Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.89 KB, 146 trang )

MỞ ĐẦU

1.

Sự cần thiết của đề tài

Nguồn lực con người nói chung và nguồn nhân lực, xét trên
khía cạnh độ tuổi lao động là nguồn lực cơ bản của sự phát triển
kinh tế xã hội. Trên phạm vi rộng hơn thì “ Con người đứng ở trung
tâm của sự phát triển, là tác nhân và là mục đích của sự phát triển”
[48]. Nhận thức được vai trò của nguồn nhân lực, Đại hội Đảng VIII
đã khẳng định: “ Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, “ nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”.
Mỗi một giai đoạn lịch sử, một trình độ phát triển đòi hỏi một
nguồn nhân lực phù hợp. Trong xu thế kinh tế tri thức và toàn cầu
hoá, nguồn nhân lực có sức khoẻ, học vấn, trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao được coi là một điều kiện để tăng trưởng nhanh, rút ngắn
khoảng cách tụt hậu. Việt Nam hiện nay vẫn là một nước nông
nghiệp lạc hậu với nguồn nhân lực có qui mô lớn, cơ cấu trẻ nhưng
chưa thực sự là động lực để phát triển kinh tế. Do vậy việc nghiên
cứu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực sự là một đòi hỏi vừa
cấp bách, vừa cơ bản, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2.

Tình hình nghiên cứu

1



Cho đến nay cũng đã có nhiều nghiên cứu về con người,
nguồn lực con người như:“ Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” _ Phạm Minh Hạc ( chủ biên ), Nxb
CTQG, HN, 1996; “ Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực
trong điều kiện mới” _ Nguyễn Minh Đường ( chủ biên ); “Các giá
trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” của Phan Huy
Lê... Nói chung đây là những nghiên cứu xã hội học thuộc Chương
trình khoa học – công nghệ cấp Nhà nước KX-07: “ Con người Việt
Nam – mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” do
GS.VS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm với sự tham gia của gần 300
nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Ngoài ra còn
có những ấn phẩm đề cập đến kinh nghiệm về quản lý và phát triển
nguồn nhân lực của một số nước có ý nghĩa tham khảo đối với Việt
Nam như “ Phát triển nguồn nhân lực – kinh nghiệm thế giới và
thực tiễn nước ta”, Nxb CTQG, HN, 1996 của Trần Văn Tùng – Lê
ái Lâm; “ Chiến lược con người trong thần kỳ kinh tế Nhật Bản”,
Nxb CTQG, HN, 1996 của Lưu Ngọc Trịnh...Mặc dù vậy, như lời
mở đầu của nhiều cuốn sách, các nhà khoa học đều cho rằng đây là
vấn đề lớn, cần được nghiên cứu lâu dài trên nhiều phương diện
nhằm phát huy cao nhất vai trò của yếu tố con người trong sự phát
triển kinh tế xã hội.
3.

Mục đích nghiên cứu

2


Mục đích nghiên cứu là đề xuất giải pháp định hướng nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội trong
giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Để đạt mục đích trên, nhiệm vụ của
luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ nội dung chất lượng nguồn nhân lực, hệ
thống chỉ tiêu đánh giá và những yếu tố ảnh hưởng;
- Phân tích thực trạng thể lực, trí lực so với nhu cầu thực tế
hiện nay và nguyên nhân tác động đến thực trạng đó.
- Xây dựng các giải pháp định hướng
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay. Về mặt lý luận, chất lượng nguồn nhân lực là tổng hòa của
ba yếu tố: thể lực, trí lực và phẩm chất của người lao động. Tuy
nhiên để có thể nghiên cứu sâu, luận văn chỉ tập trung phân tích
thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng về mặt thể lực và trí
lực.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, đối chiếu và
so sánh, trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật. Luận văn
sử dụng số liệu của Tổng cục Thống kê, số liệu của các công trình,
dự án, bài viết trên các sách, báo, tạp chí.
6.

Dự kiến những đóng góp mới của luận văn


3


- Góp phần làm rõ khái niệm , vai trò và sự cần thiết phải
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế – xã hội .
- Phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.
- Góp phần làm rõ những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
chất lượng nguồn nhân lực và đề xuất giải pháp cơ bản có tính định
hướng nâng cao chất lượng về mặt thể lực, trí lực nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay.
7.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong
ba chương:
Chương 1: Nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
Chương 2: Thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực ở Việt
Nam.
Chương 3 : Quan điểm và một số giải pháp cơ bản để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời gian tới.

4


CHƯƠNG 1: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC


1.1. KHÁI NIỆM, CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ VÀ NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC.
1.1.1.Khái niệm nguồn nhân lực
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con
người của một quốc gia, vùng lãnh thổ có khả năng huy động, quản
lý để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Theo nghĩa
hẹp có thể lượng hóa được là một bộ phận của dân số bao gồm
những người trong độ tuổi qui định, có khả năng lao động, không kể
đến trạng thái có hay không làm việc.
Độ tuổi người lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể,
tâm sinh lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động.
Giới hạn độ tuổi lao động được qui định tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế – xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ. Tại Điều 6 và
Điều 145 của Bộ Luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam qui định độ tuổi lao động của nam từ 15 – 60 và nữ là 15
–55 tuổi.
Theo từng giác độ, nguồn nhân lực có thể phân thành các loại
sau:

5


- Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư bao gồm toàn bộ
những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng và nhu cầu
lao động không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc.
Bộ phận nguồn nhân lực này được gọi là nguồn lao động hay dân số
hoạt động. Như vậy có một số người được tính vào nguồn nhân lực
nhưng lại không phải là nguồn lao động. Đó là những người trong
độ tuổi lao động không có việc làm nhưng không có nhu cầu làm
việc.

- Nguồn nhân lực tham gia làm việc trong thị trường lao
động có giao kết hợp đồng lao động. Bộ phận này của nguồn lao
động được gọi là lực lượng lao động, hay còn gọi là dân số hoạt
động kinh tế.
- Nguồn nhân lực dự trữ bao gồm những người trong độ tuổi
lao động có nhu cầu nhưng chưa tham gia làm việc, không có giao
kết hợp đồng lao động. Đó là những người làm nội trợ, thất nghiệp...
Các cách định nghĩa trên khác nhau về việc xác định qui mô
nguồn nhân lực, nhưng đều có chung một ý nghĩa nói lên khả năng
lao động của xã hội. Theo khái niệm trên, số lượng nguồn nhân lực
được xác định dựa trên qui mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự
phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số. Riêng đối với
nguồn lao động thì số lượng còn phụ thuộc nhiều yếu tố có tính chất
xã hội khác như :

6


- Trình độ phát triển của giáo dục - đào tạo. Nếu các cá nhân
có nhiều điều kiện để học tập họ sẽ ở lại học tập lâu hơn và trì hoãn
thời gian tham gia vào thị trường lao động. Đây là sự đánh đổi giữa
số lượng và chất lượng của nguồn lao động.
- Mức sinh đẻ quyết định số người tham gia vào nguồn lao
động của phụ nữ. Khi mức sinh đẻ thấp thì tỷ lệ phụ nữ tham gia
vào nguồn lao động cao hơn.
- Trình độ xã hội hóa các hoạt động dịch vụ phục vụ đời sống
và sự phát triển kinh tế – xã hội. Dịch vụ nuôi dạy trẻ, nội trợ gia
đình được xã hội hóa cao và cơ hội việc làm dễ dàng hơn thì phụ nữ
sẽ tham gia vào thị trường lao động và làm các hoạt động xã hội
nhiều hơn.

- Mức và nguồn thu nhập. Khi có nguồn thu nhập khác bảo
đảm thỏa mãn mọi nhu cầu, các cá nhân này sẽ không có nhu cầu
làm việc và do đó không tham gia vào nguồn lao động.
- Di dân và nhập cư. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay,
sự di dân và nhập cư cũng là nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao
động. Tuy chiếm tỷ trọng không lớn nhưng đây là một nguồn lao
động đặc biệt trên thị trường, có ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế –
xã hội.
Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng số lượng
nguồn nhân lực cũng như nguồn lao động. Nhưng nhịp độ tăng dân
số chậm lại cũng không làm giảm ngay lập tức nhịp độ tăng nguồn

7


nhân lực. Quan điểm dân số tối ưu cho rằng: “ Một quốc gia muốn
nền kinh tế phát triển cân đối và tốc độ cao phải có qui mô, cơ cấu
dân số thích hợp, phân bố hợp lý giữa các vùng”. Điều đó có nghĩa
là:
- Số lượng dân phù hợp với điều kiện thiên nhiên và trình độ
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
- Đảm bảo một tỷ lệ cân đối giữa số người trong độ tuổi với
số người quá tuổi và chưa đến tuổi lao động. Theo các nhà dân số
học thế giới, một cơ cấu thích hợp đảm bảo cho dân số ổn định
tương ứng là 60-64%, 10-12% và 26-28%.
- Phân bố dân cư trên các vùng đảm bảo đủ nhân lực khai
thác tài nguyên và phát triển kinh tế – xã hội có hiệu quả. Có thể
điều tiết phân bố dân cư thông qua chính sách dân số và các chính
sách kinh tế – xã hội.
Trong điều kiện các nước chậm phát triển, nhìn chung số

lượng nguồn nhân lực lớn không phải là một động lực cho sự phát
triển vì rất hiếm những người lao động và quản lý lành nghề. Hơn
thế nữa, tốc độ tăng dân số cao trong các nền kinh tế chậm phát
triển thường làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn kinh tế xã hội sâu sắc,
đó là:
- Mâu thuẫn giữa tích lũy và tiêu dùng. Khái niệm tổng quát
nhất phản ánh mối quan hệ giữa dân số và kinh tế là “ đầu tư theo
dân số”: Phần thu nhập quốc dân cần thiết theo qui ước dùng đảm

8


bảo cho số người mới sinh ra có được mức sống trung bình của toàn
xã hội ở thời điểm tính toán và để tạo ra các điều kiện cho thế hệ trẻ
– những người bước vào tuổi lao động tham gia các hoạt động sản
xuất xã hội. Mức đầu tư theo dân số mới chỉ là lượng tối thiểu cần
thiết để duy trì các hoạt động của xã hội loài người trong một quốc
gia ở mức bình thường vì nó chưa bao gồm phần thu nhập quốc dân
dành để cải thiện đời sống và nâng cao trang bị cơ sở vật chất cho
toàn xã hội.
- Hạn chế khả năng nâng cao chất lượng dân số và nguồn
nhân lực phù hợp với yêu cầu tiến bộ kỹ thuật - công nghệ và nhu
cầu phát triển kinh tế – xã hội nhằm phát triển toàn diện con người.
Tỷ lệ sinh cao làm cho số trẻ em trong độ tuổi đến trường tăng
nhanh trong khi chi phí cho giáo dục đào tạo không tăng tương
xứng. Tính cơ động xã hội và lãnh thổ của dân số cũng thấp do trình
độ học vấn hạn chế, tập quán, lối sống lạc hậu...
- Vấn đề tạo việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp nhất
là cho thanh niên gặp nhiều khó khăn.
- Mạng lưới an sinh xã hội không đảm bảo. Những năm gần

đây, quốc tế đưa ra khái niệm lưới an sinh xã hội ( Social Safety Net
) là hệ thống chính sách liên quan đến bảo đảm xã hội cho mọi
người được hiểu rộng ra bao gồm cả chính sách việc làm và xóa đói
giảm nghèo. Xuất phát từ điều kiện đặc thù, ở Việt Nam các chính
sách an sinh xã hội bao gồm: việc làm, bảo hiểm xã hội, xóa đói

9


giảm nghèo, người có công, trợ giúp xã hội, phòng chống tệ nạn xã
hội. Với mức tăng dân số và nguồn nhân lực cao, ngân sách dành
cho các chính sách xã hội và tạo việc làm trong các nước đang phát
triển đã thấp về giá trị tuyệt đối lại càng trở nên thấp hơn không đáp
ứng được yêu cầu.
Nguồn nhân lực không chỉ được xem xét dưới góc độ số lượng
mà còn ở khía cạnh chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực là một
khái niệm tổng hợp, bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể
lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất. Nó thể hiện trạng thái nhất định
của nguồn nhân lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc
biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội.
Trong đó:
- Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật
chất, sự chăm sóc sức khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể.
Một cơ thể khỏe mạnh, thích nghi với môi trường sống thì năng
lượng do nó sinh ra sẽ đáp ứng yêu cầu của một hoạt động cụ thể
nào đó. Thể lực có ý nghĩa quan trọng quyết định năng lực hoạt
động của con người. Phải có thể lực con người mới có thể phát triển
trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.
- Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học, trình
độ kiến thức chuyên môn, kỹ năng kinh nghiệm làm việc và khả

năng tư duy xét đoán của mỗi con người. Trí lực thực tế là một hệ
thống thông tin đã được xử lý và lưu giữ lại trong bộ nhớ của mỗi cá

10


nhân con người, được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau. Nó được
hình thành và phát triển thông qua giáo dục đào tạo cũng như quá
trình lao động sản xuất.
- Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong
yếu tố xã hội của nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ những tình cảm,
tập quán phong cách, thói quen, quan niệm, truyền thống, các hình
thái tư tưởng, đạo đức và nghệ thuật..., gắn liền với truyền thống
văn hóa. Một nền văn hóa với bản sắc riêng luôn là sức mạnh nội tại
của một dân tộc. Kinh nghiệm thành công trong phát triển kinh tế
của Nhật Bản và các nước NICs châu Á là tiếp thu kỹ thuật phương
Tây trên cơ sở khai thác và phát huy giá trị tốt đẹp của nền văn hóa
dân tộc để đổi mới và phát triển.
Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, là tiền đề
phát triển của nhau. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải
nâng cao cả ba mặt: thể lực, trí lực và đạo đức, phẩm chất. Tuy
nhiên mỗi yếu tố trên lại liên quan đến một lĩnh vực rất rộng lớn.
Thể lực và tình trạng sức khỏe gắn với dinh dưỡng, y tế và chăm sóc
sức khỏe. Trí lực gắn với lĩnh vực giáo dục đào tạo, còn đạo đức
phẩm chất chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hóa dân tộc, nền
tảng văn hóa và thể chế chính trị... Do vậy, để đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực thường xem xét trên ba mặt: sức khỏe, trình độ văn
hóa và chuyên môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất của người lao
động.


11


1.1.2.Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Hiện nay Thế giới dùng chỉ tiêu HDI ( Human Development
Index) để đánh giá trình độ phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc
gia trên ba phương diện là mức độ phát triển kinh tế, giáo dục và y
tế. Các mặt này tương ứng được xác định bởi các chỉ tiêu:
- GDP thực bình quân đầu người hàng năm tính theo sức mua
ngang giá ( PPP );
- Kiến thức ( tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học của
các cấp giáo dục );
- Tuổi thọ bình quân.
Phương pháp tính chỉ tiêu HDI cụ thể như sau:
HDI = IA + IE + IW ( 0 < HDI < 1
3
Ai – Amin
Amax –

IA =

Amin
Trong đó:
IA là chỉ số tuổi thọ

12


Với Amax là tuổi thọ trung bình cao nhất Thế giói; Amin là
tuổi thọ trung bình thấp nhất Thế giới; Ai là tuổi thọ trung

bình của nước i.

IE =

2a1 + a2
3

IE là chỉ số kiến thức

Với a1 Tỷ lệ biết chữ của dân cư nước i – Tỷ lệ biết chữ thấp nhất
=

của TG
Tỷ lệ biết chữ cao nhất của TG – Tỷ lệ biết chữ thấp nhất
của TG

Với a2

Tỷ lệ huy động đi học của nước i – Tỷ lệ huy động đi học

=

thấp nhất TG
Tỷ lệ huy động đi học cao nhất TG- Tỷ lệ huy động đi học
thấp nhất TG

IW =

log(Wi) – log(Wmin)
log(Wmax) – log(Wmin)

IW là chỉ số thu nhập

13


Với Wmax là mức thu nhập theo đầu người cao nhất Thế giới,
Wmin là mức thu nhập theo đầu người thấp nhất Thế giới. Wi là
mức thu nhập theo đầu người của nước i.
Trong báo cáo phát triển con người (Hunman Development
Report) 2001 quy định các chỉ số thấp nhất và cao nhất Thế giới như
sau:
Tuổi thọ : 25 năm và 85 năm.
Tỷ lệ biết chữ của người lớn : 0% và 100%.
Tỷ lệ huy động đi học : 0% và 100%
GDP/ người thực (PPP$) : 100 và 40.000
Ví dụ: Với cách tính trên, theo Báo cáo về phát triển con
người năm 2001 chỉ số HDI của Việt Nam là 0,682 với các số liệu
tuổi thọ là 67,8 năm, tỷ lệ biết chữ của người lớn là 93,1 và nhập
học của các cấp giáo dục là 67%, GDP bình quân đầu người theo
PPP $ là 1860. [9, 171-302]
Ngoài chỉ số tổng hợp HDI, người ta còn dùng các hệ thống
chỉ tiêu dưới đây để đánh giá trực tiếp các khía cạnh khác nhau sức
khỏe, trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực
cũng như để thấy rõ nhân tố ảnh hưởng đến nó ở hiện tại và trong
tương lai.

14


Chỉ tiêu đánh giá sức khoẻ

Sức khỏe là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất
và tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, năng lực lao động
chân tay. Sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh,
khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hoạt động thực
tiễn. Hiến chương của Tổ chức y tế thế giới đã nêu: “ Sức khỏe là
một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tâm thần và xã hội,
chứ không chỉ là không có bệnh tật hay thương tật”. Sức khỏe vừa
là mục đích, đồng thời nó cũng là điều kiện của sự phát triển nên
yêu cầu bảo vệ và nâng cao sức khỏe con người là một đòi hỏi hết
sức chính đáng mà xã hội phải đảm bảo. Tình trạng sức khỏe được
phản ánh bằng một hệ thống chỉ tiêu sau:
Thứ nhất, các chỉ tiêu tổng hợp:
- Tuổi thọ bình quân ( tuổi ).
- Chiều cao trung bình của thanh niên ( m )
- Cân nặng ( kg )
Các chỉ tiêu này đo lường thể lực chung và được xem như là
một chỉ số của tình trạng kinh tế xã hội, vệ sinh xã hội và tình trạng
sức khỏe của nhân dân.
Thứ hai, các chỉ tiêu y tế cơ bản
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi

15


- Tỷ lệ trẻ em đẻ dưới 2500g
- Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
- Tỷ suất chết mẹ
Thứ ba, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật
- Tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm

- Tỷ lệ mắc các bệnh có tiêm chủng,
- Tỷ lệ chết so với người mắc các bệnh.
Chỉ tiêu đánh giá trình độ văn hoá
Trình độ văn hoá là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể
tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để
duy trì cuộc sống. Trình độ văn hoá được cung cấp qua hệ thống
giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tậo suốt đời
của mỗi cá nhân và được đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu:
Thứ nhất, tỷ lệ dân số biết chữ là số % những người 10 tuổi
trở lên có thể dọc viết và hiểu được những câu đơn giản của tiếng
Việt, tiếng dân tộc hoặc tiếng nước ngoài so với tổng dân số 10
tuổi trở lên. Phương pháp tính:
Tỷ lệ biết chữ của
dân số từ 10 tuổi
trở lên

=

Số người 10 tuổi trở lên biết chữ trong

x

năm xác định
100
Tổng dân số 10 tuổi trở lên trong cùng
năm

16



Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hoá ở mức
tối thiểu của một quốc gia. Các thống kê giáo dục trong nước và
Thế giới hiện nay đều sử dụng chỉ tiêu này.
Thứ hai, số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên
đo lường số năm trung bình một người dành cho học tập. Đây là
một trong những chỉ tiêu được Liên hợp quốc sử dụng để đánh giá
chất lượng nguồn nhân lực của các quốc gia:
Phương pháp tính:
A=

∑a x

i i

i

Trong đó: A số năm đi học trung bình
ai các hệ số được chọn theo hệ thống giáo dục của mỗi vùng
hoặc mỗi nước.
xi % trình độ văn hoá theo hệ thống giáo dục tương đương.
Thứ ba, tỷ lệ đi học chung các cấp tiểu học, trung học cơ sở
(THCS), trung học phổ thông (THPT) được dùng để đánh giá trình
độ phát triển giáo dục của các quốc gia.
Tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em học cấp
tiểu học (cấp I), dù tuổi của em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học
hay không, trong tổng số dân số ở độ tuổi học tiểu học (6-10 tuổi).
Tương tự như vậy đối với tỷ lệ đi học chung cấp THCS (cấp II),
trong đó độ tuổi học sinh đi học cấp này là 11 -14 tuổi và cấp THPT
(cấp III), độ tuổi học sinh đi học cấp học này là 15-17 tuổi.


17


Phương pháp tính:

Tỷ lệ đi học
chung cấp tiểu

=

học (cấp I)

Số học sinh cấp tiểu học trong năm xác

x

100
định
Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10

tuổi) trong cùng năm
Các cấp THCS và THPT tính tương tự.
Những chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo
dục của các quốc gia. Các chỉ tiêu này cũng dùng để xây dựng mục
tiêu phát triển giáo dục trong công tác kế hoạch. Ví dụ, định hướng
phát triển giáo dục đến năm 2010 của Việt Nam, mục tiêu là tỷ lệ đi
học chung cấp tiểu học là 100%, cấp THCS là 80%, cấp THPT là
45%.
Thứ tư, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học và trung học.
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học biểu thị số % trẻ em

trong độ tuổi cấp tiểu học, tức là những em từ 6 - 10 tuổi học cấp
tiểu học trong tổng số trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học của dân số.
Tương tự như vậy đối với các nhóm tuổi THCS và THPT .
Phương pháp tính:
Tỷ lệ đi học đúng
tuổi cấp tiểu học

=

x
Số học sinh cấp tiểu học từ 6-10 tuổi
100
Dân số trong độ tuổi cấp tiểu học (6-10
tuổi) trong cùng năm

18


Các tỷ lệ cấp THCS và THPT tính tương tự.
Các chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo
dục. Hệ thống giáo dục hiệu quả cao có tỷ lệ đi học đúng độ tuổi
cao vì tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học thấp, và ngược lại. Ví dụ, ở
nước ta, trong khi tỷ lệ đi học chung ở bậc tiểu học năm 1996 là
114%, nhưng tỷ lệ đi học đúng độ tuổi (6-10 tuổi) chỉ có 89%. Vì
trong số học sinh tiểu học còn có (114% - 89% = 25%) học sinh
không đúng tuổi; đó là những học sinh dưới tuổi do đi học sớm, quá
tuổi do đi học muộn, do bị lưu ban, do bỏ học. Tỷ lệ này càng cao
thì hiệu quả trong giáo dục càng lớn, chi phí cho một học sinh hoàn
thành cấp học thấp.
Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật ( CMKT )

Trình độ CMKT là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm
đương chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề
nghiệp. Lao động CMKT bao gồm những công nhân kỹ thuật
(CNKT) từ bậc 3 trở lên (có hoặc không có bằng) cho tới những
người có trình độ trên đại hoc. Họ được đào tạo trong các trường,
lớp dưới các hình thức khác nhau và có bằng hoặc không có bằng
(đối với CNKT không bằng) song nhờ kinh nghiệm thực tế trong
sản xuất mà có trình độ tương đương từ bậc 3 trở lên. Các tiêu chí
đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Thứ nhất, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao
động đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về

19


trình độ CMKT của Quốc gia, của các vùng lãnh thổ. Ví dụ, năm
1999, tỷ lệ lao động có CMKT của Việt Nam là 13,87%.
Là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động đang
làm việc.
TLVĐT
=

∑LLVĐT
∑LLV

x 100

TLVĐT: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang
làm việc.
LLVĐT: Số lao động đang làm việc đã qua đào tạo.

LLV: Số lao động đang làm việc.
Thứ hai, tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo được tính toán
cho Quốc gia, vùng, ngành kinh tế dùng để xem cơ cấu này có cân
đối với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế ở từng giai đoạn phát triển.
Là % số lao động có trình độ CMKT theo bậc đào tạo so với
tổng số lao động đang làm việc:
TLVĐTij =

∑LLVĐTij
∑LLVj

x 100

TLVĐTij: Tỷ lệ LĐ đã qua đào tạo bậc i so với tổng LĐ đang
làm việc ở vùng j.
LLVĐT: Số lao động đang làm việc đã qua đào tạo.
LLV: Số lao động đang làm việc.
i : Chỉ số các cấp được đào tạo.

20


j: Chỉ số vùng.
LLVĐTij: Số lao động đang làm việc đã đào tạo bậc i ở vùng j.
Ví dụ: Năm 1999, tỷ lệ lao động có CMKT của Việt Nam là
13,9%, trong đó lao động trình độ sơ cấp là 1,5%; CN là 4,7%,
THCN 4,3%, Đh, CĐ 3,4%. Tỷ lệ các loại trình độ lao động đã qua
đào tạo thể hiện cơ cấu ĐHCĐ/THCN/DN của đội ngũ lao động, từ
đó thấy được cơ cấu này có cân đối với nhu cầu nhân lực của nền
kinh tế không, trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh nhu cầu đào tạo

tổng thể của cả nước, từng vùng lãnh thổ, ngành kinh tế.
Trong thực tế, không phải tất cả các chỉ tiêu này đều có đủ cơ
sở số liệu thống kê để tính toán. Có những chỉ tiêu chỉ qua tổng điều
tra mới có. Đây là một hạn chế của công tác thống kê nguồn nhân
lực. Để công tác thống kê, quản lý nguồn nhân lực có chất lượng
cần sớm ban hành chính thức hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực.

1.1.3.Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân
lực
Như đã chỉ ra ở trên, chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến
nhiều lĩnh vực , do đó nó chịu chi phối của rất nhiều yếu tố và dưới
đây là các nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng lớn nhất:

21


Biến đổi kinh tế – xã hội
Tăng trưởng là nhân tố kinh tế quan trọng tác động đến chất
lượng nguồn nhân lực trên nhiều phương diện. Tăng trưởng kinh tế
không chỉ trực tiếp góp phần cải thiện đời sống nhân dân mà còn
tăng tiết kiệm và đầu tư trong nước, tạo được nhiều việc làm mới
với mức thu nhập cao. Ngoài ra nhờ thành tựu tăng trưởng, thu ngân
sách tăng nên đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên cho các chương
trình mục tiêu quốc gia, chi cho phát triển giáo dục đào tạo, y tế,
văn hóa... tác động tích cực hơn đến chất lượng nguồn nhân lực.
Sự phát triển kinh tế với cơ cấu biến đổi theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm nông nghiệp dẫn đến sự phân
bổ lao động trong các lĩnh vực hoạt động đòi hỏi người lao động
phải được đào tạo, có khả năng tự học hỏi, thích ứng với nền sản

xuất mới.
Bên cạnh mặt tích cực quá trình tăng trưởng kinh tế cũng có
một số ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Tăng
trưởng kinh tế thường gắn liền với quá trình đô thị hóa, thay đổi
trong lối sống. Các nghiên cứu cho thấy quá trình đô thị hóa gắn
liền với mức độ ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ lệ tai nạn gia tăng
đáng kể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân.
Do thu nhập tăng lên và sự thay đổi trong lối sống nên ở các đô thị
tồn tại phổ biến đồng thời mô hình bệnh tật của nước nghèo và của
“mức sống cao”. Hiện tượng này được gọi bằng thuật ngữ “ gánh

22


nặng gấp đôi”, ám chỉ những khó khăn mà người dân và hệ thống y
tế xã hội ở các nước đang phát triển đang vấp phải.
Đối với các nước trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế như Việt
Nam thì tác động của những biến đổi kinh tế – xã hội đến chất
lượng nguồn nhân lực còn phức tạp hơn:
- Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cơ chế thị trường
thay cho quản lý tập trung đã làm cho nhiều ngành nghề, xí nghiệp
lạc hậu phải giảm qui mô và đóng cửa, thất nghiệp gia tăng làm ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động, gây nhiều hậu quả
xã hội nghiêm trọng.
- Gắn liền với sự phát triển của cơ chế thị trường là bất bình
đẳng về thu nhập trong các tầng lớp dân cư, giữa các ngành cũng
như vùng kinh tế. Điều này chi phối rất lớn đến khả năng tiếp cận
dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế. Những vùng kinh tế phát
triển, người dân có thu nhập cao có khả năng tiếp cận dễ dàng hơn
người có thu nhập thấp. Hơn thế nữa một số điều chỉnh chính sách

của Nhà nước trong thời kỳ này như xóa bỏ hoặc giảm bớt bao cấp
từ ngân sách trong nhiều lĩnh vực càng làm cho vấn đề trên thêm
đậm nét.
- Việc tổ chức lại nền kinh tế và cơ cấu xã hội đã góp phần
làm biến đổi theo chiều sâu môi trường kinh tế – xã hội. Các cá thể
và nhóm xã hội khác nhau phải chuyển biến để thích nghi với môi
trường thay đổi hàng ngày. Chẳng hạn trong vấn đề giáo dục, khi

23


Nhà nước không còn là người bao cấp hầu như toàn bộ kinh phí và
sắp xếp việc làm khi tốt nghiệp thì chiến lược giáo dục của các hộ
gia đình ngày càng hướng tới tương lai và đưa quan hệ chất lượng –
giá cả vào lựa chọn. Các hộ gia đình và cá nhân có thể từ không
quan tâm đến đặc biệt coi trọng đầu tư cho giáo dục. Chính điều này
ảnh hưởng rất lớn đến trình độ học vấn và sự chênh lệch giữa các
vùng kinh tế.
- Ngoài ra, những chính sách về quản lý xã hội, quản lý kinh
tế, chính sách phân phối đặc biệt là chính sách trả công lao động
cũng có ảnh hưởng rất lớn. Chúng có thể kìm hãm, triệt tiêu hoặc
nhân lên nhiều lần những yếu tố tốt của chất lượng nguồn nhân lực.
Nếu trả công đúng theo chất lượng và hiệu quả của lao động sẽ
khuyến khích học tập và rèn luyện để nâng cao kỹ năng, kiến thức.
Ngược lại, chế độ phân phối bình quân sẽ hạn chế tính năng động và
sáng tạo của người lao động.
Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe
Dinh dưỡng thấp và sức khỏe yếu không chỉ gây ra ốm yếu
thể trạng, khổ ải về tinh thần mà còn làm giảm năng suất lao động.
Một bà mẹ suy dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai, sự thiếu thốn

lương thực thực phẩm trong giai đoạn sơ sinh và vào lúc trẻ còn nhỏ
là đều có thể dẫn tới các bệnh tật cũng như sự khiếm khuyết trong
quá trình phát triển về thể trạng và thần kinh của trẻ. Do đó năng
suất lao động trong tương lai sẽ bị hạn chế. Hơn nữa sự suy dinh

24


dưỡng và bệnh tật ở người lớn làm suy giảm năng lượng, tính sáng
tạo, sáng kiến, khả năng học tập và làm việc của họ. Các nước đang
phát triển thường mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói, suy
dinh dưỡng và năng suất lao động thấp.
Tình trạng suy dinh dưỡng thường là vấn đề của người nghèo.
Nguyên nhân không chỉ do thu nhập thấp mà còn vì trình độ học
vấn thấp, không có khả năng tiếp cận và thu nhận thông tin cần thiết
để thực hiện dinh dưỡng hợp lý.
Ngoài vấn đề dinh dưỡng, sự phát triển của hệ thống y tế và
khả năng tiếp cận của người dân có ảnh hưởng quan trọng đến việc
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Do thành tựu tăng trưởng và phát
triển kinh tế, qui mô và năng lực của mạng lưới y tế tăng lên cùng
với tiến bộ khoa học công nghệ trong y học đã góp phần nâng cao
sức khỏe, thể hiện ở tuổi thọ bình quân ngày càng tăng cao. Tuy
nhiên như người ta thường nói hệ thống y tế là xã hội thu nhỏ, điều
đó có nghĩa là khả năng tiếp cận của người dân với dịch vụ y tế, đặc
biệt là dịch vụ y tế chất lượng cao là không đồng đều.
Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực
thì mức độ phát triển của giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng nhất
vì nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ văn hóa, chuyên
môn kỹ thuật và kỹ năng lao động thực hành của người lao động,

mà còn gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe và tuổi thọ của người dân:

25


×