Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Luận văn thạc sĩ báo chí học tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp của các đài phát thanh và truyền hình khu vực tây nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 159 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TỔ CHỨC SẢN XUẤT
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TRỰC TIẾP
CỦA CÁC ĐÀI PT-TH KHU VỰC TÂY NAM BỘ HIỆN NAY
(Khảo sát các Đài Trà Vinh, Vĩnh Long và An Giang
6 tháng cuối năm 2014)
Ngành

: Báo chí học

Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS.

CẦN THƠ - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoa luận văn “Tổ chức sản xuất chương trình truyền
hình trực tiếp của các đài Phát thanh và Truyền hình khu vực Tây Nam bộ
hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu trong


luận văn là trung thực; những kết luận của luận văn chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan: các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được
trích dẫn rõ nguồn gốc. Tôi xin chịu trách nhiệm đối với luận văn của
mình.

Cần Thơ, ngày 01 tháng 9 năm 2015
Tác giả


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Học viện Chính trị khu vực IV; quí
thầy, cô của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. ; cám ơn các anh, chị đồng
nghiệp của các đài PT - TH: Trà Vinh, An Giang, Vĩnh Long đã cộng tác trả
lời phỏng vấn giúp tôi hoàn thành luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn các
cơ quan, đơn vị và gia đình đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành
luận văn.
Luận văn này chắc chắn cũng còn một số thiếu sót về mặt kiến thức
cũng như kỹ thuật văn bản. Rất mong được sự đóng góp chân thành của quý
thầy cô và đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Tác giả luận văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang


Chương 1: MỘT SỐ VẤN LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤTCHƯƠNG

1
10

TRÌNH TRUYỀN HÌNH TRỰC TIẾP

1.1 Một số khái niệm liên quan
1.2. Điều kiện đẻ tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp
1.3. Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp trên đài Phát

10
18
26

thanh truyền hình địa phương
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH

33

TRUYỀN HÌNH TRỰC TIẾP CỦA CÁC ĐÀI PHÁT THANH
VÀ TRUYỀN HÌNH: TRÀ VINH, VĨNH LONG VÀ AN GIANG

2.1. Truyền hình với khán giả khu vực Tây Nam bộ
2.2. Khảo sát tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp các đài

33
41


Phát thanh và truyền hình: Trà Vinh, Vĩnh Long và An Giang
2.3. Thành công và hạn chế của tổ chức sản xuất chương trình truyền

69

hình trực tiếp các đài Phát thanh và Truyền hình Tây Nam bộ
Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG

79

CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC SẢN XUÁT CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH TRỰC TIẾP CỦA CÁC ĐÀI PHÁT THANH
VÀ TRUYỀN HÌNH TÂY NAM BỘ

3.1. Những vấn đề đặt ra
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất chương trình

79
82

truyền hình trực tiếp các đài Phát thanh và Truyền hình Tây Nam bộ
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

99
103
107

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTV
CTTH
DCT
PTV
PTTH
THTT

:
:
:
:
:
:

Biên tập viên
Chương trình truyền hình
Dẫn chương trình
Phát thanh viên
Phát thanh và Truyền hình
Truyền hình trực tiếp


TH

:

Truyền hình


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH


Bảng 1.1: Tỷ lệ dân số đi học chung năm 2010
Bảng 1.2: Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 và năm 2011 theo chuẩn mới của

Trang
40

Chính phủ giai đoạn 2011 - 2015

41

Hình 1.1: Phim trường Đài PT-TH Trà Vinh
Hình 1.2: Sơ đồ hệ thống xe truyền hình lưu động

26
65


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự ra đời khá muộn so với các loại hình báo chí khác lại là một lợi thế
của loại hình báo chí truyền hình. Ngày nay, truyền hình là một trong những
phương tiện truyền thông đại chúng lôi cuốn sự chú ý của đông đảo công
chúng bởi khả năng thông tin trực quan sinh động bằng hình ảnh và âm thanh.
Những khái niệm truyền thông, báo chí, truyền hình đang dần trở thành quen
thuộc, vai trò của nó đối với đời sống xã hội là không thể phủ nhận được. Nó
gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và tiếp thu được các đặc điểm
của các loại hình nghệ thuật và báo chí khác. Hiện nay, sóng truyền hình có
mặt ở khắp nơi và tần xuất của nó không còn giới hạn, cùng với sự phát triển

của công nghệ nghe nhìn, truyền hình có bước tiến vĩ đại, từ phát sóng kỹ
thuật kỹ thuật Analog đã chuyển dần sang phát sóng kỹ thuật số ( Digital)
Ngoài việc cải thiện đáng kể về chất lượng âm thanh và hình ảnh, tư duy sản
xuất chương trình cũng có những bước thay đổi đáng kể. Từ việc phát sóng
những chương trình được ghi từ trước dần dần truyền hình đã xuất hiện các
chương trình với nội dung được phát sóng trực tiếp. Truyền hình trực tiếp
đang trở thành một hướng chính trong cấu trúc các chương trình phát sóng
của nhà đài bởi bản chất sâu xa của thông tin là tăng tính tương tác với công
chúng
Truyền hình trực tiếp là một dạng chương trình phát thẳng trên sóng
truyền hình không qua khâu dựng hậu kỳ. Trong truyền hình trực tiếp, công
chúng xem sự kiện, được sống cùng sự kiện, được tham gia sự kiện. Đây là
yếu tố sống còn của truyền hình. Truyền hình trực tiếp thể hiện được ưu thế
vượt trội của báo hình: thông tin tức thời, khách quan, trung thực. Truyền
hình trực tiếp đã đánh đúng vào tâm lý về tư duy trực quan, nhìn thực và tin
vào những cái gì cụ thể của công chúng. Truyền hình trực tiếp đã đảm bảo
được lợi ích của công chúng là được chứng kiến, tiếp nhận các sự kiện kinh


2
tế, chính trị, văn hóa xã hội vừa xảy ra; đem lại cho công chúng cảm giác
chân thực, sống động được trực tiếp sống cùng sự kiện, tham gia vào sự kiện.
Đây chính là một trong những nhu cầu của công chúng đối với các phương
tiện thông tin đại chúng nói chung và truyền hình trực tiếp nói riêng. Từ đó,
truyền hình trực tiếp đang thực sự phát huy thế mạnh của báo chí, tác động,
hình thành và định hướng một cách tích cực dư luận xã hội.
Ngày nay, với sự tiến bộ trong truyền thông, truyền hình không còn bị hạn
chế gói gọn phát sóng đơn thuần chỉ ở một địa phương hay một quốc gia, mà
nó còn phủ sóng vươn xa ở khắp mọi miền đất nước hay cả trên thế giới
thông qua vệ tinh. Cho nên tính thành công hay thất bại của một buổi truyền

hình trực tiếp có ý nghĩa rất quan trọng và nó phụ thuộc vào mức độ hài hòa,
đồng bộ trong phối hợp 2 yếu tố kỹ thuật và nội dung. Tuy nhiên, để có một
chương trình truyền hình trực tiếp phát sóng với chất lượng tốt, đặc biệt
“thông sóng” không xảy ra một sự cố nào trong suốt quá trình phát sóng đòi
hỏi ê kip sản xuất phải có sự chuẩn bị công phu bởi một khi đã phát sóng
trên truyền hình phải hạn chế tối đa trong việc để xảy ra sai xót. Tùy mỗi
chương trình quy mô lớn hay nhỏ mà số lượng thành viên thực hiện chương
trình là nhiều hay ít. Một chương trình truyền hình, đặc biệt là chương trình
truyền hình trực tiếp, mỗi thành viên đều là một mắt xích quan trọng làm nên
thành công của chương trình. Trong mỗi chương trình truyền hình trực tiếp,
các khía cạnh của chương trình luôn được khai thác tối đa tính cẩn trọng để
có được sự chính xác. Từ việc lựa chọn sự kiện, thực hiện chương trình đến
khâu biên tập nội dung… vai trò của từng thành viên trong ekip từ đạo diễn,
biên tập, MC đến trợ lý… được xác định rõ ràng với sự kết hợp một cách hài
hòa để tạo ra một chương trình chất lượng. Chương trình truyền hình trực
tiếp đưa người xem đến với một thế giới chân thực, sống động ở từng giờ lên
sóng thông qua màn ảnh nhỏ, ngày càng chiếm lĩnh thị trường trong lĩnh vực
truyền thông và mang tính xu thế của truyền hình hiện đại. Chính vì sự hấp


3
dẫn và hiệu quả của chương trình lớn như vậy nên hiện nay ở Việt Nam, rất
nhiều đài truyền hình từ Trung ương đến địa phương đều rất quan tâm và
tích cực trong khai thác dạng chương trình này.
Với khu vực Tây Nam Bộ, tính thuyết phục và hiệu quả tuyên truyền bằng
phương thức truyền hình trực tiếp lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Do đó, các
chương trình truyền hình trực tiếp rất phù hợp với tâm lý và thói quan tiếp nhận
thông tin của người dân Tây Nam Bộ.

Nhưng thực tế, chất lượng các chương trình THTT nói chung và những

hạn chế trong việc tổ chức sản xuất các chương trình THTT nói riêng là
điều đáng được quan tâm nghiên cứu. Riêng việc tổ chức sản xuất chương
trình THTT khu vực Tây Nam Bộ lại có những hạn chế như cách chọn sự
kiện sao cho hấp dẫn, sinh động, đội ngũ nhân sự, ê kíp thực hiện chương
trình phối hợp như thế nào, trang thiết bị kỹ thuật có đáp ứng được công
việc sản xuất hay không, yếu tố kinh phí như thế nào… Vậy làm thế nào
để có một chương trình hay, đạt chất lượng, phù hợp với nhu cầu công
chúng khán giả, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức sản
xuất. Tổ chức sản xuất chặt chẽ, đồng bộ, từng thành viên trong ê kíp làm
việc với tinh thần trách nhiệm cao sẽ mang đến thành công cho chương
trình THTT. Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình là hoạt động quan
trọng trong việc thực hiện các chương trình truyền hình nói chung trong đó có
chương trình THTT, vì thế việc hiểu được công tác tổ chức sản xuất chương
trình THTT là vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả thực hiện đề tài: “Tổ chức sản
xuất chương trình truyền hình trực tiếp của các Đài Phát thanh và Truyền
hình khu vực Tây Nam Bộ” để làm luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Báo chí,
với hy vọng sẽ đóng góp được những bài học kinh nghiệm quí báu để nâng
cao chất lượng chương trình THTT ở các đài khu vực Tây Nam Bộ.


4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cơ sở dữ liệu ban đầu để nghiên cứu về Tổ chức sản xuất chương trình
truyền hình trực tiếp có nhiều sách, luận văn, khóa luận, bài viết, các đề tài
nghiên cứu khoa học của các tác giả đề cập về lĩnh vực truyền hình, bao gồm
hệ thống cơ sở lý luận chuyên ngành, tài liệu cơ bản về quy trình và kỹ năng
sản xuất tác phẩm. Sau đây chúng tôi xin được tóm tắt nội dung những tài liệu
có liên quan đến đề tài (theo trình tự thời gian) có thể điểm một số nghiên cứu
sau đây:

+ Về sách có các công trình:
- “Truyền thông đại chúng” của Tạ Ngọc Tấn, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2001. Trong đó, có chương 3 đề cập kỹ thuật sản xuất
chương trình truyền hình. Đây là một trong những quyển sách cung cấp
những lý luận và kiến thức cơ sở để tác giả nghiên cứu về tổ chức sản xuất
các chương trình THTT khu vực Tây Nam Bộ.
- “Sản xuất chương trình truyền hình”, Trần Bảo Khánh, Nhà xuất bản
Văn hóa - Thông tin, Hà nội 2003, chỉ đề cập phương pháp sản xuất các
chương trình truyền hình mà tác giả chưa xoáy sâu vào việc làm sao để tổ
chức sản xuất chương trình truyền hình chất lượng.
- “Giáo trình Công nghệ sản xuất chương trình truyền hình”, của Ths.
Phạm Thị Sao Băng, Trường Cao đẳng Truyền Hình, VTV, Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 2005. Mục 6 chương 3 của giáo trình đề cập
công nghệ sản xuất chương trình THTT bao gồm: Đặc điểm của truyền
hình,THTT các chương trình văn nghệ, ca nhạc, giải trí. THTT các cuộc thi
đấu thể thao. THTT các cuộc thi đấu thể thao có sử dụng Camera di động.
Công nghệ sản xuất cầu truyền hình.
- “Giáo trình báo chí truyền hình” của Dương Xuân Sơn, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia, Hà Nội 2009. Các nội dung chính liên quan đến THTT
được tác giả đề cập là: sản xuất chương trình THTT. Vai trò của các chương


5
trình THTT. Đặc điểm của chương trình cầu truyền hình. Quá trình chuẩn bị
một chương trình cầu truyền hình .Thực hiện ghi hình và phát sóng.
+ Về luận văn thạc sỹ:
Những năm gần đây đã có một số luận văn Thạc sỹ đề cập đến những
hoạt động của ngành PT-TH ở trung ương và địa phương nước ta. Cụ thể, có
một số tác giả sau đây:
- “Tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình ở Đài Phát thanh Truyền hình Đồng Tháp”, luận văn Thạc sỹ của Dương Thị Thanh Hương,

thực hiện năm 2004 tại Phân viện Báo chí - Tuyên truyền thuộc Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung của đề tài bàn về cách thực hiện,
TCSX chương trình thời sự phát sóng bình thường, chứ chưa đề cập đến việc
TCSX chương trình thời sự được phát sóng trực tiếp.
- Mai Vũ Tuấn, “Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp tại
các Đài Phát thanh - Truyền hình khu vực Đông Bắc”, Luận văn Thạc sỹ
chuyên ngành Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2008 (Khảo
sát tại các Đài PT-TH Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương từ 01/2007 đến
06/2008). Tác giả cũng đề cập đến việc tổ chức sản xuất và việc nâng cao chất
lượng một chương trình THTT. Trong đó tác giả cũng đã giải quyết được các
vấn đề về lý luận và thực tiễn của quy trình TCSX. Tuy nhiên phạm vi khảo
sát của đề tài là khu vực các tỉnh Đông Bắc, Việt Nam. Nội dung của luận văn
này chỉ dừng lại ở lý thuyết thực tiễn khu vực Đông Bắc Bộ.
- “Nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình trực tiếp trên Đài
Truyền hình Quốc gia Lào”. Luận văn Thạc sỹ truyền thông đại chúng chuyên
ngành Báo chí học của của Houm Phaeng Vilayphone, thực hiện năm 2010 tại
Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Trong đó đã giải quyết được các vấn đề lý
luận và thực tiễn của qui trình TCSX; Các dạng chương trình THTT; Điều
kiện để thực hiện chương trình THTT.. Tuy nhiên phạm vi khảo sát của 2 luận
văn này tập trung ở các Đài PT-TH khu vực Đông Bắc và Đài Truyền hình


6
Quốc gia Lào. Nội dung của luận văn này chỉ dừng lại ở chất lượng các
chương trình.
- “Nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình trực tiếp trên đài
Truyền hình Việt Nam” của tác giả Phùng Thị Phúc (năm 2004). Tác giả chỉ
đề cập đến hiệu quả và phương pháp nâng cao chất lượng chương trình THTT
trên sóng VTV.
Nhìn chung, những luận văn cũng đề cập đến các chương trình truyền

hình trực tiếp. Tuy nhiên, mỗi đề tài phản ánh ở những khía cạnh khác nhau.
Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về “Tổ chức sản
xuất chương trình truyền hình trực tiếp của Đài Phát thanh và Truyền hình
khu vực Tây Nam Bộ”. Vì vậy, có thể nói đây là đề tài mới, không trùng lặp
với bất cứ đề tài nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn thực hiện khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động
tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình trực tiếp của đài PT-TH khu
vực Tây Nam bộ hiện nay, cụ thể là các đài: Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang.
Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất
các chương trình truyền hình trực tiếp của các đài.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả xây dựng nhiệm vụ như sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết liên quan đến sản xuất chương trình
truyền hình và tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp.
- Khảo sát, thống kê, phân tích, đánh giá thực trạng việc tổ chức sản xuất
các chương trình truyền hình trực tiếp tại một số đài trong khu vực.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức sản
xuất các chương trình THTT của đài PT-TH khu vực Tây Nam Bộ hiện nay.


7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tổ chức sản xuất các chương trình
truyền hình trực tiếp của một số Đài PT-TH ở khu vực Tây Nam bộ, cụ thể là
các đài: Trà Vinh, Vĩnh Long và An Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các chương trình THTT của các đài PTTH các tỉnh Trà Vinh,Vĩnh Long và An Giang trong 06 tháng cuối năm 2014

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Vận dụng lý thuyết về truyền thống đại chúng, Lý thuyết về các loại
hình báo chí; Lý thuyết về thể loại báo chí truyền hình, các vấn đề lý thuyết
về tâm lý học, tâm lý tiếp nhận báo chí. Các văn bản của Đảng, Nhà nước về
công tác báo chí, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề
kinh tế văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh, về chính sách công nghiệp hóa
hiện đại hóa nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Căn cứ vào tôn chỉ, mục đích
của cơ quan, căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của Đài PT-TH địa phương được
Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh giao.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp quan sát: quan sát thực tế hoạt động tổ chức sản xuất
chương trình THTT của các đài trong khu vực miền Tây Nam bộ. Cụ thể là
đài PT-TH Vĩnh Long. Trà Vinh, An Giang để có nhận định việc tổ chức sản
xuất so với lý thuyết về tổ chức sản xuất chương trình với thực tế đồng thời
ghi nhận năng lực cũng như những ưu điểm và hạn chế trong quá trình tổ
chức sản xuất.


8
- Phương pháp so sánh: So sánh chỉ tiêu số lượng chương trình qua các
năm, so sánh giữa các đài khu vực Tây Nam Bộ và các đài khác. Phương pháp
này được sử dụng nhằm tìm ra điểm chung, thế mạnh và khiếm khuyết của
các chương trình truyền hình trực tiếp mà đề tài khảo sát.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: thu thập 15 ý kiến của Ban Giám đốc,
trưởng, phó các phòng thuộc và một số đài PT-TH khác, những người tham
gia SX các chương trình THTT của các đài PT-TH trong khu vực Tây Nam
bộ để thu thập các ý kiến về chất lượng, qui trình, công tác tổ chức sản xuất

chương trình THTT nhằm đánh giá chung về công tác tổ chức sản xuất cũng
như những thành công và hạn chế của nó.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đề xuất khung lý thuyết về tổ chức sản xuất chương trình
truyền hình trực tiếp trên truyền hình địa phương, làm phong phú hơn lý luận
báo truyền hình về chương trình truyền hình và tường thuật truyền hình trực
tiếp. Khẳng định vai trò của THTT ở các đài truyền hình địa phương hiện nay.
Luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho những người quan tâm
đến đề tài, gợi mở hướng nghiên cứu để tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức sản xuất của các chương trình truyền hình.
6.2. Giá trị thực tiễn
Đề tài là cơ sở để các đài PT-TH khu vực Tây Nam bộ có cơ sở khoa
học đáng tin cậy để cải tiến tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực
tiếp, từ đó nâng cao chất lượng các chương trình THTT. Đề tài có giá trị ứng
dụng trực tiếp, sẽ góp phần cùng với Đảng bộ, Chính quyền thực hiện tốt
nhiệm vụ tuyền truyền về sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển các tỉnh.


9
7. Đóng góp mới của đề tài
Trong bối cảnh Truyền hình có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu
cầu và khả năng thẩm định của khán giả ngày càng cao thì các đài PT - TH
phải không ngừng nâng cao chất lượng chương trinh. Trong đó, nhu cầu
tương tác ngày càng tăng, tính cập nhật, thời sự, nóng là xu hướng của truyền
thông hiện đại, các chương trình truyền hình trực tiếp sẽ giải quyết được
những nhu cầu này. Đóng góp của luận văn là đánh giá được thực tế việc tổ
chức sản xuất các chương trình truyền hình trực tiếp hiện nay tại các đài Trà
Vinh, Vĩnh Long và An Giang nói riêng cũng như các đài trong khu vực hiện
nay nói chung, từ đó đã đề xuất được một số giải pháp để nâng cao chất lượng

tổ chức sản xuất để phục vụ tốt hơn nhu cầu của khán giả đồng thời thu hút
được khán giả, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình cũng vừa
tăng thu hút quảng cáo, thực hiện tự chủ theo lộ trình của chính phủ.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tổ chức sản xuất chương trình
truyền hình trực tiếp
Chương 2: Thực trạng tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực
tiếp của các Đài Phát thanh và truyền hình: Trà Vinh, Vĩnh Long và An Giang
Chương 3: Giải pháp, nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất các chương
trình truyền hình trực tiếp ở đài khu vực Tây Nam Bộ.


10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TRỰC TIẾP
1.1.

Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Tổ chức sản xuất

Theo Từ điển Tiếng Việt, tổ chức là việc sắp xếp, bố trí thành các bộ
phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung
[33, tr.157]. Tổ chức còn là “làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt
động nào đó nhằm có được hiệu quả tốt nhất”.

Hiểu theo nghĩa thông thường, tổ chức là liên kết nhiều người lại để
thực hiện một công việc nhất định. Tổ chức đặt ra để thực hiện nhiệm vụ.

Mỗi tổ chức đều có mục đích, nhiệm vụ riêng.
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt, sản xuất là tạo ra vật phẩm cho xã
hội bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động [33,
tr.342], là hoạt động bằng sức lao động của con người hoặc bằng máy
móc, chế biến các nguyên liệu thành của cải vật chất cần thiết.
Sản xuất hay sản xuất của cải vật chất là hoạt động chủ yếu trong
các hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình làm ra sản phẩm
để sử dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định sản xuất dựa vào
những yếu tố chính sau: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất
cho ai? Giá thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và
khai thác các nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm.
Thuật ngữ sản xuất trước đây chỉ bao hàm việc tạo ra sản phẩm hữu
hình. Sau này nó được mở rộng bao hàm cả việc tạo ra các dịch vụ. Ngày
nay, nói đến sản xuất có nghĩa là không kể việc nó tạo ra sản phẩm hữu
hình hay dịch vụ. Hệ thống sản xuất có các đặc tính:
Một là, hệ thống sản xuất chịu trách nhiệm cung cấp sản phẩm hay


11

dịch vụ cho nhu cầu xã hội.
Hai là, các hình thức sản xuất khác nhau có thể có đầu vào khác

nhau, đầu ra khác nhau, các dạng chuyển hóa khác nhau, song đặc tính
chung của nó là chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành các kết quả đầu ra có
tính hữu dụng, có ích cho đời sống của con người.
Nếu coi sản xuất là một quá trình thì tổ chức sản xuất là các biện
pháp, các phương pháp, các thủ thuật để duy trì mối liên hệ và phối hợp
hoạt động của các cá nhân, các bộ phận cùng tham gia vào quá trình sản
xuất đó một cách hợp lý theo thời gian.

Nếu coi sản xuất là một trạng thái thì tổ chức sản xuất là các
phương pháp, các thủ thuật nhằm hình thành các bộ phận sản xuất có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau và phân bổ chúng một cách hợp lý về mặt không
gian.
Để tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm, đầu tiên cần phải phân chia
quá trình sản xuất tạo nên sản phẩm thành các quá trình riêng. Căn cứ vào
phương pháp, kỹ năng khác nhau, dựa trên lao động máy móc sẽ hình
thành nên loại hình sản xuất, cơ cấu sản xuất, lập kế hoạch sản xuất và tổ
chức công tác điều phối sản xuất.
Như vậy có thể hiểu, tổ chức sản xuất là làm những gì cần thiết để
liên kết những người lao động, các quy trình lao động để tạo ra vật phẩm,
đáp ứng nhu cầu thiết thực cho xã hội, bằng cách dùng tư liệu lao động tác
động vào đối tượng lao động, trên cơ sở các quy tắc nghề nghiệp và theo quy
trình nhất định. Thực chất của quá trình tổ chức sản xuất là việc phân chia

quá trình sản xuất phức tạp thành các quá trình thành phần (tức là các
bước công việc), trên cơ sở đó áp dụng những hình thức công nghệ, các
biện pháp tổ chức phân công lao động và các phương tiện, công cụ lao
động thích hợp. Trong quá trình đó tìm biện pháp phối hợp hài hòa giữa
các bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất nhằm mục đích đạt hiệu quả


12

cao nhất. Và cuối cùng, tổ chức sản xuất có vai trò quyết định đối với hiệu quả
của quá trình sản xuất.
Trong lĩnh vực truyền thông có thể hiểu việc tổ chức sản xuất là tạo ra,
làm nên các sản phẩm truyền thông. Ví dụ như: Tổ chức sản xuất ra tờ báo in,
chương trình phát thanh, chương trình truyền hình , chương trình Thời sự,
chương trình Chuyên đề.

Qua trao đổi ý kiến với các nhà tổ chức sản xuất chương trình THTT
và đúc rút từ hoạt động thực tiễn của bản thân tác giả đưa ra khái niệm:
Tổ chức sản xuất là hoạt động sử dụng tối đa và hiệu quả các nguồn nhân
lực, trang thiết bị chuyên ngành một cách có kế hoạch và hợp lý, phát huy
mọi khả năng sáng tạo của con người để tạo ra một sản phẩm truyền hình
có chất lượng.
Tổ chức sản xuất là khâu quan trọng trong quá trình hình thành tác phẩm
báo chí. Trong việc sản xuất các chương trình truyền hình tính tập thể được
thể hiện khá rõ ở khâu tổ chức sản xuất. Sản phẩm truyền hình là kết quả của
quá trình lao động của nhiều thành phần tham gia như: Biên tập, phóng viên,
quay phim, âm thanh, ánh sáng... Với những chương trình THTT, đội ngũ
những người tham gia sản xuất chương trình còn đông đảo hơn và ở nhiều vị
trí khác nhau như: Tổng đạo diễn, đạo diễn, trợ lý đạo diễn, tổ chức thực hiện,
quay phim, phụ quay, thư ký, phụ trách trường quay, kỹ thuật viên âm thanh,
ánh sáng, bấm hình…v.v.
Để tạo ra sản phẩm báo chí truyền hình, trước tiên người chịu trách
nhiệm sản xuất chương trình phải đề ra mô hình sản xuất, cách thức sản xuất,
dựa trên nền tảng tri thức chuyên ngành truyền hình và những công cụ sản
xuất. Sau đó, tập hợp một lực lượng lao động có những tiêu chuẩn năng lực
nhất định thường xuyên tham gia sáng tạo; sản phẩm tạo ra là sản phẩm tập
thể, được phổ biến rộng rãi bằng phương tiện nghe nhìn.


13
1.1.2. Chương trình truyền hình

- Khái niệm về “Chương trình: Chương trình là toàn bộ những nội
dung dự kiến hành động theo một trình tự nhất định và trong một thời gian
nhất định. Chương trình còn được định nghĩa là một loạt các hoạt động
được thực hiện với sự hỗ trợ của các nguồn lực nhằm đạt được những mục

tiêu cụ thể cho các nhóm khách hàng, nhóm đối tượng đã được định sẵn.
Để đánh giá chương trình là sự thu thập cẩn thận các thông tin về một
chương trình hoặc một vài khía cạnh của một chương trình để ra các quyết
định cần thiết đối với chương trình.
Tác giả Trần Bảo Khánh trong cuốn Sản xuất chương trình truyền hình
viết: “với sự xuất hiện của phát thanh, sau đó là truyền hình thì cũng xuất
hiện thuật ngữ chương trình. Đây là thuật ngữ mang tính bản chất của
chúng. Có thể đưa ra khái niệm như sau về chương trình: “là kết quả cuối
cùng của quá trình giao tiếp với công chúng” [18, tr.30] và “chương trình
tạo thành chu kỳ khép kín những mắt xích trong chuỗi giao tiếp” [18, tr.31].
- Khái niệm về “Truyền hình”: Là một loại hình truyền thông đại chúng
chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh
đi xa bằng sóng vô tuyến điện.

PGS, TS. Dương Xuân Sơn, trong Tập bài giảng môn Truyền hình của
Khoa Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nêu:
“Truyền hình là một phương tiện thông tin đại chúng truyền đạt thông tin
nhờ phương tiện kỹ thuật đến đối tượng tiếp nhận là người xem. Thông tin
trong truyền hình gồm hình ảnh và âm thanh. Hình ảnh trong truyền hình
có cả hình ảnh động và hình ảnh tĩnh” [27, tr.3].
Trong cuốn Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,
2001 tác giả Tạ Ngọc Tấn cho rằng: “Truyền hình là một loại phương tiện
thông tin đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh.
Nguyên nghĩa của thuật ngữ vô tuyến truyền hình bắt đầu từ hai từ Tele có


14

nghĩa là “ở xa” và Vision nghĩa là “thấy được”, tức là “thấy được ở xa”
[28, tr.143].

Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi
quốc gia. Truyền hình trở thành vũ khí công cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng
văn hóa cũng như lĩnh vực văn hóa, xã hội an ninh, quốc phòng.
Truyền hình bao gồm những đặc điểm sau: Là một loại hình báo chí mới,
là kết hợp giữa thành tựu khoa học công nghệ, truyền thông và nhu cầu thông
tin của xã hội; Hình ảnh sinh động, hấp dẫn tác động trực tiếp vào cảm quan
người xem. Có ưu thế nổi trội trong việc truyền tải cả âm thanh và hình ảnh;
Nó là một phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò to lớn trong việc đáp
ứng nhu cầu của đời sống xã hội.
- Khái niệm về “Chương trình truyền hình”: Là sản phẩm của truyền
hình, là toàn bộ nội dung phát đi trong ngày, trong tuần, trong tháng. Với
nghĩa này nó bao hàm cả quá trình sáng tạo ra một tác phẩm từ nhiều công
đoạn khác nhau. Như vậy, ở góc độ nào đó, chương trình cũng có thể hiểu là
cách gọi cho một sản phẩm hoàn chỉnh. Từ chương trình bao hàm nhiều vấn
đề: nội dung, hình thức thể hiện, đối tượng hướng tới, kết quả đạt được.
Chương trình truyền hình được nhìn nhận từ góc độ tổ chức sản xuất, theo tác
giả Tạ Ngọc Tấn “Chương trình truyền hình là sản phẩm lao động của một tập
thể các nhà báo và cán bộ kĩ thuật, dịch vụ. Đồng thời, đó cũng chính là quá
trình giao tiếp truyền thông giữa người làm truyền hình với công chúng xã
hội” [28, tr.143].
Trong quyển sách “Giáo trình báo chí truyền hình” của tác giả Dương
Xuân Sơn, chương trình truyền hình là “Kết quả truyền hình; trong đó bao
gồm các quá trình sáng tạo ra nó từ nhiều công đoạn và tồn tại ở nhiều mức
độ khác nhau. Quá trình tạo dựng kế hoạch và sắp xếp chương trình gọi là
chương trình truyền hình” [26, tr.115]. Theo quyển sách “Sản xuất chương
trình truyền hình” của tác giả Trần Bảo Khánh thì chương trình truyền hình
đề cập đến các vấn đề của đời sống xã hội không phải một cách ngẫu nhiên


15

như vẫn diễn ra, mà nó thường truyền tải các thông tin từ ngày này qua ngày
khác, nhằm phục vụ một công chúng xác định [18, tr.30].
Như vậy có thể hiểu, chương trình truyền hình là sản phẩm lao động
của một tập thể các nhà báo và các cán bộ kỹ thuật dịch vụ. Đồng thời đó
cũng là quá trình giao tiếp truyền thông giữa những người làm truyền hình
với công chúng xã hội. Chương trình truyền hình là cầu nối giữa công chúng
và những người làm truyền hình. Bất kỳ một chương trình truyền hình nào
cũng hàm chứa những giá trị tư tưởng, văn hóa đặc thù của dân tộc, quốc gia,
giai cấp hay tầng lớp xã hội rộng rãi. Những giá trị này không chỉ được
chuyển tải qua nội dung mà còn biểu hiện cả trong phương pháp sáng tạo và
hình thức thể hiện.
1.1.3. Truyền hình trực tiếp
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, các tác giả cho rằng: “Trực tiếp có quan
hệ thẳng với đối tượng tiếp xúc, không qua khâu trung gian” [33, tr.1352].
Ví dụ: tiếp xúc trực tiếp, bộ phận trực tiếp sản xuất.
Với Từ điển Ngôn ngữ của Pháp, “Trực tiếp” (Direct) có nghĩa là
“Thông suốt, không qua khâu trung gian, ngay lập tức”.
Trên lĩnh vực truyền thông, tính từ trực tiếp (Live) trong tiếng Anh là
một từ phát sinh từ động từ “sống” (to live). Khái niệm trực tiếp trong tiếng
Anh đã bao gồm ý nghĩa sống động tươi mới. Từ nét ý nghĩa này những
chương trình THTT (Programmes on live) luôn được hiểu là những chương
trình có hình thức và nội dung tươi mới và những gì xuất hiện trong chương
trình cũng đang sống động trước mắt khán giả.
Trong lĩnh vực báo chí “trực tiếp” có ý nghĩa là truyền đi một sự kiện tới
công chúng ở thời điểm mà nó đang diễn ra theo tuyến tính thời gian không
qua khâu hậu kỳ. Ví dụ: phát thanh trực tiếp, truyền hình trực tiếp.
Xét từ nội hàm của những quan niệm về trực tiếp và truyền hình trực tiếp
đã nêu trên, chúng ta nhận thấy có một số điểm tương đồng trong quan niệm



16
về THTT. Qua ghi nhận từ quá trình tham khảo tài liệu và trao đổi với các nhà
báo có kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền hình và kinh nghiệm rút ra trong
hoạt động thực tiễn của bản thân, tác giả luận văn xin đề xuất một khái niệm
chung về THTT như sau: “THTT là truyền đi một sự kiện đến công chúng
ngay tại thời điểm nó đang diễn ra theo tuyến tính thời gian không qua một
khâu xử lý trung gian nào. Đây là phương thức phát huy được đầy đủ nhất
thế mạnh của truyền hình và là xu hướng của truyền hình trong kỷ nguyên
mới”.
Khi khán giả xem truyền hình trực tiếp, thời điểm ghi nhận thông tin
cũng là thời điểm diễn ra sự kiện. Diễn biến của sự kiện được tôn trọng gần
như tuyệt đối, đảm bảo tính chân thật cao.
1.1.4. Chương trình truyền hình trực tiếp
Trong tiếng Anh, những chương trình truyền hình trực tiếp được gọi
chung là “live”, có nghĩa là những chương trình phát sóng thẳng, không qua
khâu xử lý hậu kỳ như tác phẩm truyền hình khác. Từ ý nghĩa này, những
chương trình THTT luôn được hiểu là chương trình có hình thức và nội dung
tươi mới, và những gì xuất hiện trong chương trình cũng đang sống động
trước mắt khán giả.
Qua ghi nhận từ quá trình tham khảo tài liệu và trao đổi với các nhà báo
có kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền hình và kinh nghiệm rút ra trong hoạt
động thực tiễn của bản thân, tác giả xin đề xuất khái niệm về chương trình
THTT như sau: “Chương trình truyền hình trực tiếp là chương trình truyền
hình chuyển tải những hoạt động, những sự kiện của cuộc sống một cách
nghệ thuật và có ý đồ của người sản xuất đến với công chúng tiếp nhận một
cách trực tiếp thông qua sóng truyền hình. Quá trình giao tiếp được diễn ra
đồng thời, giữa chủ thể sản xuất chương trình và công chúng tiếp nhận có thể
giao lưu, tương tác với nhau”.



17
Với các chương trình THTT, công chúng có cơ hội nắm bắt thông tin mới
nhất, chính xác nhất và còn có cơ hội thưởng thức những buổi biễu diễn nghệ
thuật, trực tiếp tham gia vào các hoạt động văn hóa, xã hội. Với lợi thế là
truyền tải bằng hình ảnh, có màu sắc, kết hợp âm thanh nhiều cung bậc.
1.1.5. Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp
Tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình trực tiếp được hiểu là:
Quá trình lực lượng lao động có nghiệp vụ truyền hình liên kết nhau bởi
những quy chế tổ chức lao động chặt chẽ để xây dựng kế hoạch, kịch bản
chương trình, điều hành đội ngũ sản xuất chương trình; nhằm tạo ra một loại
sản phẩm báo chí được công luận đặc biệt quan tâm, có khả năng đáp ứng
các yêu cầu: thông tin đồng thời với sự kiện đang diễn ra, trọn vẹn, chính
xác.
1.1.6. Đặc điểm của tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực
tiếp
Từ các khái niệm trên, có thể thấy được đặc điểm của việc tổ chức
sản xuất chương trình THTT là:

- Tổ chức sản xuất chương trình THTT phải được thực hiện trên các
phương diện: tổ chức về mặt sản xuất bao gồm tổ chức sản xuất về nội dung
đến hình thức tức là từ thông tin đến nhân sự, phương tiện kỹ thuật, kinh phí
để có thể sản xuất ra các chương trình mang thông tin trực tiếp đến khán giả
thông qua sóng truyền hình.

- Việc tổ chức chương trình THTT, nội dung phải được tổ chức một
cách đặc thù từ khâu kịch bản đến khâu biên tập. Kết cấu chương trình phải
được sắp xếp theo các trình tự nhất định mà kịch bản đã đề ra, nhằm tạo ra
một loại sản phẩm báo chí được công luận đặc biệt quan tâm, có khả năng
đáp ứng các yêu cầu: thông tin đồng thời với sự kiện đang diễn ra, trọn vẹn,
chính xác


- Lực lượng phụ trách thực hiện tổ chức chương trình THTT là đội


18
ngũ đạo diễn, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên, dẫn chương trình có
chuyên môn nghiệp vụ báo chí. Đó là những nhà báo có lòng nhiệt tình, yêu
nghề, có trách nhiệm và giàu kinh nghiệm làm việc.

- Cách thức quản lý, sắp xếp công việc cho các cá nhân, nhân sự các
phòng ban tham gia sản xuất chương trình THTT phải hết sức chú trọng, phù
hợp với năng lực của từng cá nhân và lĩnh vực chuyên môn của từng vị trí
đảm nhận. Người làm công tác tổ chức chương trình THTT phải có đầu óc
quyết đoán, đánh giá, tổng hợp, biết khai thác những gì là bản chất của vấn
đề, đưa ra nhận định, xác đáng, nhanh chóng, chính xác và kịp thời.
1.1.7 . Các yếu tố cấu thành tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực
tiếp

Để sản xuất được một chương trình THTT, việc tổ chức sản xuất
bao gồm các yếu tố sau:
- Tổ chức nhân sự, nhân lực và kinh phi.
- Tổ chức hệ thống trang thiết bị, kỹ thuật.
- Tổ chức sản xuất nội dung.
Tương tự như mọi quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm khác, việc tạo ra
một chương trình THTT đòi hỏi phải có yếu tố đầu vào, đầu ra, nhân sự và
các trang thiết bị, khoa học công nghệ được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm.
1.2. Điều kiện để tổ chức chương trình truyền hình trực tiếp
1.2.1. Tổ chức nhân sự, nhân lực thực hiện chương trình truyền
hình trực tiếp.
-Tổ chức nhân sự:

Về mặt khái niệm, nhân sự được hiểu là người làm công việc nào đó ở cơ
quan hoặc một nơi có tổ chức. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều gắn liền với một
phương thức sản xuất nhất định. Dù ở bất cứ xã hội nào thì vấn đề mấu chốt của
quá trình sản xuất cũng là tổ chức nhân sự. Một doanh nghiệp dù có nguồn tài
chính dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú, hệ thống máy móc thiết bị hiện đại


19
như thế nào đi chăng nữa cũng sẽ trở nên vô ích, nếu không biết hoặc sử dụng
kém nguồn tài nguyên nhân sự.

Để tổ chức nhân sự khoa học, hiệu quả người sản xuất cần thực
hiện những nhiệm vụ sau:
- Tổ chức và sử dụng nhân sự một cách có kế hoạch và hợp lý
nhằm đảm bảo tiết kiệm nhân sự, đồng thời sử dụng tối đa và hiệu quả các
nguồn nhân lực khác, không ngừng tăng năng suất lao động.
- Xây dựng trong đơn vị mối quan hệ công tác giữa người và người,
giữa người với tư liệu sản xuất hợp lý để quá trình sản xuất đạt hiệu quả
cao.
- Không ngừng cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo cho sản xuất
an toàn, bảo vệ sức khỏe, ngăn chặn bệnh nghề nghiệp, nâng cao đời sống
vật chất lẫn tinh thần cho người lao động.
- Có chính sách khuyến khích phát huy mọi khả năng sáng tạo của
lực lượng lao động.
Nhân sự của một ekip thực hiện chương trình truyền hình, đặc biệt
là chương trình THTT có nhiều bộ phận như bộ phận kỹ thuật (âm thanh,
ánh sáng, thiết kế,..), bộ phận sản xuất (nhà sản xuất, quản lý sản xuất, đạo
diễn, quay phim, biên kịch dẫn chương trình).
Một chương trình truyền hình nói chung, chương trình THTT nói
riêng không phải là sản phẩm của cá nhân nào mà là sản phẩm của tập thể.

Đây là điểm khác biệt của truyền hình so với các tác phẩm báo in, báo
mạng. Người làm báo in, báo mạng có thể tự thân độc lập đi viết bài, chụp
ảnh, biên tập rồi nộp cho người duyệt bài và đăng bài. Nhưng để sáng tạo
một chương trình truyền hình thì phải có nhiều khâu, mỗi khâu cần sự tham
gia của một bộ phận nhân sự như biên tập, quay phim, kỹ thuật... Đặc biệt,
đối với các chương trình truyền hình trực tiếp, vai trò của các bộ phận nhân
sự là ngang nhau, nếu thiếu bộ phận nào thì không thể đảm bảo phát sóng


×