi đó, những hệ giá trị văn hóa luôn luôn được
kiểm nghiệm và thử thách. Trong khi một số giá trị và hệ giá trị này được duy trì,
hòan thiện thì những giá trị khác, hệ giá trị khác có thể bị xói mòn, thậm chí biến
mất hoàn toàn. Sự thay đổi hệ giá trị văn hóa vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả
của sự biến đổi của ứng xử văn hóa. Tuy nhiên, sự biến đổi đó không ngang bằng
nhất lọat về cường độ và không diễn ra dưới những hình thức giống nhau trong các

nhóm xã hội - dân cư. Riêng ở thanh niên thì quá trình này bộc lộ ra rõ nét hơn,
nhất là tại các xã hội chuyển đổi như xã hội Việt Nam hiện nay.
Bởi vậy nên mật độ của những thử nghiệm, kiểm nghiệm, phủ nhận và tiếp
thu các giá trị văn hóa thông qua sự thay đổi đa dạng của ứng xử văn hóa tỏ ra dày
đặc và sôi nổi, gay gắt hơn ở thanh niên. Văn hóa thanh niên chính là cầu nối giao
lưu, là bộ phận tiên phong của nền văn hóa dân tộc trong quá trình “tự làm mới bản
66


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
thân” của nền văn hóa đó. Qua đó, có thể thấy trong nghiên cứu về văn hóa thanh
niên, vừa phải đặt nó trong mối liên hệ hữu cơ với nền văn hoá dân tộc, vừa phải
đặc biệt chú trọng đến việc khám phá những cái riêng, cái đặc thù của văn hóa
thanh niên. 8 Về lối sống thanh niên Do có những quan niệm và cách tiếp cận khác
nhau trong nghiên cứu về thanh niên và văn hóa thanh niên nên cách tiếp cận, nhận
diện và phân tích về lối sống thanh niên cũng rất khác nhau. Trước hết là cách định
nghĩa và tiếp cận trong nghiên cứu về lối sống nói chung. Ở đây cũng có nhiều
cuộc tranh luận sôi nổi với nhiều kiến giải và đề xuất khác nhau. Trên cơ sở tiếp thu
có phê phán quan điểm của những người đi trước, trong một nghiên cứu gần đây tôi
đã đề xuất một định nghĩa mới về lối sống như sau: “Lối sống của con người là cỏc
chiều cạnh chủ quan của văn hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa
thông qua họat động sống của con người. Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động
sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc toàn
thể nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một khỏang thời gian
tương đối ổn định, đặt trong mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện
hữu và trong các mối liên hệ lịch sử của chúng”.
Điểm cốt lõi trong cách tiếp cận của tôi ở đây là việc chỉ ra cái ranh giới
mong manh, tương đối giữa lối sống và văn hóa. Theo tôi, lối sống chỉ là những
chiều cạnh chủ quan (subjective dimensions) của văn hóa được bộc lộ ra trong quá

trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người.
Như vậy, lối sống chỉ là những giá trị văn hóa, những mô hình và phương thức ứng
xử được đa số cá thể của một cộng đồng người xác định nào đó chấp nhận (cái
được lựa chọn) và hiện thực hóa trong hoạt động sống hằng ngày của họ. Trong số
đó có cả những giá trị, những truyền thống và những cách ứng xử được trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhưng cũng bao gồm cả những giá trị ngoại sinh,
những cách ứng xử và những biểu tượng… ngoại nhập.
Vận dụng cách tiếp cận trên khi nghiên cứu về lối sống và các xu hướng biến
đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và toàn cầu hóa với tốc độ ngày càng gia tăng hiện nay, một mặt cần chú ý đến tác
động và ảnh hưởng của những giá trị văn hóa, chế định và phương thức ứng xử
truyền thống đối với các nhóm thanh niên hiện nay. Mặt khác, cần phải đặc biệt chú
trọng việc khảo sát và phân tích ảnh hưởng của các giá trị và các phương thức ứng
xử văn hóa từ bên ngoài đối với các nhóm thanh niên Việt Nam. Đồng thời cần phải
đặt tất cả những sự khảo sát và phân tích đó trong mối liên hệ ba chiều: chiều dọc:
nhằm khám phá tác động của những yếu tố đó và sự hiện thực hóa các tác động đó
trong từng “tiểu nhóm” của thanh niên Việt Nam được phân chia theo độ tuổi; chiều
phẳng ngang: nhằm tiếp cận và khám phá tác động của các yếu tố văn hóa truyền
thống - nội sinh và các yếu tố hiện đại - ngoại nhập đối với mỗi tiểu nhóm thanh
niên chia theo địa bàn cư trú, nghề nghiệp, sắc tộc hay tôn giáo; và chiều sâu: nhằm
khám phá mối liên hệ giữa những biến đổi của hệ giá trị văn hóa với những biến
đổi “bề mặt” của lối ứng. Phạm Hồng Tung, Nghiên cứu về lối sống: một số vấn đề
67


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
về khái niệm và cách tiếp cận ứng xử, lối phục trang, ngôn ngữ, lối lao động… của
thanh niên. Trên cơ sở của cả ba cách tiếp cận đó sẽ cho phép nhận diện và đánh giá
xu hướng và mức độ biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh đẩy

nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
2. Văn hóa nông thôn Việt Nam
2.1. Văn hóa nông thôn theo huyết thống: Gia đình và gia tộc
Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành đơn
vị cơ sở là GIA ĐÌNH và đơn vị cấu thành là GIA TỘC. Đối với người Việt Nam,
gia tộc trớ thành một cộng đồng gắn bó có vai trò quan trọng thậm chí còn hơn cả
gia đình: họ rất coi trọng các khái niệm liên quan đến gia tộc như trưởng họ, tộc
trưởng, nhà thờ họ, từ đường, gia phả, ruộng kị, giỗ họ, giỗ tổ, mừng thọ… Không
phải ngẫu nhiên mà trong tiếng Việt, khái niệm truyền thống của Việt Nam là “làng
nườc”, còn “nhà nước” chỉ là sự sao phỏng khái niệm"quốc gia" của Trung Hoa.
Việt Nam, làng và gia tộc (họ) nhiều khi đồng nhất với nhau. Dấu vết hiện
tượng "làng là nơi ở của một họ" còn lưu lại trong hàng loạt tên làng: Đặng Xá (nơi
ở của họ Đặng), Ngô Xá, Đỗ Xá, Trần Xá, Nguyễn Xá, Châu Xá, Lê Xác... Trong
làng, người Việt cho đến giờ vẫn thích sống theo lối đại gia đình: các cụ già rất lấy
làm hãnh diện nếu họ đứng đầu một gia đình quần tụ được 3, 4 thế hệ (tam đại đồng
đường, tứ đại đồng đường). Ở nhiều dân tộc ít người phổ biến tình trạng các thế hệ
của một đại gia đình, một gia tộc ở tập trung dưới một mái nhà dài - loại nhà này có
thể dài tới trên 30 mét, với số lượng thậm chí tới hơn trăm người.
Sức mạnh gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người
trong họ có trách nhiệm cưu mang nhau về mặt vật chất: Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ
bú dì; hỗ trợ nhau về trí tuệ, tinh thần: Nó lú nhưng chú nó khôn; và dìu dắt nhau,
làm chỗ dựa cho nhau về chính trị: Một người làm quan, cả họ được nhờ.
Quan hệ huyết thống là quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian. Nó là cơ sở
của tính tôn ti. Người Việt có hệ thống tôn ti trực tiếp rất chi li, phân biệt rạch ròi
tới 9 thế hệ (gọi là cửu tộc):
Kỵ

Cụ

Ông


Cha

Tôi

Con

Cháu

Chắt

Chút

Hệ thống của tộc này thuộc loại rất ít gặp trên thế giới, bởi lẽ trong tiếng Việt,
tất cả các thế hệ đều thể hiện bằng những từ đơn tiết, điều đó cho thấy sự phân biệt
này có nguồn gốc rất lâu đời. Trong khi đó, ở các ngôn ngữ phương Tây chỉ phân
biệt 1 thế hệ phía trên và 1 -2 thế hệ phía dưới; các thế hệ xa hơn được diễn giải
bằng từ ghép, so sánh tiếng Anh: father (cha) - grandfather (ông) great-grandfather (cụ) - forefather (cụ kị). Ngay cả tiếng Trung Hoa cũng vậy
Cao tằng Tẳng
tổ
tổ

Tổ
phụ

Phụ

Ngã

Tử


Tôn

Tằng
tôn

Cao tằng
tôn

Tôn ti gián tiếp (con chú con bác, anh em họ) cũng được quy định rất nghiêm
68


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
ngặt; các cụ thường dạy con cháu: Xanh đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà chú; Bé
bằng củ khoai, cứ vai mà gọi...
Tính tôn ti dẫn đến mặt trái là óc gia trưởng. Tổ chức nông thôn theo huyết
thống đi theo hướng ngày càng coi trọng vai trò của gia đình hạt nhân, nuôi dưỡng
tính tư hữu.
2.2. Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng
Những người sống gần nhau có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Sản
phẩm của lối liên kết này là khái niệm LÀNG, XÓM.
Việc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú chính là bước thứ hai trong lịch
sử phát triển của làng xã Việt Nam: Khi công xã thị tộc tan rã và chuyển thành công
xã nông thôn thì các thành viên của làng không chỉ gắn bó với nhau bằng các quan
hệ máu mủ mà còn gắn bó cả bằng những quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, những quan
hệ sản xuất này ở Việt Nam cũng khác hẳn phương Tây.
Ở phương Tây, các gia đình sống gần nhau cũng có quan hệ với nhau, nhưng
họ sống theo kiểu trang trại, quan hệ lỏng lẻo, phần nhiều mang tính chất xã giao. K.

Marx đã từng nhận xét một cách dí dỏm rằng nông thôn phương Tây là "cái bao tải
khoai tây" (mà trong đó mỗi gia đình là một củ khoai tây!). Ở Việt Nam thì khác:
Thứ nhất, để đối phó với môi trường tự nhiên, đáp ứng nhu cầu cần đông
người của nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ, người dân Việt Nam truyền thống
không chỉ cần đẻ nhiều mà còn làm đổi công cho nhau.
Thứ hai, để đối phó với môi trường xã hội (nạn trộm cướp...), cả làng phải
hợp sức mới có hiệu quả. Chính vì vậy mà người Việt Nam liên kết với nhau chặt
chẽ tới mức bán anh em xa, mua láng giềng gần. Nguyên tắc này bổ sung cho
nguyên tắc Một giọt máu đáo hơn ao nước lã: Người Việt Nam không thể thiếu
được anh em họ hàng, nhưng đồng thời cũng không thể thiếu được bà con hàng
xóm.
Cách tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú dựa trên quan hệ hàng ngang,
theo không gian. Nó là nguồn gốc của tính dân chủ, bởi lẽ muốn giúp đỡ nhau,
muốn có quan hệ lâu dài thì phải tôn trọng, bình đẳng với nhau. Đó là hình thức
dân chủ sơ khai, dân chủ làng mạc; trong lịch sử, nền dân chủ nông nghiệp này có
trước nền dân chủ tư sản của phương Tây. Tính dân chủ bình đẳng kéo theo mặt trái
là thói dựa dẫm, ỷ lại và thói đô kị, cào bằng.
2.3. Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường, Hội
Trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp; tuy nhiên nhiều
làng có những bộ phận cư dân sinh sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với
nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một nguyên tắc tổ chức thứ ba là tổ
chức theo nghề nghiệp, tạo thành đơn vị gọi là PHƯỜNG. Ở nông thôn có thể gặp
hàng loạt phường như phường gốm làm sành sứ, phường nề làm nghề xây cất,
phường chài làm nghề đánh cá, phường vải làm nghề dệt vải, rồi những phường
69


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
nón, phường giấy, phường mộc, phường thợ tiện, phường đúc đồng...

Bên cạnh phường để liên kết những người cùng nghề, ở nông thôn Việt Nam
và mở rộng ra là xã hội Việt Nam nói chung, còn có HỘI là tổ chức nhằm liên kết
những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp: Hội tư văn liên kết các quan văn
cùng làng, hội văn phả liên kết các nhà nho trong làng không ra làm quan, hội võ
phả liên kết những người theo nghề võ, hội bô lão liên kết các cụ ông, hội chư bà
liên kết các cụ bà đi chùa, rồi còn hội tổ tôm, hội chọi gà, hội cờ tướng, v.v. Phường
và hội rất gần nhau, nhưng phường thì mang tính chất chuyên môn sâu hơn và bao
giờ cũng giới hạn trong quy mô nhỏ.
Cũng giống như tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, tổ chức theo nghề
nghiệp và sở thích là sự liên kết theo chiều ngang, cho nên đặc trưng của phường
hội là tính dân chủ - những người cùng phường hội có trách nhiệm tương trợ giúp
đỡ lẫn nhau.
2.4. Tính cộng đồng
Tính cộng đồng và tính tự trị - hai đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam
Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên
tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại
với nhau, mỗi người đều hưởng tới những người khác - nó là đặc trưng dương tính,
hướng ngoại.
Sản phẩm của tính cộng đồng ấy là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng
nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều
đình phong kiến. Mỗi làng là một “VƯƠNG QUỐC” nhỏ khép kín với luật Pháp
riêng (mà các làng gọi là hương ước) và “tiểu triều đình” riêng (trong đó hội đồng
kì mục là cơ quan lập pháp, lí dịch là cơ quan hành pháp; nhiều làng tôn xưng bốn
cụ cao tuổi nhất làng là tứ trụ. Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống phép vua thua lệ
làng. Tình trạng này thể hiện quan hệ dân chủ đặc biệt giữa nhà nước phong kiến
với làng xã ở Việt Nam.
Ông Phạm Văn Đồng (1994) từng nhận định: "Trong lịch sử lâu đời của dân
tộc, làng … vừa có tính đẳng cấp phong kiến (như tôn ti - TNT), vừa có tính công
đồng (như dân chủ - TNT) rất đáng quý. Lúc bấy giờ câu nói “Phép vua thua lệ
làng” có cái đạo lí chân chính của nó thể hiện một dạng dân chủ mà phải biết nhìn

với con mắt lịch sử thì mới thấy hết ý nghĩa độc đáo".
Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến luôn tìm cách nắm chặt bộ máy
xã thôn nhưng luôn thất bại. Cố gắng lớn nhất là vào đời Trần Thái Tông
(1225-1258), nhà nước cử ra những “xã quan” đại diện cho quyền lợi của chính
quyền trung ương vế nắm cạnh bộ máy làng xã nhưng đến đời Trần Thuận Tôn
(1388-1397) thì phải bãi bỏ Đời Lê, cố gắng này lạt được lặp lai (Lê Thánh Tông
đổi “xã quan” thành “xã trường”), nhưng tử thế kỉ XV trở đi, triều đình lại phải lùi
bước xã trường trả về cho dân cử. Ý đồ này được lặp lại một lấn thứ ba dưới thời
Pháp thuộc: Năm 1904 ở Nam Kì và 1921 ở Bắc Kì, thực dân Pháp ban bố những
70


Trường Cao đẳng nghề Yên Bái
Giáo trình môn: Văn hóa cộng đồng
nghị định nhằm cải tổ lại bộ máy hành chính cấp xã (gọi là Chính sách Cải lương
hương chính). Nhưng, cũng như những lấn trước, cuộc cái tổ này cũng không tránh
khỏi thất bại, cho nên năm 1927 chính quyền thực dân phải ban bố một nghị định
có chiếu cố nhiều hơn đến cơ cấu cố truyền và năm 1941 thì vai trò của dân làng
trong việc tổ chức bộ máy hành chính địa phương lại được nới rộng hơn nữa. Năm
1905, sau 5 năm rưỡi giữ chức Toàn quyền Đông Dương, Paul Doumer trong cuốn
hồi kí của mình đã rút ra kết luận: “Theo tôi, duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường
cách tổ chức cũ kĩ mà chúng ta đã thấy, là một điều tốt. Theo cách tố chức này thì
mỗi làng xã sẽ là một nước cộng hòa nhỏ, đốc lập trong giới hạn những quyền lợi
địa phương. Đó là một tập thế được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật, và rất có
trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về cá nhân những thành viên của nó”.
Tính cộng đồng và tính tự trị chính là hai đặc trưng bao trùm nhất, quan
trọng nhất của làng xã; chúng tồn tại song song như hai mặt của một vấn đề.
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình – bến nước - cây đa.
Làng nào cũng có một CÁI ĐÌNH. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng
về mọi phương diện. Trước hết, nó là một trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi

công việc quan trọng, nơi hội họp, thu sưu thu thuế, nơi giam giữ và xử tội phạm
nhân... Thứ đến, đình là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các hội hè, ăn uống (do
vậy mà có từ đình đám), nơi hiểu diễn chèo tuồng. Đình còn là một trung tâm rề
mặt tôn giáo: Thế đất, hướng đình được xem là quyết định vận mệnh cả làng; đình
cũng là nơi thờ thần Thành Hoàng bảo trợ cho dân làng. Cuối cùng, đình là một
trung tâm về mặt tình cảm: Nói đến làng là nghĩ đến cái đình với tất cả những tình
cảm gắn bó thân thương nhất: “Qua đình ngả nón trông đình, đình bao nhiêu ngói
thương mình bấy nhiêu...”
Có người cho rằng đình có nguồn gốc Trung Hoa. Thực ra, nó chỉ là một tên
gọi mới, phổ biến trong người Việt miền xuôi để chỉ một khái niệm cũ, một kiến
trúc truyền thống rất lâu đời mà cho đến tận ngày nay vẫn còn tồn tại vời tên gọi
nhà rông. Nhà rông và đình chỉ là những tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm,
chúng có cùng chức năng và kiểu kiến trúc, là hậu thân của những ngôi nhà làng
thời Hùng Vương với sàn cao và mái cong hình thuyền mà ta vẫn thấy khắc trên
các trống đồng. Đình làng Đình Bảng (Bắc Nunh) làm vào thế kỉ XVIII vần theo lối
nhà sàn.
Do ảnh hưởng của trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi nghi
dần dần chỉ còn là chốn lui tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ quần tụ lại
nơi BẾN NƯỚC (ở những làng không có sông chảy qua thì có GIẾNG nước) - chỗ
hàng ngày chị em gặp nhau cùng rửa rau, vo gạo, giặt giũ, chuyện trò.
CÂY ĐA cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng
khói hương nghi ngút - đó là nơi hội tụ của thánh thần: thần cây da, ma cây gạo, cú
cáo cây đề; Sợ thần sợ cả lây da. Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ
chân gặp gỡ chỉ những người đi làm đồng, những khách qua đường... Nhờ khách
71


×