Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Luận văn thạc sĩ báo chí học tính nhân văn trong các chương trình truyền hình nhân đạo của đài phát thanh và truyền hình vĩnh long hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.23 KB, 147 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THIỆN THƯ

TÍNH NHÂN VĂN TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH NHÂN ĐẠO CỦA ĐÀI PHÁT THANH
VÀ TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

CẦN THƠ - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC
GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THIỆN THƯ

TÍNH NHÂN VĂN TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH NHÂN ĐẠO CỦA ĐÀI PHÁT THANH
VÀ TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG HIỆN NAY


Ngành
Mã số

: Báo chí học
: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LƯƠNG KHẮC HIẾU


CẦN THƠ - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên
cứu thực sự của cá nhân, dưới sự hướng dẫn khoa học
của PGS.TS Lương Khắc Hiếu. Các số liệu, những kết
luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung
thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức
nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

Nguyễn Thiện Thư


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU


Chương 1: TÍNH NHÂN VĂN TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH NHÂN ĐẠO- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN

1.1. Truyền hình nhân đạo và tính nhân văn trong các chương trình
truyền hình nhân đạo
1.2. Xu hướng phát triển của các chương trình truyền hình nhân đạo
và sự cần thiết nâng cao tính nhân văn trong các chương trình
truyền hình nhân đạo

9
9

25

Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH NHÂN VĂN TRONG CÁC
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH NHÂN ĐẠO XÃ HỘI
CỦA ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG
TỪ NĂM 2009 ĐẾN NAY

2.1. Khái quát về Đài Phát thanh và Truyền hình Vĩnh Long và các
chương trình nhân đạo trên sóng Truyền hình Vĩnh Long
2.2. Phân tích về tính nhân văn qua các chương trình nhân đạo xã hội của
Đài Phát thanh và Truyền hình Vĩnh Long từ năm 2009 đến nay

39
39
42

Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO

TÍNH NHÂN VĂN CỦA CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN
HÌNH NHÂN ĐẠO CỦA ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN
HÌNH VĨNH LONG HIỆN NAY

3.1. Những vấn đề đặt ra của các chương trình truyền hình nhân đạo
của Đài Phát thanh-Truyền hình Vĩnh Long hiện nay
3.2. Giải pháp nâng cao tính nhân văn của các chương trình truyền
hình nhân đạo trên sóng Truyền hình Vĩnh Long hiện nay

81
91
105
106
110

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBT
ĐBSCL

81

:
:

Ban biên tập
Đồng bằng sông Cửu Long



HTV
MC
PT&TH
SXCT
THVL
UBND
VTV

:
:
:
:
:
:
:

Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
Người dẫn chương trình
Phát thanh & Truyền hình
Sản xuất chương trình
Đài Truyền hình Vĩnh Long
Ủy ban nhân dân
Đài Truyền hình Việt Nam


DANH MỤC CÁC ẢNH, BẢNG
Trang
71

71

Ảnh 2.1:
Ảnh 2.2:

Chắp Cánh Ước Mơ kỳ 18
Chắp Cánh Ước Mơ kỳ 213

Bảng 2.1:

Bảng thống kê tiền ủng hộ các chương trình truyền hình
43

Bảng 2.2:

nhân đạo của Đài PT&TH Vĩnh Long năm 2014
Liệt kê nguồn thực hiện các chương trình truyền hình
nhân đạo của Đài PT&TH Vĩnh Long

67


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa nhân văn từ bao đời nay luôn là một trong những giá trị đạo
đức tốt đẹp nhất mà con người hướng đến. Cho dù trong giai đoạn lịch sử nào,
cốt lõi chủ giá trị nhân văn luôn là tình yêu thương con người, đấu tranh với
mọi tác nhân xấu nhằm xây dựng một cuộc sống tốt đẹp về vật chất lẫn tinh
thần cho nhân dân để tiến đến một xã hội giàu mạnh và văn minh. Khát vọng

nhân đạo và nhân văn dường như chưa bao giờ ngừng chảy trong tim nhân
loại, là mục đích hướng đến của bao dân tộc, bao thế hệ vì một cuộc sống hòa
bình, hạnh phúc vững bền. Vì lẽ đó, việc giáo dục tính nhân văn, nhân đạo
cho con người luôn là nhiệm vụ quan trọng và thiêng liêng của xã hội. Trong
đó, báo chí- một phương tiện truyền thông giữ vai trò hết sức quan trọng trong
việc giáo dục, tuyên truyền những giá trị nhân văn tốt đẹp cho con người, cho
xã hội. Hơn thế nữa, với sự hỗ trợ đắc lực của khoa học công nghệ trong thời
đại ngày nay, sức mạnh của báo chí không chỉ biến tư tưởng thành hành động
để mọi người sống tốt hơn mà còn tạo nên những hiệu quả xã hội làm thay đổi
cuộc sống con người theo chiều hướng thiết thực hơn.
Thực hiện trách nhiệm xã hội của báo chí trong việc giáo dục tính nhân
văn, cùng với sự nở rộ của nhiều thể loại chương trình truyền hình phong phú
khác nhau thì chương trình truyền hình nhân đạo ra đời khoảng một thập niên
gần đây có một vị trí nhất định trong vườn hoa thể loại đa dạng của truyền
hình hiện đại. Không thể phủ nhận sự tác động ảnh hưởng mạnh mẽ của các
chương trình nhân đạo đối với đời sống xã hội hôm nay với tính nhân văn sâu
sắc như một nốt trầm sâu lắng giữa cuộc sống tất bật khiến người ta phải dừng
lại và suy ngẫm, kéo con người xích lại gần nhau, yêu thương nhau hơn.
Loạt chương trình nhân đạo xã hội của Đài Truyền hình Vĩnh Long
(THVL) trong suốt hơn 5 năm phát sóng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng
khán giả khắp mọi miền trên cả nước bởi tính nhân đạo thiết thực, kịp thời và


2
tính nhân văn thấm đẫm qua từng kỳ phát sóng. Tuy vậy, để giữ được ấn
tượng ấy mãi sống trong lòng công chúng đòi hỏi những người thực hiện
chương trình phải đầu tư nâng cao chất lượng chương trình từng ngày từng
giờ. Làm sao để có những bước cải tiến đặc sắc để thu hút được người xem,
nhưng vẫn giữ được ý nghĩa nội dung sâu sắc và ngày càng hướng con người
đến những giá trị tốt đẹp tỏa sáng cuộc đời, đó vừa là điều trăn trở vừa là

nhiệm vụ mà người làm báo phải hướng tới. Và đó còn là một đòi hỏi bức
thiết mà lãnh đạo Đài đặt ra cho bộ phận thực hiện chương trình, mà bản thân
người viết là một trong những thành viên tham gia sản xuất các chương trình
nhân đạo xã hội trên sóng THVL.
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ làm đòn
bẩy thúc đẩy sự vượt trội của truyền thông, nhu cầu thông tin của công
chúng được đáp ứng kịp thời qua nhiều loại hình truyền thông báo chí.
Song song đó là những diễn biến phức tạp của báo chí hiện đại mà đáng
báo động là tình trạng vi phạm đạo đức nghề báo với những bài báo cẩu
thả, không đảm bảo tính chân thật khách quan, nạn giật tít, giật gân câu
khách chạy theo xu hướng thương mại hóa… đã làm sản phẩm báo chí dần
xa rời những chức năng xã hội của nó. Do đó, việc nhận thức đúng về đạo
đức nghề báo, đảm bảo tính chân thật, tính chiến đấu và đặc biệt là nâng
cao tính nhân văn trong sản phẩm báo chí là điều vô cùng bức thiết mà
người làm báo hiện nay cần ý thức một cách sâu sắc. Đặc biệt với những
chương trình truyền hình được nhiều người quan tâm như chương trình
truyền hình nhân đạo, được phát sóng trên một kênh truyền hình có phạm
vi phủ sóng rộng khắp như Đài THVL thì càng phải được nhấn mạnh và
xây dựng rõ các giá trị đó để phát huy vai trò xã hội của một sản phẩm báo
chí thời đại ngày nay. Xác định tính nhân văn trong các chương trình
truyền hình nhân đạo để ngày càng nhân rộng, tỏa sáng những giá trị đẹp
của nó là vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của người làm báo đối với công chúng,


3
với xã hội, vừa thực hiện được tinh thần yêu nước và giữ được giá trị văn hóa
truyền thống ngàn đời của ông cha ta từ xưa đến nay.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn chủ đề “Tính nhân văn trong
các chương trình truyền hình nhân đạo của Đài Phát thanh và Truyền hình
Vĩnh Long hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay, tính nhân văn hay chủ nghĩa nhân văn luôn được chú
trọng phân tích, nghiên cứu trong các công trình về triết học, xã hội học, đạo
đức học, văn học và báo chí học. Vì vậy, đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu và các bài báo liên quan đến đề tài này.
Về các công trình nghiên cứu liên quan đến chủ nghĩa nhân văn và tính
nhân văn, có thể kể đến: Bài viết "Những vấn đề cơ bản và sự biểu hiện của
Chủ nghĩa nhân văn trong thời đại Phục Hưng ở Châu Âu (thế kỷ XIV- XVI)"
của tác giả Hồng Văn trên Tạp chí Nghiên cứu văn hóa số 5 của Trường Đại
học Văn hóa Hà Nội đi sâu vào khái niệm, lịch sử ra đời và biểu hiện của chủ
nghĩa nhân văn gắn liền với sự phát triển nền văn minh và con người trong
thời kỳ Phục Hưng.
Cuốn sách Chủ nghĩa duy vật nhân văn và định hướng nhân văn của sự
phát triển xã hội, TS. Hồ Bá Thâm, (năm 2005) nghiên cứu ở góc độ triết học
về sự phát triển của chủ nghĩa nhân văn riêng ở Việt Nam qua các giai đoạn
lịch sử, và đỉnh cao là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với giá trị cốt lõi hội
tụ những tinh hoa phát triển tốt đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước, là triết học
về nhân văn hiện đại và là nền tảng để xây dựng chủ nghĩa nhân văn xã hội
chủ nghĩa tiến bộ nhất thời đại ngày nay.
Luận văn Thạc sĩ khoa học triết học của học viên Giáp Thị Lanh, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư tưởng nhân
văn của Nguyễn Trãi tập trung nghiên cứu sâu về tư tưởng nhân văn của
Nguyễn Trãi đậm chất Nho giáo mà cốt lõi là đạo làm người với những ảnh
hưởng sâu sắc và ý nghĩa của nó với chủ nghĩa yêu nước và truyền thống dân


4
tộc Việt Nam. Cũng dưới góc nhìn triết học có Luận văn Thạc sĩ "Triết lý
nhân sinh trong tác phẩm "Đạo Đức Kinh của Lão Tử và ý nghĩa của nó đối
với xây dựng đạo đức người Việt Nam hiện nay" của học viên Vũ Quốc

Mạnh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (năm 2012) có đề cập đến một số
giá trị đạo đức trong triết lý nhân sinh của Lão Tử và mối liên hệ của nó với
những giá trị đạo đức của người Việt Nam như khiêm nhường, bao dung, yêu
thương con người, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh... là những biểu hiện
cốt lõi tương đồng với nội hàm của chủ nghĩa nhân văn.
Nghiên cứu về tính nhân văn trong văn học nghệ thuật có Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Ngữ văn "Tính nhân văn qua hình tượng người phụ
nữ trong tiểu thuyết tự Lực Văn Đoàn " của học viên Phạm Thanh Hùng,
Đại học KHXH&NV thành phố Hồ Chí Minh (năm 1999) với những phân
tích rất cụ thể những khía cạnh mang tính nhân văn về nội dung lẫn hình
thức khi nhìn thân phận người phụ nữ trong các tác phẩm văn học của Tự
lực văn đoàn.
Bài viết "Về tính nhân văn trong văn hóa Việt Nam" của Thạc sĩ
Nguyễn Ngọc Toàn, đăng trên Tạp chí Triết học số 6 (193) năm 2007 tập
trung đề cập đến hai đặc trưng cơ bản của tính nhân văn trong văn hóa Việt
Nam là sự khoan dung và tinh thần yêu nước biểu hiện qua quá trình lịch sử,
văn hóa, bản sắc dân tộc.
Tính nhân văn trong phê bình văn học hôm nay của tác giả Trần Đình
Sử, đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ An (tháng 7/2013) đúc rút những điều
còn thiếu nhân văn trong công tác lí luận và phê bình để từ đó đặt ra tiêu chí
cần thiết của tính nhân văn trong phê bình văn học chứ không đi vào nghiên
cứu tính nhân văn.
Về tính nhân văn trong báo chí chưa có công trình nghiên cứu chuyên
sâu mà chỉ có những bài viết, tham luận mang tính trao đổi, bàn bạc, phân tích
những khía cạnh được và chưa được, hay như thế nào là nhân văn trong thông
tin, báo chí như: Báo chí nhân văn của tác giả Thiện Văn đăng trên tạp chí


5
Quân đội Nhân dân (19/06/2011) ; Mấy suy nghĩ về tính nhân văn trong báo

chí ngày nay của tác giả Võ Hòa Nhân đăng trên Báo Bình Dương
(21/06/2012); Thông tin phải mang tính nhân văn của tác giả, đăng trên báo
An Ninh Thủ Đô (17/09/2011) ; Các yếu tố cần hội đủ để nâng cao giá trị
nhân văn, bài tham luận của nhà văn, dịch giả Ngọc Châu tại cuộc tọa đàm
"Báo chí và văn chương cùng hướng tới giá trị nhân văn" của Hội Nhà báo và
Hội Nhà văn thành phố Hải Phòng (19/5/2012)....
Riêng về tính nhân văn trong truyền hình thì nổi bật có Luận văn Thạc
sĩ Báo chí học đề tài :" Nâng cao hiệu quả các chương trình truyền hình nhân
đạo xã hội của Đài PT-TH Tiền Giang" của học viên Nguyễn Thị Khánh
Ngọc, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, chủ yếu đi sâu khai thác về hiệu
quả mà các chương trình nhân đạo của đài làm được hoặc chưa làm được về
mặt an sinh xã hội, về góp phần xóa đói giảm nghèo, về mặt nâng cao đời
sống của công chúng. Từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng
chương trình.
Tuy nhiên nghiên cứu riêng về tính nhân văn của các chương trình
truyền hình hiện nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu.
Tóm lại, tuy là một khach thể nghiên cứu không mới nhưng hiện nay
vẫn chưa có một đề tài nghiên cứu nào đề cập, phân tích tính nhân văn trong
một hay một thể loại tác phẩm báo chí cụ thể, đặc biệt là các chương trình
truyền hình nhân đạo đang được dư luận xã hội quan tâm.
Vì vậy, việc nghiên cứu về tính nhân văn trong các chương trình nhân
đạo của Đài THVL là một đòi hỏi cần thiết đối với người làm báo trong việc
nghiên cứu tác phẩm, hiệu quả tác động xã hội của nó cũng như tìm ra các
giải pháp để nâng cao chất lượng chương trình ngày một ý nghĩa và định
hướng nội dung đúng đắn hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm rõ các vấn đề lý luận và thực



6
tiễn về tính nhân văn trong các chương trình truyền hình nhân đạo của Đài
Phát thanh- Truyền hình Vĩnh Long. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao
tính nhân văn của các chương trình truyền hình nhân đạo trên sóng Truyền
hình Vĩnh Long hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau
đây:
- Khái quát, hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến tính nhân
vănvà nâng cao tính nhân văn trong các chương trình truyền hình nhân đạo ;
- Phân tích thực trạng tính nhân văn thể hiện qua tác phẩm và dư luận
xã hội về các chương trình truyền hình nhân đạo của Đài Phát thanh và Truyền
hình Vĩnh Long phát sóng, từ đó khái quát những vấn đề đặt ra về tính nhân văn
trong các chương trình truyền hình nhân đạo trên sóng THVL hiện nay;
- Đề xuất và luận giải các giải pháp nâng cao tính nhân văn trong các
chương trình truyền hình nhân đạo phát trên sóng THVLhiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tính nhân văn trong các chương trình truyền hình nhân đạo xã hội phát
trên sóng THVL.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn, tác giả sẽ khảo sát 8 chương trình truyền hình
nhân đạo xã hội được phát trên sóng THVL1, từ tháng 9/2009 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu là các quan điểm của chủ nghĩa MácLê nin, tư tưởng Hồ CHí Minh và của Đảng ta về chủ nghĩa nhân đạo, nhân
văn, về báo chí cách mạng và về tính nhân đạo, nhân văn trên báo chí.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sữ dụng, kế thừa quan điểm của
các nhà nghiên cứu báo chí về tính nhân văn, các thể loại truyền hình, các
chức năng báo chí và nguyên tắc đạo đức nghề báo… Từ đó, vận dụng vào



7
việc khảo sát, phân tích, đánh giá tính nhân văn và việc thực hiện các chức
năng báo chí, nguyên tắc đạo đức nghề báo qua các chương trình nhân đạo
của Đài THVL.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả phải thực hiện
những phương pháp nghiên cứu chính sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: giúp cho người nghiên cứu nắm
được phương pháp của các nghiên cứu đã thực hiện trước đây; có thêm kiến
thức sâu, rộng về lĩnh vực đang nghiên cứu và làm rõ hơn đề tài nghiên cứu
của mình;
- Phương pháp phân tích: giúp chẻ nhỏ từng vấn đề, từng khía cạnh của
các chương trình để tìm tòi, nghiên cứu, đánh giá, nhận định, từ đó rút ra
những luận điểm mới có cơ sở, có căn cứ xác đáng;
- Phương pháp so sánh: giúp cho người nghiên cứu thấy được những
điểm giống và khác nhau giữa vấn đề này với vấn đề kia, giữa chương trình
nhân đạo xã hội của Đài THVL với các chương trình nhân đạo xã hội của các
Đài khác để rút ra những điểm được và chưa được của vấn đề nghiên cứu;
- Phương pháp quan sát: giúp cho người nghiên cứu đánh giá được vấn
đề qua việc quan sát hình ảnh của chương trình truyền hình dạng thành phẩm;
- Phương pháp khảo sát: khảo sát dư luận xã hội và lượng khán giả quan
tâm yêu thích chương trình qua việc đo số liệu khảo sát lượng người xem;
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn các đồng nghiệp và những
đối tượng công chúng khác nhau đã từng xem các chương trình truyền hình
nhân đạo trên sóng THVL để có những ý kiến đánh giá chuyên môn về những
mặt được và chưa được trong việc thể hiện tính nhân văn;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn sẽ góp củng cố thêm hệ thống lý luận về chức năng xã hội
của báo chí và đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, đồng thời góp phần


8
vào việc đặt ra cơ sở lý luận về thể loại truyền hình nhân đạo với tiêu chí về
tín nhân văn của nó.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng các chương trình
truyền hình nhân đạo theo hướng vừa hấp dẫn, vừa đảm bảo ý nghĩa xã hội và
ý nghĩa nhân văn cao đẹp của nó.
Kết quả đạt được của luận văn sẽ giúp ích cho việc thực hiện kế hoạch
nâng cao chất lượng chương trình mang tính chiến lược lâu dài của Ban Biên
Tập các chương trình nhân đạo xã hội của Đài, đồng thời giữ vững lượng
người xem, giữ vững khung giờ vàng đã được xây dựng ổn định từ trước đến
nay, bên cạnh đó như củng cố thêm uy tín xã hội và vị trí vững chắc của loạt
chương trình này trong lòng công chúng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


9
Chương 1
TÍNH NHÂN VĂN TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
NHÂN ĐẠO - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Truyền hình nhân đạo và tính nhân văn trong các chương
trình truyền hình nhân đạo
1.1.1. Truyền hình và chương trình truyền hình nhân đạo
* Khái niệm:

Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng (Mass
Communication hay Mass Media) với các phương tiện thông tin khác nhau
như: sách, báo in, điện ảnh, quảng cáo, băng, đĩa, phát thanh, truyền hình,
Internet... có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội.
"Truyền hình là một loại hình phương tiện truyền thông đại chúng
chuyển tải thông tin bằng hình ảnh động và âm thanh" [35, tr.127]. Thuật ngữ
"truyền hình" (television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Theo
tiếng Hy Lạp, từ "tele" có nghĩa là "ở xa", còn "videre" là "thấy được", ghép
hai từ lại có nghĩa là "xem được ở xa". Còn tiếng Latinh có nghĩa là "xem
được từ xa".
Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ XX và phát triển với tốc độ vũ
bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông
tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay truyền hình trở thành công cụ
sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như các lĩnh vực kinh tế- xã hội,
an ninh, quốc phòng.
Ở thập kỷ 50 của thế kỷ XX, truyền hình chỉ được sử dụng như là một
phương tiện giải trí và thông tin. Dần dần, truyền hình đã trực tiếp tham gia
vào quá trình quản lý và giám sát xã hội, tạo lập và định hướng dư luận, giáo
dục và phổ biến kiến thức, phát triển văn hóa, quảng cáo và dịch vụ.
Sự ra đời của truyền hình với sự phát triển không chỉ về số lượng mà
còn cả chất lượng đã góp phần làm cho hệ thống truyền thông đại chúng có


10
sức ảnh hưởng xã hội to lớn. Công chúng của truyền hình trên thế giới vì thế
ngày càng đông đảo. Với những ưu thế về kỹ thuật và công nghệ, truyền hình
đã làm cho cuộc sống cô đọng hơn, nhiều ý nghĩa và sáng tỏ hơn về hình thức
và phong phú hơn về nội dung. Xét theo góc độ kỹ thuật truyền tải thì có
truyền hình sóng (wireless TV) và truyền hình cáp (CATV). Xét theo góc độ
thương mại có truyền hình công cộng (public TV) và truyền hình thương mại

(commercial TV). Xét theo mục đích nội dung, người ta chia truyền hình
thành truyền hình giáo dục, truyền hình giải trí... Xét theo góc độ kỹ thuật có
truyền hình tương tự (analog TV) và truyền hình số (ditigal TV).
* Đặc trưng của truyền hình:
Truyền hình mang những đặc điểm chung của một loại hình báo chí và
có những đặc điểm riêng đặc trưng của mình như sau:
- Tính thời sự: là đặc điểm chung của báo chí, nhưng với truyền hình
khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời hơn, sự kiện được phản ánh ngay lập
tức khi nó vừa mới diễn ra, thậm chí khi nó đang diễn ra. Truyền hình có khả
năng phát sóng liên tục trong ngày, luôn mang đến cho người xem những thông
tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật những tin tức mới nhất.
- Ngôn ngữ truyền hình: khác với các phương tiện truyền thông hiện đại
khác, truyền hình tái hiện "cuộc sống hiện thực trong trạng thái sống", ở "một
bộ phận nguyên dạng của những gì đang diễn ra ngoài đời" [355, tr.132], đó
chính là sự khác biệt về ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh. Nếu với báo in,
người đọc chỉ tiếp nhận bằng con đường thị giác, phát thanh là bằng thính
giác thì người xme truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác và thính giác
cùng một lúc.
- Tính phổ cập và quảng bá: do xu thế về hình ảnh và âm thanh, truyền
hình có khả năng thu hút hàng triệu người xem cùng một lúc. Cùng với sự
phát triển của khoa học và công nghệ, truyền hình ngày càng mở rộng phạm
vi phủ sóng phục vụ được nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu, vùng xa.


11
Tính quảng bá của truyền hình còn thể hiện ở chỗ một sự kiện xảy ra ở bất kỳ
nơi đâu nếu được đưa lên vệ tin sẽ được truyền đi khắp thế giới cho hàng tỷ
người biết đến.
- Khả năng thuyết phục công chúng: Truyền hình đem đến cho khán giả
cùng lúc hai tín hiệu cơ bản là hình ảnh và âm thanh với độ tin cậy cao, có

khả năng tác động mạnh mẽ đến nhận thức của con người và truyền tải một
cách chân thực hình ảnh của sự kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến
tận mắt của công chúng, thõa mãn nhu cầu nghe nhìn của người xem qua hình
ảnh và âm thanh chân thực sinh động. Và đó cũng chính là lợi thế của truyền
hình so với báo in và phát thanh.
- Khả năng tác động dự luận xã hội mạnh mẽ và trở thành diễn đàn
của nhân dân: không chỉ bằng những sự kiện mà bằng những thông điệp ý
nghĩa, thông tin trên truyền hình có một sức tác động mạnh mẽ vào nhận
thức con người, tạo nên dư luận xã hội to lớn, thông qua đó còn định hướng
dư luận về mặt tư tưởng, nhận thức về tình hình xã hội, đường lối chủ
trương của Đảng và Nhà Nước, hay mang đến cho người đem sự đồng cảm,
xây dựng lòng nhân ái, tạo nên hiệu ứng nhân đạo rộng lớn trong toàn dân.
Từ đó, truyền hình trở thành diễn đàn của nhân dân qua các chuyên mục,
talkshow, diễn đàn... tập hợp ý kiến của đại bộ phận công chúng phản ánh
nhiều khía cạnh đời sống và các vấn đề xã hội khác nhau, nhờ đó đã góp
phần không nhỏ trong việc thực hiện quyền dân chủ, quản lý xã hội của
nhân dân, việc giám sát và phản biện xã hội để góp phần kiện toàn bộ máy
Nhà nước, chống tiêu cực.
* Đặc điểm của báo chí truyền hình và sản phẩm của truyền hình:
Trong các loại hình truyền thông đại chúng, truyền hình tuy ra đời
muộn nhưng đó là sản phẩm của nền văn minh khoa học- công nghệ phát
triển. Truyền hình là loại hình truyền thông có các yếu tố kỹ thuật hiện đại, là
sự kết hợp giữa kỹ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật, kinh tế và báo chí.


12
Những yếu tố cơ bản của truyền hình:
- Lượng thông tin: do trực quan cảm giác truyền hình rất hạn chế lượng
thông tin lý luận và tư duy trừu tượng. Ký hiệu thông tin truyền hình thuộc ký
hiệu đồng nhất, thông tin trong truyền hình thường mang tính cụ thể, dễ hiểu

bằng hình ảnh, âm thanh tự nhiên, có tính thuyết phục cao.
- Hình ảnh trong truyền hình: vừa là phương tiện vừa là nội dung thể
hiện ý đồ tư tưởng của tác phẩm. Truyền hình đã kế thừa kinh nghiệm của
điện ảnh về cỡ cảnh, góc máy, động tác máy .v.v.., nhưng vẫn có đặc điểm
riêng là thông tin kịp thời và xác thực, tính thời sự và tính phổ biến không thể
thiếu được trong các tác phẩm báo chí. Hình ảnh là phương tiện để tác giả
biểu thị ý đồ, tư tưởng và nó nằm ở cảnh quay cho xem cái gì, góc quay và
động tác máy có ý nghĩa như thế nào, có ý đồ gì. Những hình ảnh có mối liên hệ
phối hợp hài hòa ăn khớp với nhau, tạo ra nội dung thông tin mới mang tính tổng
thể. Sự sắp xếp trong quá trình truyền đạt thông tin giúp con người cảm nhận
được tính đa chiều, lập thể trong mỗi sự kiện, vấn đề được phản ánh.
- Âm thanh: là những yếu tố tồn tại khách quan trong đời sống xã hội,
đóng vai trò quan trọng trong quá trình thông tin. Ba yếu tố của âm thanh (lời
bình, tiếng động, âm nhạc) được sử dụng trong truyền hình nhằm thông tin
phản ánh cuộc sống.
- Âm nhạc: có tác dụng làm tôn thêm hình ảnh và sự kiện, âm nhạc phải
được sử dụng được đúng lúc cần thiết, sử dụng sao cho phù hợp với kết cấu, ý
đồ cũng như chủ đề tư tưởng, làm hài hòa với nội dung và hình ảnh để gia
tăng cảm xúc cho người xem.
* Quy trình sáng tạo tác phẩm truyền hình:
Quy trình chung để sáng tạo một tác phẩm truyền hình thông thường sẽ
gồm các bước:
- Tiền kỳ:
+ Tìm hiểu và nghiên cứu thực tế


13
+ Chọn đề tài, chủ đề, tư tưởng cho tác phẩm
+ Xây dựng kịch bản phác thảo hoặc chi tiết
+ Liên hệ với những bộ phận liên quan để chuẩn bị khâu sản xuất,

tiến hành ghi hình tại thực đại, thu thập thông tin liên quan.
- Hậu kỳ:
+ Xem lại hình ảnh được ghi lại, lên danh sách cảnh đã quay
+ Xây dựng kịch bản dựng
+ Dựng phim
+ Viết lời bình, đọc lời bình, hoàn tất, ghép nhạc…
+ Duyệt và phát sóng
+ Lắng nghe thông tin phản hồi
Hiện nay quá trình sáng tạo tác phẩm báo chí truyền hình có thể do một
cá nhân, cũng có thể là sự kết hợp của một nhóm (ê-kip).
* Chương trình truyền hình:
Trong tiếng Anh chương trình là “progamme”, chương trình truyền
hình là “progamme television”. Có nhiều quan niêm về chương trình truyền
hình:
“Chương trình truyền hình là sự liên kết bố trí hợp lý các tin bài, bảng
tư liệu, hình ảnh, âm thanh trong một thời gian nhất định…, đáp ứng yêu cầu
tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình nhằm mang lại hiệu quả cao
nhất” [35, tr.113]
“Chương trình truyền hình là sản phẩm lao động của một tập thể các
nhà báo và cán bộ kỹ thuật dịch vụ… là quá trình giao tiếp truyền thông giữa
những người làm truyền hình với công chúng xã hội rộng rãi…” [32, tr.143]
Nhìn chung, có thể xem chương trình là hình thức thực tế hóa của
truyền hình trong đời sống xã hội để chuyển tải thông tin với công chúng.
Chương trình là hình thức thực tế hóa của truyền hình trong đời sống xã
hội để chuyển tải thông tin với công chúng. Chương trình truyền hình là kết


14
quả hoạt động, là sản phẩm tập thể. Đồng thời, cũng như các sản phẩm khác,
truyền hình có người sản xuất và người tiêu dùng. Người sản xuất tác động

đến người tiêu dùng và ngược lại, người tiêu dùng cũng tác động tới người
sản xuất thông qua quan hệ: nhà báo- tác phẩm- công chúng. Chương trình
truyền hình là sản phẩm truyền hình, là kết quả của hoạt động truyền hình,
trong đó có cả quá trình sáng tạo gồm nhiều công đoạn: tạo dựng kế hoạch,
hoạch định tác phẩm, hình thành chương trình.
Mối liên hệ giữa màn ảnh nhỏ và công chúng là cơ sở để xây dựng các
chương trình, ảnh hưởng không nhỏ đối với việc phân bố chương trình.
Phương pháp phân bố chương trình truyền hình xuất phát từ mục tiêu tác
động đến công chúng một cách mạnh mẽ và toàn diện, đồng thời nhằm vào
từng đối tượng khán giả. Mỗi chương trình truyền hình dù phục vụ cho đối
tượng chuyên biệt hay đông đảo công chúng đều dựa trên nguyên tắc đảm bảo
những nội dung sau:
- Nội dung: cái gì?
- Thể loại, hình thức thể hiện: như thế nào?
- Đối tượng công chúng: cho ai?
- Thời gian phát sóng: khi nào?
Trên thực tế không có sự thống nhất hoàn toàn giữa các chương trình
trong điều kiện nhiều kênh cùng phát sóng, cũng như trong sở thích của các
nhóm đối tượng khán giả của truyền hình. Do đó, người làm chương trình
truyền hình phải trù tính đến điều kiện, sở thích của từng nhóm khán giả để
thõa mãn nhu cầu của công chúng.
* Các thể loại chương trình truyền hình:
"Với tư cách là một hiện tượng và một nghề, báo chí được phân ra
thành báo chí thông tin, báo chí phân tích và báo chí tài liệu- nghệ thuật. Đó
là ba phương thức khai thác tư liệu cuộc sống, được thể hiện qua ba nhóm
thể loại..." [4, tr.7-tr.8]. Dựa trên nguyên tắc tiếp cận việc phản ánh hiện


15
thực đượcthể hiện tương ứng trong bố cục chương trình truyền hình, nhóm tác

giả cuốn Báo chí truyền hình G.V. Cudơnhetxốp, X.L. X vích, A.la.Iu rốpxki
(dịch giả Đào Tấn Anh) đã chia ra các nhóm thể loại như sau:
- Nhóm ghi nhận hiện thực đơn giản là các thể loại thông tin truyền
hình, gồm: bản tin (tin ngắn), tường thuật, phát biểu, phỏng vấn, phóng sự...
- Nhóm phân tích thông tin, sự kiện gọi là thể loại chính luận phân tích,
gồm: bình luận, tọa đàm, tranh luận, gặp gỡ đối thoại, bản tin (chương trình
thời sự)...
- Nhóm thông tin thể hiện theo bố cục hình ảnh mà tác giả đề xuất gọi
là nhóm chính luận nghệ thuật, gồm: bút ký, phác họa, tiểu luận..
Ngoài ra còn có thể loại khác như:
- Thể loại biếm họa, trào phúng như: tiểu phẩm trào phúng, thể loại đả
kịch (mang tính chính luận cao hơn tiểu phẩm)...
- Buổi phát hình, chương trình truyền hình, kênh truyền hình: như tạp
chí, giao lưu, truyền hình trực tiếp...
- Phim tài liệu truyền hình: bao gồm cả phim truyền hình và phim chân
dung.
* Kỹ năng sản xuất chương trình:
Kế hoạch của đài truyền hình là tạo lập kế hoạch chuyển tác phẩm báo
chí dưới dạng thể loại đến với công chúng. Nó phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Khả năng xây dựng kế hoạch từ việc tổng hợp tình hình.
- Khả năng của lực lượng trong sáng tạo và sản xuất.
Như vậy để sản xuất chương trình truyền hình cần kết hợp hàng loạt
các yếu tố, mà trên thực tế có thể nhìn nhận là không cần thiết: vấn đề thể
loại, vấn đề kinh tế và đặc biệt là vấn đề tổ chức sản xuất. Để có được một tác
phẩm độc lập phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất. Dựa theo tiêu chí kỹ
thuật có thể phân chia thành một số loại chương trình truyền hình:
- Chương trình sản xuất bằng băng từ
- Chương trình sản xuất bằng phim nhựa



16
- Chương trình phát trực tiếp
* Chương trình truyền hình nhân đạo:
Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo, bản thân nhận thấy chưa có tài
liệu khoa học nào đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là chương trình truyền hình
nhân đạo. Tuy nhiên xét ở góc độ thực tế, chương trình truyền hình nhân đạo
trước hết là một chương trình truyền hình được sản xuất, xây dựng theo một
quy trình chặt chẽ từ kịch bản, kỹ thuật, phỏng vấn, biên tập... Đó là sản phẩm
của một tập thể, của một cơ quan báo chí mà cụ thể là của Đài truyền hình.
Chưa có tài liệu nào xác định chương trình truyền hình nhân đạo thuộc
thể loại nào của truyền hình. Tuy nhiên, có thể thấy đặc điểm nổi bật của
chương trình truyền hình nhân đạo là: có nội dung xuất phát từ ý nghĩa nhân
văn sâu sắc nên đem đến sự rung động, cộng hưởng, sẻ chia của cộng đồng xã
hội. Về hình thức nó bao gồm nhiều dạng (phóng sự, talkshow, gameshow...)
tổng hợp với nhau thành một chương trình truyền hình. Bên cạnh đó, chương
trình còn kết hợp với các yếu tố truyền hình thực tế, tương tác, giải trí... để thể
hiện nội dung một cách hiệu quả và sinh động. Từ đó tác động đến đời sống
vật chất và tinh thần của đại bộ phận người dân, mang đến những ý nghĩa xã
hội và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Có thể thấy qua một số chương trình truyền
hình nhân đạo như "Trái Tim Cho Em" của VTV3 giúp đỡ những trẻ em
nghèo bị bệnh tim bẩm sinh trở về sự sống, "Ngôi Nhà Mơ Ước" của HTV
xây nhà cho những gia đình khó khăn, "Thần Tài Gõ Cửa" của THVL hỗ trợ
vốn cho những người khuyết tật có tay nghề, "Mái Ấm Nghĩa Tình" của Đài
Phát thanh và Truyền hình Tiền Giang hỗ trợ mái nhà cho những hộ nghèo.
Như vậy, chương trình truyền hình nhân đạo là một sản phẩm báo chí,
một chương trình truyền hình có nội dung đi sâu, quan tâm đặc biệt đến
cộng đồng, hướng đến xã hội, tập trung vào việc giáo dục, truyền thông
về chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn, đồng thời giúp đỡ những mảnh đời khó
khăn, giúp đỡ và cỗ vũ con người vươn lên trong cuộc sống.



17
Chương trình nhân đạo xã hội tuy không phải là một thể loại được
khẳng định trong lý thuyết về chương trình truyền hình nhưng bản thân nó với
những giá trị về nội dung và ý nghĩa xã hội đã tạo nên hiệu quả sâu rộng về
công tác tuyên truyền, về mặt ý nghĩa xã hội, vừa mang đến giá trị tinh thần
văn hóa- giải trí cho công chúng, vừa đem đến lợi ích cho cơ quan báo chí.
1.1.2. Tính nhân văn trong các chương trình truyền hình nhân đạo
1.1.2.1. Khái niệm nhân văn và chủ nghĩa nhân văn
- Nhân văn:
Có nhiều tác giả, tài liệu định nghĩa về khái niệm nhân văn, tuy nhiên
chưa có một khái niệm nào hoàn chỉnh làm nền tảng.
Theo Từ điển tiếng Việt, trang 1441 của Ban biên soạn từ điển New Era
của Nxb Văn hoá Thông tin năm 2005 thì “ Nhân văn: văn hoá loài người”.
Tác giả Lưu Văn Hi trong Từ điển tiếng Việt, trang 761 của Nhà xuất
bản Thanh Niên năm 2008 cũng cho rằng: “Nhân văn: Thuộc về văn hoá loài
người”.
Theo Từ điển Hán- Nôm (Hanosoft Dictionary): Nhân 人 là con
người; Văn: 文 là văn vẻ; văn từ; cái dấu vết do đạo đức lễ nhạc giáo hóa
mà có vẻ đẹp đẽ rõ rệt gọi là "văn", như văn minh, văn hóa . . .
Thuật ngữ “nhân văn” còn được hiểu theo nghĩa chiết tự của nó là:
Nhân = người. Ý nói mang các đặc trưng con người, bản chất con người.
Văn = văn hóa, văn minh. Theo đó "nhân văn": là mang những nét đặc
trưng thuộc bản chất của con người, là có tri thức văn hóa, văn minh.
Theo tác giả Vũ Hữu Hòa, Khoa Khoa học xã hội và nhân văn- Đại học
Duy Tân thì "nhân văn" là mang những nét đặc trưng thuộc bản chất của con
người kết hợp với nó là có tri thức văn hóa, văn minh.
Theo nhà văn- dịch giả Ngọc Châu phát biểu tại buổi tọa đàm "Báo chí
và văn chương cùng hướng tới giá trị nhân văn" thì : "hiểu theo cách chiết tự



18
thì Nhân là Con người, Văn là văn vẻ", "do vậy nhân văn có thể hiểu là
những giá trị đẹp đẽ của con người...".
- Chủ nghĩa nhân văn:
Từ những quan niệm trên, có thể thấy rằng tư tưởng về nhân văn phát
triển thành trào lưu tư tưởng nhân văn, rồi hình thành ra một hệ thống tư
tưởng mang nội dung "đề cao giá trị con người" được gọi là "chủ nghĩa nhân
văn". Chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu tư tưởng và văn hoá thời Phục hưng
ở châu Âu ra đời với mục đích chống Thiên chúa giáo, đề cao con người, giải
phóng cá nhân khỏi sự áp bức của chế độ phong kiến, hướng về cái mới,
chống lại sự thủ cựu của những kẻ bóc lột, chống lại sự xuống cấp đạo đức
trong xã hội và của cả tầng lớp tăng lữ. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa nhân
văn Phục hưng được kết tinh trong khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái".
Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam suốt 4000 năm lịch sử có tư tưởng cốt lõi đó là
chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng nhân nghĩa. Ở thời đại mới, chủ nghĩa nhân
văn Việt Nam có những nét tiến bộ hơn từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời lãnh đạo cho đến ngày nay gọi là chủ nghĩa nhân văn cách mạng mà tiêu
biểu nhất là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Quá trình xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội gọi là chủ nghĩa nhân văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ
nghĩa nhân văn trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội bao hàm cả vấn đề:
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho tất cả nhân dân. Chủ
nghĩa nhân văn này bao hàm cả vấn đề dân chủ, vấn đề công bằng
xã hội, bao hàm cả giải phóng cá nhân và cộng đồng, xóa bỏ nghèo
đói tiến lên giàu mạnh văn minh. hướng tới tôn trọng tự do và phát
triển toàn diện con người… [37, tr.17].
- Tính nhân văn:
Khái niệm nhân văn hay tư tưởng nhân văn đều chung quy bao hàm một
nội dung xem con người là một chủ thể văn hoá, xem trọng con người, coi
trọng tự do và vai trò cá nhân của con người trong xã hội.



19
Ở Phương Tây thường đồng nhất khái niệm nhân văn với nhân đạo.
Thuật ngữ Humanism (Anh), Humanisme (Pháp) và Gumanizm (Nga) có
nghĩa chung là nhân văn = nhân đạo. Tuy nhiên, nhân văn được phương Đông
dùng có nội dung là văn hoá, giáo hoá. Còn nhân đạo là khái niệm nhằm biểu
hiện phẩm chất con người với tư cách một chủ thể nhân ái.
Như vậy có thể hiểu “nhân văn”: là mang những nét đặc trưng thuộc
bản chất của con người kết hợp với nó là có tri thức văn hóa, văn minh.
Những thuộc tính của nhân văn bao gồm:
- Có trí tuệ, có tri thức và khát vọng vươn lên.
- Có tình yêu thương đồng loại, hiểu biết và quý trọng con người.
- Có văn hóa, biết tích lũy kinh nghiệm sống và phát triển chúng để trở
thành văn minh.
1.1.2.2. Tính nhân đạo và quan hệ giữa tính nhân đạo với tính nhân
văn trong các chương trình truyền hình nhân đạo
- Tính nhân đạo: Theo Từ điển Tiếng Việt, nhân đạo thuộc về “đạo đức”,
“thể hiện tình thương yêu và ý thức tôn trọng giá trị, phẩm chất của con người”.
Giá trị nhân đạo là những giá trị vừa có tính riêng tương ứng với lập
trường xã hội và quyền lợi của từng giai cấp, đặc điểm của từng chế độ xã
hội, vừa mang tính chung toàn nhân loại như: lòng từ thiện, đức tinh hy sinh
vì hạnh phúc và sinh mạng của người khác, sự xót thương trước những nỗi
khổ đau cụ thể của đồng loại...
- Quan hệ giữa tính nhân đạo và nhân văn trong các chương trình
truyền hình nhân đạo:
Theo tác giả Nguyễn Văn Dững: "trong cuộc sống cũng như trong văn
học và báo chí, các khái niệm tính nhân đạo, tính nhân văn và tính nhân loại
có cùng phạm trù ngữ nghĩa, nhưng biểu hiện ở các cấp độ và sắc thái ngữ
nghĩa khác nhau" [8, tr.232]. Nhân đạo nói chung có thể hiểu "là những phẩm

chất đạo đức ở nhận thức, thái độ và hành vi sự thương yêu, quý trọng, chăm


×